Đề tài Một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của Công ty xuất nhập khẩu và kỹ thuật bao bì (PACKEXPORT)

Ngày nay xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ. Cùng với xu thế chung nước ta đang trong quá trình thúc đẩy việc tham gia sâu hơn vào nền kinh tế trong khu vực và thế giới. Xuất khẩu là hoạt động hết sức cần thiết để thúc đẩy quá trình hội nhập. Bên cạnh đó, hoạt động thúc đẩy xuất khẩu còn có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Thông qua hoạt động xuất khẩu Việt Nam có thể tận dụng được các tiềm năng sẵn có để sản xuất ra các loại hàng hoá phục vụ cho việc trao đổi buôn bán với các Quốc gia khác để tăng thu ngoại tệ.

doc109 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1359 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của Công ty xuất nhập khẩu và kỹ thuật bao bì (PACKEXPORT), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời nói đầu 1. Tính cấp thiết của đê tài. Ngày nay xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ. Cùng với xu thế chung nước ta đang trong quá trình thúc đẩy việc tham gia sâu hơn vào nền kinh tế trong khu vực và thế giới. Xuất khẩu là hoạt động hết sức cần thiết để thúc đẩy quá trình hội nhập. Bên cạnh đó, hoạt động thúc đẩy xuất khẩu còn có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Thông qua hoạt động xuất khẩu Việt Nam có thể tận dụng được các tiềm năng sẵn có để sản xuất ra các loại hàng hoá phục vụ cho việc trao đổi buôn bán với các Quốc gia khác để tăng thu ngoại tệ. Việt Nam là một Quốc gia giàu tài nguyên thiên nhiên, có điều kiện thuận lợi để sản xuất và khai thác các sản phẩm nông sản. Vì thế nông sản là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong thời gian qua. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chưa khai thác được triệt để tiềm năng lớn về xuất khẩu hàng nông sản, giá trị kim ngạch xuất khẩu còn thấp. Để hoạt động xuất khẩu hàng nông sản đạt hiệu quả cao hơn thì vấn đề nghiên cứu hoạt động thúc đẩy xuất khẩu của các công ty, doanh nghiệp là hết sức cần thiết. Từ đó, có thể đưa ra những biện pháp thích hợp nhằm hoàn thiện hoạt động kinh doanh của mình và chú trọng đến việc làm thế nào để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Công ty sao cho tăng kim ngạch xuất khẩu hơn nữa và đạt được lợi nhuận cao nhất. Những phân tích trên đã cho thấy rõ tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu. Sau một thời gian thực tập ở Công ty XNK và kỹ thuật Bao Bì và được sự hướng dẫn tận tình của Cô giáo PGS. TS Nguyễn Thị Hường, Thầy giáo Th.S Mai Thế Cường và sự giúp đỡ của các cán bộ nhân viên trong Công ty, em đã chọn đề tài “ Một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của Công ty xuất nhập khẩu và kỹ thuật bao bì (PACKEXPORT)” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài: Luận văn sẽ trình bày những lý luận chung về xuất khẩu và thúc đẩy xuất khẩu, sau đó đi sâu vào phân tích và đánh giá thực trạng xuất khẩu và thúc đẩy xuất khẩu nông sản của Công ty PACKEXPORT. Từ đó đề xuất một số biện pháp phù hợp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản của Công ty PACKEXPORT. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài: chính là các hoạt động xuất khẩu hàng nông sản và các biện pháp được áp dụng nhằm thúc đẩy xuất khẩu nông sản của Công ty PACKEXPORT cũng như các nhân tố có ảnh hưởng đến chúng. 4. Kết cấu của đề tài: Luận văn gồm có 3 chương. Chương I : Những lý luận cơ bản về xuất khẩu và thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp. Chương II : Thực trạng thúc đẩy xuất khẩu nông sản tại Công ty xuất nhập khẩu và kỹ thuật bao bì (PACKEXPORT). Chương III : Một số giải pháp và kiến nghị nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của công ty PACKEXPORT. Do còn nhiều hạn chế về kiến thức, thời gian và kinh nghiệm nên bài viết của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các Thầy, Cô giáo cùng các bạn để luận văn của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn Cô giáo PGS. TS Nguyễn Thị Hường, Thầy giáo Th.S Mai Thế Cường và các cô chú trong Công ty đã tạo điều kiện và giúp đỡ em hoàn thành luận văn này. Chương I Những lý luận cơ bản về xuất khẩu và thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp một số vấn đề chung về xuất khẩu. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động xuất khẩu. Khái niệm. Hoạt động xuất khẩu là một mặt quan trọng của hoạt động kinh doanh quốc tế của một quốc gia với một phần còn lại của thế giới. Nó là quá trình bán những hàng hoá và dịch vụ của quốc gia đó cho một hay nhiều quốc gia khác trên thế giới trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán với nguyên tắc ngang giá. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hay đối với cả hai quốc gia. Hoạt động xuất khẩu được diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện kinh tế, từ xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng đến hàng hoá sản xuất, từ máy móc thiết bị cho đến các công nghệ kỹ thuật cao, từ hàng hoá hữu hình cho đến hàng hoá vô hình. Tất cả các hoạt động trao đổi này đều nhằm mục đích đem lại lợi ích cho các quốc gia tham gia. Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Việc trao đổi hàng hoá mang lại lợi ích cho các quốc gia, do đó các quốc gia đều tích cực tham gia mở rộng hoạt động này. Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của ngoại thương đã xuất hiện từ rất lâu và ngày càng phát triển. Nếu xem xét dưới góc độ các hình thức kinh doanh quốc tế thì xuất khẩu là hình thức cơ bản đầu tiên mà các doanh nghiệp thường áp dụng khi bước vào lĩnh vực kinh doanh quốc tế. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên phạm vi rất rộng, cả về không gian lẫn thời gian. Nó có thể chỉ diễn ra trong thời gian ngắn song cũng có thể kéo dài hàng năm. Nó có thể được tiến hành trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia hay nhiều quốc gia khác nhau. Đặc điểm của hoạt động xuất khẩu. Như vậy, về bản chất hoạt động xuất khẩu và hoạt động buôn bán trong nước đều là một quá trình mua bán, trao đổi hàng hoá. Hoạt động xuất khẩu có những đặc điểm sau: - Xuất khẩu là hoạt động mua bán hàng hoá vượt ra ngoài lãnh thổ một quốc gia, đồng tiền thanh toán là ngoại tệ đối với một hoặc cả hai bên. Như vậy, hoạt động này có yếu tố nước ngoài tham gia vào do đó nó chịu sự điều chỉnh của nhiều hệ thống luật như luật quốc tế, luật quốc gia. Xuất khẩu diễn ra trong môi trường kinh doanh mới và xa lạ, các doanh nghiệp hoạt động trong môi trường này thường gặp phải nhiều rủi ro hơn là kinh doanh nội địa. vì vậy các doanh nghiệp phải thích ứng để hoạt động có hiệu quả ở nước ngoài. - Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp gia tăng lợi nhuận bằng cách mở rộng phạm vi thị trường, tăng doanh số bán hàng. Điều này khó có thể đạt được nếu doanh nghiệp chỉ thực hiện kinh doanh trong nước. - Sử dụng các phương pháp trao đổi thông tin và ý định với khách hàng bằng các phương tiện thông tin hiện đại, điện báo thương nghiệp, telex, điện thoại quốc tế, hoặc sử dụng đường dây của các phòng đại diện chi nhánh… - Phương tiện và các phương pháp trao đổi hàng hoá trong kinh doanh xuất nhập khẩu : Buôn bán với nước ngoài có nghĩa là gửi hàng hoá ra nước ngoài và ngược lại bằng các phương tiện vận tải như: vận tải đường biển, đường sắt, máy bay, hoặc đường bộ. Trong quá trình vận chuyển đường dài hàng hoá cần được bảo quản tốt để đáp ứng yêu cầu với điều kiện khí hậu khác nhau hoặc khi phải chuyển đổi phương tiện vận tải. Do đó hàng hoá phải được đóng gói trong bao bì bảo đảm để tránh hư hao, mất mát về chất lượng, số lượng và trọng lượng. - Phương pháp thanh toán và di chuyển tiền trong kinh doanh xuất nhập khẩu: sử dụng phương pháp chuyển tiền qua ngân hàng đại diện của hai bên vừa đảm bảo gửi nhanh, an toàn và rẻ. - Đặc biệt hoạt động xuất khẩu còn có đặc điểm nữa đó là: hoạt động này thường diễn ra giữa các doanh nghiệp ở các quốc gia khác nhau nên ngôn ngữ, tôn giáo, tập quán, chính trị, luật pháp khác nhau vì vậy khi đàm phán và ký kết hợp đồng mua bán với các doanh nghiệp thuộc quốc gia khác phải chú ý một số điểm sau: -Thứ nhất: Thống nhất ngôn ngữ làm hợp đồng: chọn ngôn ngữ nào mà hai bên đều hiểu và đồng ý. Thứ hai: Mọi giao dịch buôn bán phải có văn bản và hai bên ký tên đầy đủ. - Thứ ba: Các điều kiện và điều khoản trong hợp đồng xuất khẩu mang tính quốc tế và có sự khác biệt rõ nét với hợp đồng nội địa. Các hình thức xuất khẩu. Xuất khẩu có rất nhiều hình thức giao dịch. Căn cứ vào từng loại hình kinh doanh và đặc điểm của sản phẩm mà doanh nghiệp lựa chọn một hình thức xuất khẩu cho phù hợp. Một số hình thức xuất khẩu thường được sử dụng như: Xuất khẩu trực tiếp. Hình thức xuất khẩu trực tiếp xuất hiện khi doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp cho người mua hay người nhập khẩu ở các thị trường nước ngoài các loại hàng hóa hoặc dịch vụ do doanh nghiệp tự sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước. Trong phương thức này các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp ký hợp đồng ngoại thương, với tư cách là một bên phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó. Hợp đồng ký kết giữa hai bên phải phù hợp với các luật lệ quốc gia và quốc tế, đồng thời phải bảo đảm được lợi ích quốc gia và bảo đảm uy tín kinh doanh của doanh nghiệp. Các bước tiến hành: - Ký hợp đồng nội mua hàng hoặc tự tổ chức sản xuất. - Ký hợp đồng ngoại, giao hàng, thanh toán tiền với bên nước ngoài. Ưu điểm: Lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được thường cao hơn các hình thức khác do giảm được các chi phí trung gian. Quy cách, phẩm chất của hàng hoá xuất khẩu có ảnh hưởng lớn đến uy tín của doanh nghiệp. Nhược điểm: Nó đòi hỏi doanh nghiệp xuất khẩu phải có lượng vốn khá lớn ứng trước để mua hàng hoặc sản xuất. Bên cạnh đó hình thức này có mức độ rủi ro lớn. Xuất khẩu gián tiếp. Xuất khẩu gián tiếp là hình thức khi doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm ra thị trường nước ngoài thông qua các tổ chức độc lập trong nước. Đó là các trung gian bán buôn trong nước, các công ty thương mại, các đại lý đặt trong nước, người mua thường trú, người môi giới xuất nhập khẩu, đại lý xuất khẩu của người sản xuất, công ty quản lý xuất khẩu. Các bước tiến hành: - Tổ chức tự sản xuất hay ký kết hợp đồng nội mua hàng. - Ký kết hợp đồng với các tổ chức xuất khẩu trung gian trong nước. Ưu điểm: Mức độ rủi ro thấp, chi phí cho việc bán hàng ở thị trường nước ngoài thấp, tính linh hoạt cao. Nhược điểm: Khả năng chớp cơ hội không cao, khó kiểm soát kênh phân phối, ít tiếp xúc với khách hàng và thị trường. Xuất khẩu uỷ thác. Trong hình thức này, doanh nghiệp xuất khẩu (bên nhận ủy thác) nhận xuất khẩu một lô hàng nhất định với danh nghĩa của mình và nhận được một khoản thù lao theo thỏa thuận với doanh nghiệp có hàng xuất khẩu (bên ủy thác). Xuất khẩu uỷ thác được áp dụng trong trường hợp một doanh nghiệp có hàng hoá muốn xuất khẩu, nhưng vì doanh nghiệp không được phép tham gia trực tiếp vào hoạt động xuất khẩu hoặc không có điều kiện để tham gia. Theo hình thức này, quan hệ giữa người bán và người mua được thông qua người thứ ba gọi là trung gian (người trung gian phổ biến trên thị trường là đại lý và môi giới). Các bước tiến hành: - Ký hợp đồng nhận uỷ thác với doanh nghiệp có hàng xuất khẩu trong nước. - Ký hợp đồng xuất khẩu với nước ngoài, giao hàng và nhận tiền hàng. - Thanh toán tiền hàng và nhận giấy uỷ thác của doanh nghiệp có hàng xuất khẩu. Ưu điểm: Doanh nghiệp thực hiện xuất khẩu không phải bỏ ra một khoản vốn lớn để mua hàng hay đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu ra nước ngoài do đó rủi ro trong kinh doanh là không cao. Bên cạnh đó doanh nghiệp không phải là chịu trách nhiệm cuối cùng về hàng hoá. Nhược điểm: Doanh nghiệp xuất khẩu lại không trực tiếp liên hệ với khách hàng và thị trường nước ngoài nên không chủ động trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp mình. Phí uỷ thác mà doanh nghiệp nhận được thường nhỏ hơn nhưng được thanh toán nhanh. 2.4 Buôn bán đối lưu. Đây là phương thức giao dịch mà trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán hàng đồng thời là người mua, lượng hàng hoá mang trao đổi có giá trị tương đương. Mục đích của hình thức này không nhằm thu về một khoản ngoại tệ mà nhằm thu về một lượng hàng hoá có giá trị bằng giá trị lô hàng xuất khẩu. Hình thức này được thực hiện theo nguyên tắc: - Cân bằng về mặt hàng: hàng quý đổi lấy hàng quý và ngược lại. - Cân bằng về giá cả: so với giá quốc tế nếu giá hàng nhập cao thì khi xuất cho đối phương thì giá hàng xuất cũng phải tính cao tương ứng và ngược lại. - Cân bằng về mặt tổng giá trị hàng giao cho nhau: do không có sự di chuyển bằng tiền tệ nên tổng giá trị hàng hoá và dịch vụ giao cho nhau phải tương đối cân bằng nhau. - Cân bằng về điều kiện giao hàng: nếu xuất khẩu CIF thì phải nhập khẩu CIF và nếu xuất khẩu FOB thì nhập khẩu FOB. Hình thức xuất khẩu này giúp doanh nghiệp tránh được sự biến động của tỉ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối đồng thời có lợi khi các bên không có đủ ngoại tệ để thanh toán cho lô hàng nhập khẩu của mình. Doanh nghiệp ngoại thương có thể sử dụng hình thức xuất khẩu này để nhập những loại hàng hoá mà thị trường trong nước đang rất cần hoặc có thể xuất khẩu sang một nước thứ ba. Các bước tiến hành: - Tổ chức sản xuất hay ký kết hợp đồng nội mua hàng. - Ký kết hợp đồng xuất khẩu đồng thời ký kết hợp đồng nhập khẩu. - Tiến hành thực hiện các thủ tục giao nhận hàng hoá. Có nhiều hình thức buôn bán đối lưu như : Hàng đổi hàng được áp dụng phổ biến nhất, trao đổi bù trừ, giao dịch bồi hoàn, mua đối lưu, chuyển nợ... 2.5 Xuất khẩu theo nghị định thư. Đây là hình thức mà doanh nghiệp xuất khẩu theo chỉ tiêu mà nhà nước giao cho để tiến hành xuất khẩu một hoặc một số loại hàng hóa nhất định cho chính phủ nước ngoài trên cơ sở nghị định thư đã được ký giữa hai chính phủ. Các bước tiến hành: - Ký kết hợp đồng nội mua hàng hay tổ chức tự sản xuất. - Thực hiện các thủ tục để xuất khẩu. Ưu điểm: Khả năng thanh toán chắc chắn (vì nhà nước thanh toán cho doanh nghiệp), giá cả hàng hoá dễ chấp nhận, tiết kiệm được chi phí trong nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng. 2.6 Gia công xuất khẩu. Là hình thức xuất khẩu, trong đó một bên (gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của bên khác (gọi là bên đặt gia công) để chế tạo ra thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công và qua đó thu được một khoản phí như thỏa thuận của cả hai bên. Các bước tiến hành: - Ký hợp đồng gia công uỷ thác với đơn vị trong nước. - Ký hợp đồng gia công với nước ngoài và nhập nguyên liệu. - Giao nguyên liệu cho đơn vị gia công. - Nhận thành phẩm và giao cho bên nước ngoài. - Thanh toán phí gia công cho đơn vị sản xuất (bên nước ngoài trả) và đơn vị hưởng phí gia công uỷ thác. Doanh nghiệp nhận gia công không phải bỏ vốn vào kinh doanh nhưng thu được hiệu quả cũng khá cao, rủi ro thấp và khả năng thanh toán đảm bảo. Tuy nhiên để thực hiện theo hình thức này, doanh nghiệp phải có mối quan hệ với các khách hàng đặt gia công có uy tín. Đây là một hình thức rất phức tạp nhất là trong quá trình thoả thuận với bên gia công về số lượng, chất lượng, nguyên vật liệu và tỷ lệ thu hồi thành phẩm, giám sát quá trình gia công. Do đó, các cán bộ kinh doanh của doanh nghiệp phải am hiểu tường tận về các nghiệp vụ và quá trình gia công sản phẩm. 2.7 Xuất khẩu tại chỗ. Là hình thức kinh doanh mà hàng xuất khẩu không cần vượt qua biên giới quốc gia nhưng khách hàng vẫn có thể mua được. ở hình thức này doanh nghiệp không cần phải đích thân ra nước ngoài đàm phán trực tiếp với người mua mà chính người mua lại tìm đến với doanh nghiệp do vậy doanh nghiệp tránh được những thủ tục rắc rối của hải quan, không phải thuê phương tiện vận chuyển, không phải mua bảo hiểm hàng hóa. Hình thức này thường được áp dụng đối với quốc gia có thế mạnh về du lịch và có nhiều tổ chức nước ngoài đóng tại quốc gia đó. Nội dung cơ bản của hoạt động xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu từ điều tra nghiên cứu thị trường nước ngoài, lựa chọn hàng hoá xuất khẩu, đối tác giao dịch, tiến hành giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu, tổ chức thực hiện hợp đồng cho đến khi hàng hoá đến cảng, chuyển giao quyền sở hữu cho người mua và hoàn thành các thủ tục thanh toán... Bước 4 Thực hiện hợp đồng xuất khẩu Bước 2 Lập kế hoạch xuất khẩu Bước 1 Nghiên cứu thị trường. Bước 3 Đàm phán và ký kết hợp đồng xuất khẩu Hình 1 : Sơ đồ các bước thực hiện xuất khẩu hàng hoá Mỗi khâu cần phải được tiến hành theo những cách thức nhất định, phải tiến hành một cách cẩn thận, đầy đủ, chính xác, kịp thời trên cơ sở tôn trọng quyền lợi cả hai bên, tranh thủ nắm bắt được những lợi thế nhằm đảm bảo hoạt động xuất nhập khẩu đạt hiệu quả cao nhất, phục vụ đầy đủ và kịp thời cho nhu cầu thị trường trong nước và trên thế giới. Sau đây là các bước mà một doanh nghiệp thực hiện trong hoạt động xuất khẩu. 3.1 Nghiên cứu thị trường xuất khẩu. Thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền sản xuất với lưu thông hàng hóa. ở đâu có sản xuất và lưu thông hàng hóa thì ở đó có thị trường. Đây là vấn đề đặc biệt quan trọng trong kinh doanh xuất khẩu. Nghiên cứu thị trường tốt sẽ tạo khả năng cho các nhà kinh doanh nhận ra được quy luật vận động của từng loại hàng hoá cụ thể thông qua sự biến đổi nhu cầu, cung ứng, giá cả trên thị trường, giúp cho họ giải quyết được các vấn đề của thực tiễn kinh doanh như: Nhu cầu của thị trường, khả năng tiêu thụ, khả năng cạnh tranh của hàng hoá… Những thông tin này quyết định sự thành bại trong kinh doanh của các doanh nghiệp. Đây đang là một vấn đề đặt ra và cần phải được các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam ý thức và nghiên cứu tiếp cận một cách đầy đủ hơn nữa, nhằm tránh tình trạng kinh doanh thua lỗ chỉ vì thiếu thông tin. Công việc này bao gồm: 3.1.1 Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu (bán cái gì). Đây là một trong những nội dung cơ bản và cần thiết đầu tiên, các doanh nghiệp có ý định gia nhập vào thị trường kinh doanh quốc tế thì trước tiên phải tiến hành nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới. Mục đích của việc nghiên cứu thị trường hàng hoá là nắm đựơc quy luật vận động của chúng. Mỗi thị trường hàng hoá cụ thể có quy luật vận động riêng. Quy luật đó được thể hiện qua những biến đổi về nhu cầu, cung cấp, giá cả hàng hoá đó trên thị trường. Có nắm vững các quy luật của thị trường hàng hoá thì mới có thể vận dụng, giải quyết các vấn đề cụ thể của thực tiễn kinh doanh liên quan đến vấn đề thị trường như: Thái độ tiếp thu của người tiêu dùng, nhu cầu của thị trường đối với hàng hoá, các ngành tiêu thụ mới, khả năng tiêu thụ tiềm năng, năng lực cạnh tranh của hàng hoá, các hình thức và biện pháp thâm nhập vào thị trường. Thông qua nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới ta lựa chọn được mặt hàng xuất khẩu. Mục đích của việc lựa chọn mặt hàng xuất khẩu là để lựa chọn được những mặt hàng kinh doanh phù hợp năng lực và khả năng của doanh nghiệp đồng thời đáp ứng được nhu cầu thị trường. Mặt hàng được lựa chọn ngoài yêu cầu phải đạt tiêu chuẩn phù hợp với thị trường quốc tế còn phải phù hợp với khả năng cung ứng của doanh nghiệp... Để lựa chọn được mặt hàng xuất khẩu đạt hiệu quả cao thì các nhà kinh doanh xuất khẩu phải chú ý nghiên cứu những vấn đề sau: Mặt hàng thị trường đang cần là gì ? Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải bán cái mà thị trường cần chứ không phải bán cái mà doanh nghiệp có. Nghĩa là doanh nghiệp phải tìm hiểu thị trường xem thị trường đang cần mặt hàng gì, nhu cầu đó như thế nào về quy cách, chủng loại, phẩm chất, mẫu mã, số lượng… Trên cơ sở này cùng với khả năng cho phép của mình mà tìm cách cung ứng mặt hàng đó. Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó như thế nào? Trong kinh doanh tình hình tiêu dùng luôn biến động, tuỳ thuộc vào thị hiếu tiêu dùng, thời gian tiêu dùng, tập quán của mỗi địa phương, mỗi quốc gia, quy luật biến động của quan hệ cung cầu…Có nắm bắt được tình hình này thì doanh nghiệp sẽ dễ dàng thoả mãn nhu cầu thị trường, tiến hành xuất khẩu hơn. Mặt hàng đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống? Mỗi mặt hàng đều có một khoảng thời gian tồn tại nhất định, mỗi khoảng thời gian này được thể hiện qua bốn giai đoạn của chu kỳ sống của sản phẩm bao gồm: Pha triển khai, Pha tăng trưởng, Pha bão hoà, Pha suy thoái. Sở dĩ phải xem xét hàng hoá đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống vì ở mỗi giai đoạn khác nhau thì hàng hoá đều có đặc điểm riêng, cách thức bán hàng riêng... Dựa vào đó các doanh nghiệp có thể đưa ra quyết định khác nhau, nhằm kéo dài chu kỳ sống, tăng doanh số, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Tình hình sản xuất và cung ứng mặt hàng đó ra sao? Các doanh nghiệp xuất khẩu phải đặc biệt quan tâm đến đối thủ cạnh tranh ngay cả trong nước và nước ngoài. Doanh nghiệp phải nắm vững tình hình cung cầu mặt hàng họ đang quan tâm. Đặc biệt doanh nghiệp phải tập trung vào yếu tố cung hàng hóa, các yếu tố đó bao gồm: khả năng sản xuất, tập quán sản xuất, việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất mặt hàng đó. Từ đó phát hiện ra mặt mạnh lẫn mặt yếu kém để tìm ra các giải pháp khắc phục các điểm yếu và phát huy những thế mạnh nhằ
Tài liệu liên quan