Quan hệ quốc tế vào cuối những năm 1990 của thế kỷ 20 và những năm 1990 của thế kỷ 20 và những năm đầu thế kỷ 21 có những diễn biến bất ngờ. Việc xác lập vị thế chính trị bằng chiến tranh truyền thống đã không được ưu tiên sử dụng như trước. Các chủ thể tham gia quan hệ quốc tế trong thời gian này không đơn thuần tìm kiếm vị thế bá chủ thế giới bằng con đường quân sự mà có sự kết hợp với các sức mạnh khác. Nhật Bản vốn là một cường quốc quân sự theo ý mình mà phải trong khuôn khổ pháp lý quốc gia và quốc tế.
Sau chiến tranh, Nhật Bản là nước bại trận, kinh tế bị kiệt quệ, vị thế chính trị bị suy giảm. Cảm nhận thấm thía được những mất mát, do chiến tranh mang lại, kể từ sau đại chiến thế giới hai, Nhật Bản đã chọn con đường phát triển đất nước theo đường lối hoà bình. Nước Nhật cam kết từ bỏ chiến tranh, không duy trì quân đội, mà chỉ duy trì lực lượng phòng vệ. Theo đường hướng này, những thập kỷ sau Nhật Bản đã vươn lên trở thành một cường quốc kinh tế, trở thành một trong ba trung tâm - tài chính lớn nhất thế giới cùng với Mỹ và liên minh châu Âu (EU). Tuy nhiên Nhật Bản lại không có được vị thế chiến tranh tương xứng với tiềm lực kinh tế hùng mạnh của mình. Vì vậy, trong thời gian gần đây, Nhật Bản đã và đang nỗ lực để trở thành “quốc gia bình thường” như các quốc gia khác trên thế giới.
Xuất phát từ thực tế đó, với mong muốn tìm hiểu tại sao khi Nhật Bản đã là một “chàng khổng lồ” về kinh tế mà về phương diện chính trị lại là “chú lùn”? Và để khắc phục được tình trạng này, Nhật Bản đã và đang có chiến lược gì? Tại sao Nhật Bản phải tìm kiếm vị thế chính trị mới? Để tìm kiếm vị thế đó, Nhật Bản đã sử dụng các phương thức nào?
75 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1416 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ hợp tác thương mại giữa Mexico và Liên minh châu Âu EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quan hệ quốc tế vào cuối những năm 1990 của thế kỷ 20 và những năm 1990 của thế kỷ 20 và những năm đầu thế kỷ 21 có những diễn biến bất ngờ. Việc xác lập vị thế chính trị bằng chiến tranh truyền thống đã không được ưu tiên sử dụng như trước. Các chủ thể tham gia quan hệ quốc tế trong thời gian này không đơn thuần tìm kiếm vị thế bá chủ thế giới bằng con đường quân sự mà có sự kết hợp với các sức mạnh khác. Nhật Bản vốn là một cường quốc quân sự theo ý mình mà phải trong khuôn khổ pháp lý quốc gia và quốc tế.
Sau chiến tranh, Nhật Bản là nước bại trận, kinh tế bị kiệt quệ, vị thế chính trị bị suy giảm. Cảm nhận thấm thía được những mất mát, do chiến tranh mang lại, kể từ sau đại chiến thế giới hai, Nhật Bản đã chọn con đường phát triển đất nước theo đường lối hoà bình. Nước Nhật cam kết từ bỏ chiến tranh, không duy trì quân đội, mà chỉ duy trì lực lượng phòng vệ. Theo đường hướng này, những thập kỷ sau Nhật Bản đã vươn lên trở thành một cường quốc kinh tế, trở thành một trong ba trung tâm - tài chính lớn nhất thế giới cùng với Mỹ và liên minh châu Âu (EU). Tuy nhiên Nhật Bản lại không có được vị thế chiến tranh tương xứng với tiềm lực kinh tế hùng mạnh của mình. Vì vậy, trong thời gian gần đây, Nhật Bản đã và đang nỗ lực để trở thành “quốc gia bình thường” như các quốc gia khác trên thế giới.
Xuất phát từ thực tế đó, với mong muốn tìm hiểu tại sao khi Nhật Bản đã là một “chàng khổng lồ” về kinh tế mà về phương diện chính trị lại là “chú lùn”? Và để khắc phục được tình trạng này, Nhật Bản đã và đang có chiến lược gì? Tại sao Nhật Bản phải tìm kiếm vị thế chính trị mới? Để tìm kiếm vị thế đó, Nhật Bản đã sử dụng các phương thức nào?
Trong bối cảnh quốc tế hoà bình, hợp tác, các quốc gia không ngừng tập trung phát triển kinh tế. Việc Nhật Bản tìm kiếm vị thế chính trị mới có tác động như thế nào tới quan hệ quốc tế và đặc biệt tới sự phát triển của Việt Nam? Đó là những vấn đề lớn đang đặt ra dv các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính trị và những người làm công tác đối ngoại đòi hỏi cần có sự giải quyết thoả đáng. Trên thực tế đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, cũng như các chính sách và phương thức Nhật Bản đang áp dụng như:P Trên báo Sài Gòn Giải phóng số ra ngày 23/11/2000 có đăng bài “Nhật Bản trở thành uỷ viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc” của tác giả Mai Ngọc. Bài báo đã đề cập thời điểm Nhật Bản thể hiện rõ mong muốn nâng cao vai trò của mình và phương thức hành động, cũng như thái độ của một số nước và tổ chức trước nỗ lực của Nhật Bản trong việc trở thành uỷ viên thường vụ của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Hay như trên báo tin tức, trong mục Thếgiới sự kiện vớitiêu đề “Nhật Bản tìm kiếm vị thế cường quốc trong thế kỷ 21” với ba số liền ra các ngày 19, 21, 22/1/2002 đã nêu lên khái quát các phương thức Nhật Bản đã và đang tiến hành để tìm kiếm vị thế cường quốc trong thế kỷ mới. Đặc biệt sau sự kiện khủng bố tấn công vào nước Mỹ có rất nhiều bài viết, bài nghiên cứu về chính sách đối ngoại và mục tiêu của Nhật Bản trong thế kỷ mới. Điển hình là cuốn “Trật tự thế giới sau 11-9” của Nhà xuất bản Thông tấn, Hà Nội, năm 2002 cũng đã phân tích việc “Nhật Bản tìm kiếm vị thế cường quốc trong môi trường an ninh quốc tế mới”. Tiếp đến là Bài viết của TS Ngô Xuân Bình - Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản với tiêu đề “Điều chỉnh chính sách đối ngoại của Nhật Bản và tác động tới quan hệ Việt Nam - Nhật Bản” đăng trên tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 4, năm 2003. Bài viết đã đề cập tới phạm vi điều chỉnh của chính sách đối ngoại của Nhật Bản và tác động của nó.
Ngoài ra còn có nhiều bài nghiên cứu khác như: “Xu hướng phát triển chiến lược ngoại giao Nhật Bản trong thế kỷ mới” của Thông tấn xã Việt Nam, trong tài liệu tham khảo đặc biệt số ra tháng 2/2005. Bài viết đã phân tích một cách chi tiết bối cảnh, cũng như các hành động cụ thể của Nhật Bản như: “Vì sao Nhật Bản tăng cường mở rộng trang bị quân sự?” Tài liệu tham khảo đặc biệt ra ngày 16-9-2005 của Thông tấn xã Việt Nam. Trong tài liệu tham khảo đặc biệt ra ngày 27/10/2005 của Thông tấn xã Việt Nam có bài “Nhật Bản với chiến lược “nước bình thường”, nhấn mạnh đến mục tiêu của Nhật Bản trong thế kỷ mới.
Bên cạnh đó trong Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và và Đông Bắc Á, số 1 (55) 2-2005 có đăng bài nghiên cứu của TS. Trần Anh Phương dưới tiêu đề “Tìm hiểu chính sách của Nhật Bản từ sau chiến tranh thế giới thứ 2 đến nay. Với phương thức lịch sử, TS. Trần Anh Phương đã thể hiện rõ chính sách đối ngoại của Nhật Bản sau đại chiến thế giới hai đến nay. Hay như bài dịch của Thanh Hà - Học viên Khoa học quân sự đã đặt ra một vấn đề rằng: “Trong tương lai Nhật Bản có thể trở thành một cường quốc quân sự - chính trị được không? (Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 7, tháng 9/2006. Cũng trong tạp chí này tháng 12/2006 lại có tiếp bài viết của PGS.TS Nguyễn Duy Dũng về việc “Điều chỉnh chiến lược đối ngoại của Nhật Bản trong bối cảnh Quốc tế mới. Đặc biệt ngay sau khi trở thành thủ tướng Nhật Bản, ông Shinto Abe đã có bài phát biểu tại phiên khai mạc thường niên đã đăng bài phát biểu của ông Abe trong tài liệu tham khảo đặc biệt ra ngày 3/3/2007 với tiêu đề “Nhật Bản với chính sách ngoại giao tích cực… và còn rất nhiều bài viết khác như “Nhật Bản trên con đường trở thành quốc gia bình thường” của tác giả Khổng Thị Bình đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 66… đề cập tới quân đội của cựu Tổng thống thư ký Liên Hợp Quốc - ông Ozawa về “Nước Nhật bình thường” là thế nào?…
Có thể nói những bài viết và các công trình trên đá lý giải một cách khá thuyết phục rõ về việc xây dựng chiến lược phát triển nói chung, cũng như chính sách đối ngoại nói riêng của Nhật Bản. Đặc biệt các công trình đã chỉ ra phương thức mà Nhật Bản đang tiến hành để đạt được mục tiêu chiến lược trong thế kỷ mới. Tuy nhiên vẫn chưa có bài viết nào cập nhật và làm rõ chiến lược điều chỉnh của Nhật Bản nhằm nâng cao vị thế chính trị trong bối cảnh mới. Đồng thời với mong muốn cố gắng tìm hiểu thực sự vị trí chính trị của Nhật Bản hiện nay là thế nào… Nên tôi đã lựa chọn đề tài này, với mong muốn cá nhân tôi có thể góp phần làm rõ hơn cách thức Nhật Bản tìm kiếm vị thế mới và có thể dự báo vị trí chính trị của Nhật trong tương lai.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài chính là chính sách đối ngoại và phong cách tiến hành tìm kiếm vị thế chính trị mới của Nhật Bản.
Phạm vi và thời gian nghiên cứu của đề tài từ sau khi kết thúc chiến tranh lạnh đến nay.
3. Nguồn tài liệu
Đề tài này được hoàn thành trên cơ sở tham khảo từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau.
-Sách của một số nhà xuất bản (Nxb) khác nhau như: Nxb Thông tấn, Nxb Khoa học xã hội, Nxb Thống kê Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội …
-Các tạp chí: Tạp chí nghiên cứu Quốc tế, tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, tạp chí Kinh tế thế giới…
-Tài liệu tham khảo đặc biệt
-Tin tham khảo thế giới
-Và một số trang wed điện tử.
4. Cấu trúc khoá luận
Khoá luận được cơ cấu làm ba phần chính: mở đầu, nội dung và kết luận.
Phần mở đầu nêu khái quát về nguyên nhân Nhật Bản tìm kiếm vị thế chính trị mới, cũng như mục đích đề tài hướng tới, nó là cơ sở để nghiên cứu. Đồng thời phần mở đầu cũng cho thấy đối tượng phạm vi nghiên cứu đề tài, cấu trúc khoá luận và nguồn tài liệu làm cơ sở nghiên cứu.
Phần nội dung gồm có 3 chương: Chương 1: Đề cập khái quát về chl tìm kiếm vị thế chính trị mới của Nhật Bản trong bối cảnh mới bao gồm có nguyên nhân tìm kiếm vị thế chính trị mới và chl của ng; chương 2 trình bày phương thức hành động tìm kiếm vị thế chính trị mới của Nhật Bản được thể hiện qua các phương diện khác nhau; Chương 3 là một số dự báo về vị thế chính trị của Nhật Bản trong thế kỷ 21, cũng như những tác động của vị thế ấy khi Nhật Bản đạt được.
Phần kết quận nêu lên những nét khái quát trên con đường Nhật Bản tìm kiếm vị thế chính trị nới và vận dụng vào quá trình hội nhập của Việt Nam.
Để khoá luận được hoàn thành không chỉ có riêng bản thân tôi mà còn nhiều cá nhân và cơ quan khác. Vậy nên, tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô giáo và ban chủ nhiệm khoa Quốc tế học, cùng toàn thể các bạn trong và ngoài lớp. Đặc biệt tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình, nhiệt tâm của thầy cô, người đã giúp đỡ tôi trong suốt một hành trình hoàn chỉnh khoá luận này.
CHƯƠNG I
CHIẾN LƯỢC TÌM KIẾM VỊ THẾ CHÍNH TRỊ MỚI CỦA
NHẬT BẢN
I. NGUYÊN NHÂN CHỦ YẾU THÚC ĐẨY NHẬT BẢN TÌM KIẾM VỊ TRÍ CHÍNH TRỊ MỚI
1. Nguyên nhân bên ngoài.
Chiến tranh lạnh kết thúc làm cho tính chất của quan hệ quốc tế thay đổi. Thế giới chưyềnt xu thế đối đầu sang xu thế hợp tác, cạnh tranh phát triển. Kéo theo đó xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá diễn ra ngày càng mạnh mẽ và sâu sắc, đặc biệt là toàn cầu hoá về kinh tế. Toàn cầu hoá đã tạo cơ hội thuận lợi cho nhiều quốc gia phát triển, như cựu tổng thư ký Liên Hợp Quốc đã nói: “Các nước nghèo vẫn nghèo không phải bởi họ có quá nhiều toàn cầu hoá mà bởi vì họ có quá ít toàn cầu hoá” . Là quốc gia bại trận trong chiến tranh thế giới hai, bị thiệt hại nặng nề, những được sự giúp đỡ của Mỹ, Nhật Bản đã sớm tham gia toàn cầu hoá và đã trở thành một trong ba trung tâm kinh tế, tài chính lớn trên thế giới. Nhật Bản được mệnh danh là một “chàng khổng lồ” về kinh tế. Không những vậy, những năm sau đó Nhật Bản không ngừng tập trung vào phát triển kinh tế, đưa đối ngoại phát triển theo con đường hoà bình… Đây là cơ hội để Nhật Bản tăng cường vai trò, ảnh hưởng chính trị trên trường quốc tế. Đặc biệt sau chiến tranh lạnh, kinh tế càng có vai trò quan trọng, là tiêu chuẩn đánh giá sự thịnh suy của mỗi quốc gia. Với ưu thế vượt trội ấy, Nhật Bản nỗ lực đóng góp cho cộng đồng quốc tế, tất yêu sẽ đem lại vị thế chính trị xứng đáng cho Nhật Bản.
Môi trường quốc tế những năm 1990, đã đem lại cho Nhật Bản không ít những thuận lợi, với ưu thế vượt trộ về kinh tế, Nhật Bản đã thông qua thực lực kinh tế và sức mạnh phát triển khoa học và kỹ thuật để thâm nhập và mở rộng ảnh hưởng của mình. Toàn cầu hoá về kinh tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nước tăng cường hợp tác với nhau. Vốn là quốc gia nghèo tài nguyên, nhưng lại có trình độ công nghệ cao, Nhật Bản đã tận dụng lợi thế đó của mình để tìm kiếm các hình thức hợp tác điển hình là hợp tác kinh tế. Nhờ những ảnh hưởng về kinh tế mà Nhật Bản dần mở rộng được quan hệ trên mọi mặt, nhất là về phương diện chính trị.
Chiến tranh lạnh kết thúc làm cho tương quan lực lượng trên thế giới thay đổi. Lx tan rã, Mỹ trở thành siêu cường duy nhất trên thế giới. Song với sự biến đổi mạnh mẽ của tình hình thế giới. Sự vượt trội của xu thế hoà bình, hợp tác và toàn cầu hoá, nhiều quốc gia đã vươn lên trở thành đối thủ cạnh tranh với Mỹ trên nhiều lĩnh vực. Thậm chí việc công nghệ cao, chẳng hạn như sản xuất rôbót của Nhật Bản đã vượt Mỹ… Vìthế, khả năng duy trì vai trò lãnh đạo tuyệ đối của Mỹ như trước kia chắc chắn không dễ dàng. Cùng với đó xu thế đa cực hoá trong nền chương trình thế giới càng được biểu hiện rõ, là tiền để quan trọng để các nước, trong đó có Nhật Bản độc lập hơn trong hành động. Nhất là trong hoạt động đối ngoại và chính trị, Nhật Bản dần dần thoát khỏi ảnh hưởng của Mỹ, từ đó nâng cao dần sức mạnh chính trị của mình trong các quan hệ quốc tế.
Mặc dù sau chiến tranh lạnh, xu thế hoà bình hợp tác là chủ yếu, nguy cơ chiến tranh thế giới nhìn chung bị đẩy lùi. Song ở nhiều nơi trên thế giới những cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo vẫn diễn ra. Đặc biệt, trong những năm đầu thế kỷ 21, nhân loại đã chứng kiến nhiều sự kiện gây chấn động lớn, có tác động và ảnh hưởng mạnh tới quan hệ quốc tế. Điển hình là sự kiện những kẻ khủng bố tấn công vào nước Mỹ 11-9-1001.
Ngày sau đó, một loạt các vụ khủng bố đã diễn ra ở nhiều nơik gây bất ổn tại hhiều quốc gia và khu vực tiêu biểu là vụ khủng bố ở đảo Bali (Inđônêsia), vụ thảm sát tại Beslam Caga); vụ khủng bố tấn công vào ga tầu điện ngầm ở Thủ đô London (Anh)… khủng bố đã gây nên những thiẹt hại nghiêm trong về người và của, đặc biệt ảnh hưởng lớn tới đời sống sh thường nhật của những thường dân vô tội và gây mất ổn định ở nhiều nơi… Vì vậy, ngay sau vụ khủng bố 11-9, Mỹ đã phát động một cuộc chiến chống khủng bố trên quy mô toàn thế giới và đã được nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế, khu vực ủng hộ. Bởi nguy cơ khủng bố đe doạ không loại trừ quốc gia nào, vì thế, trong cuộc chién này Nhật Bản đã nhanh chóng ủng hộ Mỹ. Ngay sau khi Mỹ phát động cuộc chiến chống khủng bố, đến ngày 29/10/2001 quốc gia Nhật Bản đã thông qua đạo luật đặc biệt chống khủng bố theo đạo luật này Nhật Bản có thể hỗ trợ hậu cần cho quân Mỹ…
Tuy nhiên, mặc dù ủng hộ Mỹ, song do bị hạn chế trong khuôn khổ Hiến pháp hoà bình năm 1946, Nhật Bản cam kết từ bỏ chiến tranh, không duy trì lực lượng quân sự, mà chỉ cho phép đội phòng vệ làm nhiện vụ an ninh. Do vậy, Nhật Bản không trực tiếp tham chiến và chỉ hỗ trợ về tài chính, hậu cần, khả năng tác chiến của họ bị hạn chế. Vì vậy việc chưa được phép đưa quân đội ra nước ngoài là hạn chế mà Nhật Bản đang tìm cách khắc phục để có vị thế bình thường như các quốc gia khác trong việc bảo vệ hình ảnh của mình và tham gia các nghĩa vụ quốc tế. Bên cạnh chủ nghĩa khủng bố, xung đột sắc tộc, tôn giáo đang diễn ra khá phổ biến và ngày càng trầm trọng hơn. Sau một thập kỷ phát triển, nhiều vấn đề toàn cầu được đặt ra: ô nhiễm môi trường, bệnh tật hiểm nghèo, phổ biến vũ khí hạt nhân huỷ diệt, khoảng cách phát triển, cạn kiệt tài nguyên… đang trở thành mối quan tâm của toàn nhân loại. Để giải quyết những vấn đề này cần có sự hợp tác của nhiều quốc gia, nhất là của các nước phát triển, trong đó có Nhật Bản. Đây là một điều kiện thuận lợi để Nhật Bản có thể tham gia sâu rộng hơn vào việc giải quyết các vấn đề quốc tế với tư cách là một cường quốc kinh tế. Từ đó Nhật Bản phát huy được vai trò chiến tranh của mình qua những đóng góp vào việc giải quyết các vấn đề toàn cầu trên.
Hơn nữa với sự ra đời của nhiềutổ chức khu vực và toàn cầu: ASEM, APEC, ARF, ASEAN + 1, ASEAN + 3, NDB, WTO… Nhật Bản có cơ hội đểthể hiện vai trò của mình thông qua những đóng góp tài chính, và các sáng kiến… Đặc biệt, trong những năm đầuthế kỷ 21, lần đầutiên các nước Đông á đã có một hội nghị chung với tên gọi là Hội nghị thượng đỉnh Đông Á, Lần đầu được tổ chức vào tháng 12-2005 tại Kualalumpua (Malaysia)… nhằm hướng tới sự hợp tác toàn diện như kiểu liên minh châu âu (EU). Hội nghị này, cùng các thể chế đa phương kể trên đã tạo cơ hội cho Nhật Bản hoà nhập hơn nữa với khu vực và thông qua những đóng góp cho thể chế này để phát huy vai trò chính trị của mình.
Sau một loạt các sự kiện diễn ra vào đầu thế kỷ 21, chúng đe doạ tới an ninh, ổn định và phát triển của toàn thế giới…. Cộng đồng quốc tế càng nhắc nhiều tới vấn đề cải tổ Liên Hợp Quốc, nhất là cải tổ Hội đồng Bảo an Nhật Bản được coi là ứng cử viên có khả năng trở thành uỷ viên thường trực. Bởi vì một trong các nguyên tắc của chương trình cải tổ được ông Kofi ânnn - Cựu thư ký Liên Hợp Quốc đưa ra năm 1997, nước muốn trở thành uỷ viên thường trực phải có đong sgóp nhiều cho Liên Hợp Quốc vềtài chính, quân sự, ngoại giao. Đây là điều kiện thuận lợi đối với Nhật Bản. Vì Nhật Bản hiện đang là quốc gia có đóng góp lớn thứ hai, sau Mỹ (25%). Hiện nay Tổng mức đóng góp tài chính của Nhật Bản cho Liên Hợp Quốc chiếm hơn 20% ngân sách của Liên Hợp Quốc. Mức đóng góp ấy của nước Nhật lớn hơn cả mức đóng góp tài chính của Anh (5,1%), Nga (1,1%), Pháp (6,5%) nhận được sự ủng hộ của 4 nước thuộc uỷ viên thường trực có quyền phủ quyết là anh, Mỹ, Pháp, Nga (trừ Trung Quốc chưa có thái độ rõ rang). Đây thực sự là một cơ hội thuận lợi để Nhật Bản nâng cao và khẳng định vị trí chính trị của mình.
Sau chiến tranh lạnh, quan hệ Nhật - Mỹ có bước chuyển biến mới phù hợp với sự vận động của quan hệ quốc tế. Vẫn với phương châm đối ngoại lấy quan hệ với Mỹ làm hòn đá tảng. Song hiện nay, Nhật Bản ngày càng có bước đi độc lập hơn với Mỹ trong các vấn đề toàn cầu và chủ động tích cựctham gia các sứ mệnh quốc tế. Trên lĩnh vực chính trị, tuy có sự ràng buộc bởi hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ được ký kết năm 1951, nhưng Nhật Bản dần thể hiện được sự độc lập tự chủ trong hành động, việc Nhật Bản nối lại viện trợ cho Việt Nam vào tháng 11-1992, mặc dù tới tháng 2- 1994 Mỹ mới tuyên bố huỷ bỏ cấm vận cho Việt Nam là một ví dụ về sự độc lập trong hành động đối ngoại với Mhx. Mộ sự kiện khác cũng chứng tỏ ngày càng có bước đi độc lập trong quan hệ với Mỹ. Năm 2002, Nhật Bản đã thể hiện sự độc lập và chủ động trong việc giải quyết vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, với chuyến thăm Bình Nhưỡng của Thủ tướng Nhật Bản khi đó là Ko-Zu-Mi, hai nước đã tuyên bố chung Nhật - Triều (17-9-2002) về việc bình thường hoá quan hệ hai nước. Hành động này của Nhật Bản khiến Mỹ không hài lòng. Dư luận Mỹ coi đó là tín hiệu Nhật Bản muốn “độc lập” với Mỹ về đối ngoại và an ninh.
Trên lĩnh vực an ninh: Nhật Bản cho rằng họ là đối tác an ninh chiến lược không tách rời của Mỹ ở Đông Á. Hai nước nhận thấy rằng, tỏng bối cảnh quốc tế mới cầnthiết phải cùng phối hợp hành động. Đặc biệt Mỹ ủng hộ Nhật Bản phát triển hơn nữa lực lượng phòng vệ của mình, mở rộng khả năng tác chiến để cùng Mỹ chia sẻ trn quốc tế. Trong thế kỷ 21, những mối đe doạ mới lại xuất hiện như chủ nghĩa khủng bố quốc tế, phổ biến vũ khí hạt nhân huỷ diệt, xung đột sắc tộc, tôngiáo… Thêm vào đó là sự trỗi dậy cả về kinh tế và quân sự của Trung Quốc trong những năm gần đây khiến cả Mỹ và Nhật đều lo ngại… Vì vậy, hai nước đã có sự hợp tác ngày càng chặt chẽ hơn. Trong cuộc họp “2 + 2” giữa Ngoại trưởng và Bộ trưởng quốc phòng Mỹ với Ngoại trưởng và Cục trưởng Cục phòng vệ Nhật Bản diễn ra ngày 23-11-2005, hai nước đã ra thông cáo chung “đồng minh Nhật - Mỹ: vì cải cách và tổ chức lại trong tương lai”. Thông cáo khẳng định trn cùng chia sẻ phòng vệ và tác chiến của hai bên khi chiến sự xảy ra… Theo đó Nhật Bản sẽ cùng Mỹ phối hợp hành động vì lợi ích hai nước và thế giới. Đây là cơ sở pháp lý thuận lợi để Nhật Bản có thể cùng Mỹ can dự hơn nữa vào công việc an ninh quốc tế.
Như vậy trong quan hệ với Mỹ, Nhật Bản vừa có bước đi chủ động, độc lập, đồng thời vừa có hợp tác chặt chẽ với Mỹ trên lĩnh vực an ninh… Trên con đường tìm kiếm địa vị chính trị mới, nước Nhật đã dành được sự ủng hộ của Mỹ về việc sửa đổi hiến pháp, nhất là sự ủng hộ và phát triển lực lượng phòng vệ lên tầm cao mới, để cóthể trở thành quân phòng vệ, để có thể phối hợp với Mỹ một cách dễ dàng trong trường hợp khẩn cấp.
Không những vậy, Nhật Bản còn dành được sự ủng hộ củ các nước ASEAN, Ấn Độ, và một số nước Trung Á, Trung Đông và cả ở Châu Phi… Do những đóng góp và hỗ trợ lớn của Nhật Bản về Mặt tài chính và hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) đem lại. Một sự đóng góp đáng chú ý gần đây cảu Nhật Bản là việc giải quyết những khủng hoảng hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên. Nhằm tháo gỡ sự bế tắc trong các cuộc đàm phán đa phương, Nhật Bản đã chủ động tiến hành các cuộc đmà phán song phương với CHĐCN Triều Tiên về việc bình thường hoá quan hệ Nhật - Triều. Trong các cuộc đàm phán này, Nhật Bản luôn nêu điều kiện CHĐCN Triều Tiên phải từ bỏ chương trình phát triển vũ khí hạt nhân và giải quyết vấn đề các con tin Nhật Bản bị bắt cóc, thì mới bình thường hoá. Chính áp lực này từ phía Nhật Bản buộc CHĐCN Triều Tiên phải xem xét lại thái độ của mình. Và việc các bên ngồi lại để thảo luận đưa các cách giải quyết chung phù hợp với quy tắc quốc tế cho thấy vài trò tích cực của Nhật Bản trong việc giải quyết các vấn đề khu vực nói chung và cuộc khủng hoảng hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên nói riêng.
Như vậy bối cảnh quốc tế và khu vực sau chiến tranh lạnh đã tạo điều kiện cho Nhật Bản có thể tham gia mở rộng hơn nữa trông việc giải quyết các vấn đề chung. Qua đó Nhật Bản có thể phát huy được những lợi thế của mình. Đẩy mạnh việc xác lập vị trí chính trị mới. Nhật Bản sớm tìm được cho mình tiếng nói trong các quan hệ quốc tế lớn.
2. Nguyên nhân bên trong
Mặc dù sau chiến tranh lạnh kinh tế Nhật Bản bước vào thời kỳ suy thoái, nạn thấ