Thế giới đã và đang diễn ra những biến đổi to lớn và sâu sắc. Những thay đổi đó, một mặt tạo ra những cơ hội thuận lợi cho các nước đang trên đà phát triển có thể nắm bắt, vươn tới nhằm đạt được những mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, mặt khác đang đặt ra những thách thức, những vấn đề phức tạp hơn mà mỗi quốc gia phải đối phó giải quyết.
105 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1519 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số chính sách và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu ở Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Thế giới đã và đang diễn ra những biến đổi to lớn và sâu sắc. Những thay đổi đó, một mặt tạo ra những cơ hội thuận lợi cho các nước đang trên đà phát triển có thể nắm bắt, vươn tới nhằm đạt được những mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, mặt khác đang đặt ra những thách thức, những vấn đề phức tạp hơn mà mỗi quốc gia phải đối phó giải quyết.
Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới đang phát triển như vũ bão với tốc độ nhanh trên tất cả các lĩnh vực. Sự phát triển của khoa học công nghệ đã đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới. Ngày nay hợp tác quốc tế đã trở thành yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển đi lên của mỗi quốc gia. Hoà nhập với xu thế này, trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là từ khi tiến hành đổi mới kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng các hoạt động kinh tế đối ngoại. Trong báo cáo chính trị của ban chấp hành trung ương Đảng tại đại hội Đảng VIII đã nhấn mạnh:
“...Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập phát triển. Hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực ...”
Tuy nhiên, chúng ta tham gia hội nhập vào nền kinh tế thế giới nghĩa là chúng ta phải chấp nhận xu hướng hợp tác trong cạnh tranh. Đây vừa là thời cơ mà ta có thể tận dụng để phát triển đất nước đồng thời cũng là thách thức trước nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước xung quanh và trên thế giới. Hơn bao giờ hết xuất khẩu đóng vai trò hết sức quan trọng đối với phát triển kinh tế. Việc mở rộng xuất khẩu để tăng thu nhập ngoại tệ cho tài chính và cho nhu cầu nhập khẩu cũng như tạo cơ sở cho phát triển cơ sở hạ tầng là mục tiêu quan trọng. Nhà nước ta đã và đang thực hiện các chính sách và các biện pháp thúc đẩy các ngành kinh tế theo hướng xuất khẩu, khuyến khích khu vực tư nhân mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm, tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Do vậy, xây dựng được các chính sách và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu như thế nào để ta có thể tận dụng được những thuận lợi vượt qua những khó khăn trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hoá đất nước, đưa kinh tế đất nước phát triển bền vững đang là một vấn đề được Nhà nước ta đưa nên hàng đầu.
Xuất phát từ thực tế khách quan trên, sau một thời gian thực tập và nghiên cứu tại Vụ Thương mại và Dịch vụ - Bộ Kế hoạch và đầu tư, em xin viết đề tài: “Một số chính sách và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu ở Việt nam” làm đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp.
Nội dung đề tài bao gồm :
Chương I : Thương mại quốc tế và chính sách thúc đẩy xuất khẩu.
Chương II : Một số chính sách thúc đẩy xuất khẩu và tác động của nó tới hoạt động xuất khẩu ở Việt Nam
Chương III : Một số biện pháp và kiến nghị nhằm thúc đẩy xuất khẩu ở Việt nam.
Chương I
Thương mại quốc tế và chính sách thúc đẩy xuất khẩu
i. hương mại quốc tế và vai trò của nó đối với sự phát triển của mỗi quốc gia.
1- Các lý luận chung về thương mại quốc tế.
1.1 ý nghĩa của thương mại quốc tế .
Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các quốc gia thông qua mua bán. Sự trao đổi đó là hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của mỗi quốc gia .
Quốc gia cũng như cá nhân không thể sống riêng rẽ cách biệt với thế giới xung quanh.Thương mại quốc tế có tính chất sống còn vì một lí do cơ bản là ngoại thương mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với ranh giới của khả năng sản xuất tiêu dùng trong nước khi thực hiện chế độ tự cung tự cấp không buôn bán.
Tiền đề xuất hiện sự trao đổi là phân công lao động xã hội.Với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật phạm vi chuyên môn hoá ngày một tăng. Số sản phẩm cùng dịch vụ để thoả mãn nhu cầu con người ngày một dồi dào, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng tăng. Thương mại quốc tế xuất hiện từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiên của sản xuất những mặt hàng cụ thể và xuất khẩu những hàng hoá của mình để nhập khẩu những hàng hoá cần thiết từ nước khác.
Sự khác nhau về điều kiện sản xuất cũng giải thích được một số việc buôn bán giữa các nước, buôn bán các mặt hàng như dầu lửa, lương thực, dịch vụ, du lịch... Song như chúng ta được biết phần lớn số lượng thương mại quốc tế thuộc những mặt hàng không xuất phát từ những điều kiện vốn có của sản xuất như: Mỹ đã sản xuất được ô tô sao lại nhập ô tô của Nhật, cộng hoà liên bang Đức, Nam Triều Tiên...
Để có thể giải thích những lí do này người ta đã xây dựng nhiều lý thuyết nhằm giải thích tại sao các quốc gia lại trao đổi với nhau.
1.2 Các lý thuyết về thương mại quốc tế
1.2.1 Lý thuyết của Adam Smith về lợi thế tuyệt đối.
Lý thuyết về thương mại cổ điển xuất hiện vào thế kỷ XVIII cùng với thời kỳ nổ ra ba cuộc cách mạng: Cách mạng công nghiệp, cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp. Lý thuyết này được xây dựng trên cơ sở lý thuyết về buôn bán tự do được phát triển vào thời kỳ này. Năm 1776, trong tác phẩm “ sự giàu có của các dân tộc ” Adam Smith đã rũ bỏ quan niệm coi vàng đồng nghĩa với của cải và quan niệm các nước thu được lợi ích lớn nhất khi tham gia trao đổi các hàng hoá có thể sản xuất với hiệu quả tối đa. Điểm then chốt của lập luận này là ở chỗ các loại chi phí sản xuất sẽ là căn cứ cho biết từng nước hoặc từng bạn hàng buôn bán nên sản xuất mặt hàng nào.
Theo quan niệm về lợi thế tuyệt đối, một nước chỉ sản xuất các loại hàng hoá cho phép sử dụng tốt nhất các nguồn tài nguyên của nó. Các nguồn lực đó là đội ngũ lao động có tay nghề hoặc thậm chí cả truyền thống kinh doanh.
Việc sử dụng chính khái niệm lợi thế tuyệt đối này là cách giải thích đơn giản nhất về cách ứng xử trong buôn bán. Rõ ràng việc tiến hành thương mại giữa các quốc gia phải đảm bảo cho họ có lợi. Nếu một quốc gia có lợi và một quốc gia khác bị thiệt từ thương mại thì họ từ chối ngay. Giả sử thế giới chỉ có hai quốc gia và mỗi quốc gia chỉ sản xuất hai mặt hàng giống nhau. Quốc gia thứ nhất có lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất hàng hoá X và quốc gia thứ hai có lợi trong sản xuất hàng hoá Y so với quốc gia thứ nhất. Nếu mỗi quốc gia tiến hành chuyên môn hoá trong việc sản xuất một mặt hàng mà họ có lợi thế tuyệt đối, sau đó trao đổi thì cả hai quốc gia đều có lợi. Trong quá trình này, các nguồn lực sản xuất của cả thế giới sẽ được sử dụng một cách hiệu quả nhất, do đó tổng sản phẩm của thế giới sẽ gia tăng. Sự tăng thêm của các sản phẩm của thế giới sẽ gia tăng. Sự tăng thêm của các sản phẩm của toàn thế giới là nhờ vào sự chuyên môn hoá và sẽ được phân bổ giữa hai quốc gia theo tỷ lệ trao đổi thông qua ngoại thương.
Như vậy, trong khi những người theo chủ nghĩa trọng thương cho rằng trong thương mại quốc tế chỉ có một số quốc gia có lợi còn một số khác bị thiệt, thì Adam Smith tin tưởng rằng tất cả các quốc gia đều có lợi từ ngoại thương và đã ủng hộ rất mạnh mẽ cho chính sách tự do kinh doanh. Ngoại thương tự do sẽ là nguyên nhân làm cho các nguồn tài nguyên của thế giới được sử dụng một cách hiệu quả nhất và phúc lợi của thế giới nói chung sẽ được tạo ra ở mức tối đa. Tuy nhiên ở đây có một số trường hợp đặc biệt phải loại trừ ra như khi cần bảo vệ một số ngành công nghiệp non trẻ.
Thực chất về lợi thế tuyệt đối có thể minh hoạ qua ví dụ sau:
Giả sử một giờ công ở Việt Nam sản xuất được 6kg gạo hoặc 4kg thịt bò, trong khi ở Đài Loan được 1kg gạo hoặc 5kg thịt bò.
Hàng hoá
Việt Nam
Đài Loan
Gạo (1kg/1giờ công)
6
1
Thịt bò (1kg/1giờ công)
4
5
Như vậy Việt Nam có lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất gạo so với Đài Loan còn Đài Loan có lợi thế tuyệt đối so với Việt Nam trong việc sản xuất thịt bò. Việt Nam sẽ chuyên môn hoá trong việc trồng lúa còn Đài Loan sẽ chuyên môn hoá trong việc nuôi bò và sau đó hai nước trao đổi một phần các sản phẩm nói trên cho nhau.
Nếu tỷ lệ trao đổi quốc tế của Việt Nam đổi 6 kg thịt bò của Đài Loan thì Việt Nam sẽ lãi được 2 kg thịt bò hay tiết kiệm 1/2 giờ công lao động, vì mỗi ngày công lao động ở Việt Nam chỉ sản xuất được 4kg thịt bò và tỷ lệ trao đổi nội địa là 6kg gạo = 4kg thịt bò. Tương tự, 6 kg gạo mà Đài Loan nhận từ Việt Nam tương đương với 6 giờ công ở Đài Loan và có thể tạo được 30kg thịt bò ở Đài Loan. Bằng việc trao đổi 6 kg thịt bò lấy 6 kg gạo thì Đài Loan vẫn lợi được 24 kg thịt bò hoặc tiết kiệm gần 5 giờ công lao động . ở đây ta thấy Đài Loan có lợi nhiều hơn so với Việt Nam và nếu tỷ lệ trao đổi thay đổi thì lợi ích đó sẽ được bình quân hoá. Điều đáng chú ý là cả hai quốc gia đều có lợi. Tỷ lệ trao đổi quốc tế sẽ ở khoảng giữa các tỷ lệ trao đổi nội địa.
6/4 > tỷ lệ trao đổi quốc tế (gạo/thịt ) > 1/5
Lợi thế tuyệt đối, tuy nhiên chỉ giải thích cho một phần nhỏ của thương mại quốc tế hiện nay, đó là thương mại giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển. Phần lớn thương mại thế giới, đặc biệt là giữa các nước phát triển không thể giải thích được bằng lợi thế tuyệt đối. Trong những cố gắng để giải thích các cơ sở của thương mại quốc tế, lợi thế tuyệt đối chỉ là một trường hợp của lợi thế so sánh (lợi thế tuyệt đối ).
1.2.2 Lý thuyết về lợi thế so sánh của David Ricardo.
Lợi thế so sánh - quy luật cơ bản của thương mại quốc tế. Quy luật về lợi thế so sánh (lợi thế tương đối ) là một trong những ý tưởng vĩ đại của kinh tế học cổ điển Anh do David Ricardo đề xướng. Theo quy luật lợi thế so sánh, nếu một quốc gia có hiệu quả thấp so với các quốc gia khác trong sản xuất hầu hết các loại sản phẩm, thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích cho mình. Nghĩa là, nếu quốc gia này tham gia vào thương mại quốc tế thì nó có thể thu được lợi ích không nhỏ. Khi tham gia thương mại quốc tế, quốc gia có hiệu quả thấp trong sản xuất tất cả các loại hàng hoá sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng ít bất lợi nhất ( đó là các hàng hoá có lợi thế tương đối )
Mô hình đơn giản của D. Ricardo dựa trên 5 giả thuyết sau:
- Thế giới chỉ có hai quốc gia và chỉ sản xuất hai mặt hàng, mỗi quốc gia có lợi thế về một mặt hàng.
- Lao động là yếu tố sản xuất duy nhất có thể di chuyển trong mỗi quốc gia, nhưng không di chuyển giữa các nước.
- Công nghệ sản xuất ở hai nước là cố định.
- Chi phí sản xuất cố định, không có chi phí vận tải.
- Thương mại hoàn toàn tự do giữa hai nước.
Ví dụ sau đây biểu thị mô hình giản đơn của D.Ricardo.
Lợi thế so sánh (lợi thế tương đối )
Đài Loan Việt nam
Giá cả của 1kg thép 1USD 2USD
Giá cả của 1kg vải 1.5 USD 1USD
Ví dụ trên cho thấy: Đài loan có lợi thế tuyệt đối so với Việt nam về cả hai loại hàng hoá. Nhưng khi năng suất lao động ở ngành thép của Đài Loan gấp 6 lần của Việt nam thì năng suất lao động ở ngành dệt của Đài loan chỉ gấp 2 lần. Như vậy giữa thép và vải thì Việt Nam có lợi thế tương đối trong việc sản xuất vải, còn Đài loan có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất cả hai loại hàng hoá so với Việt Nam, nhưng chỉ có lợi thế tương đối trong sản xuất thép.Theo quy luật lợi thế tuyệt đối thì cả hai quốc gia sẽ đều có lợi nếu Đài loan chuyên môn hoá sản xuất thép còn Việt Nam chuyên môn hoá sản xuất vải, sau đó tiến hành trao đổi một phần thép lấy một phần vải cho nhau.
Những lợi thế do thương mại đem lại :
Từ ví dụ trên ta thấy: nếu tiến hành trao đổi 6kg thép láy 4m vải thì sẽ chẳng có gì thay đổi đối với Đài loan, bởi vì ngay trong thị trường nội địa Đài loan đã trao đổi theo tỷ lệ này.Tương tự, nếu trao đổi theo tỷ lệ 1kg thép lấy 2m vải thì Việt Nam sẽ từ chối trao đổi vì ngay trong thị trường nội địa Việt nam cũng đã trao đổi theo tỷ lệ này. Do đó tỷ lệ trao đổi quốc tế phải ở khoảng giữa, tức là :
6/4 > tỷ lệ trao đổi quốc tế (thép/ vải) > 1/2
Giả sử tỷ lệ trao đổi quốc tế là 1/1 tức là 6kg thép đổi 6m vải thì Đài loan sẽ có lợi 2m vải, tức là tiết kiệm được 2 giờ công. Còn Việt nam nhận được 6kg thép từ Đài loan mà bình thường đáng lẽ phải bỏ ra 6 giờ công mới sản xuất được. Việt nam sẽ sử dụng 6 giờ công đó để chuyên môn hoá sản xuất vải và tạo ra được 12m vải và chi phí phải dùng là 6m vải để đổi lấy 6kg thép, như vậy còn lợi ra 6m vải hay tiết kiệm được 3 giờ công.
Nếu trao đổi theo tỷ lệ của Việt nam thì 6kg thép sẽ đổi lấy 12m vải, còn theo tỷ lệ của Đài loan thì sẽ đổi 6kg thép lấy 4m vải. Nếu tỷ lệ trao đổi gần tỷ lệ trao đổi nội địa Đài loan thì Việt nam càng có lợi và ngược lại, nếu gần tỷ lệ Việt nam thì Đài loan càng có lợi. Tóm lại, khi tiến hành trao đổi theo tỷ lệ ở khoảng giữa thì cả hai quốc gia đều có lợi. Khoảng dao động của tỷ lệ trao đổi quốc tế là:
4m vải < 6kg thép < 12m vải
Trong trường hợp 6 kg thép đổi 6m vải thì Đài loan được lợi 2m vải còn Việt nam được lợi 6m vải. Còn nếu trao đổi 6kg thép lấy 8m vải thì Đài loan được lợi 4m vải còn Việt nam cũng được lợi 4m vải. Như vậy khi tỷ lệ trao đổi quốc tế thay đổi sẽ dẫn đến sự phân phối lại nguồn lực từ thương mại giữa các nước tham gia.
1.2.3 cách tiếp cận của Haberler về lợi thế tương đối ( hay lợi thế tương đối xét từ góc độ chi phí cơ hội).
D.Ricardo khi nghiên cứu quy luật về lợi thế tương đối đã dựa trên hàng loạt các giả thuyết đơn giản hoá của lý thuyết giá trị lao động để chứng minh quy luật trên. Song trên thực tế lao động không phải là đồng nhất, những ngành sản xuất khác nhau sẽ có cơ cấu lao động khác nhau với mức lương, năng suất lao động và trình độ tay nghề khác nhau. Hơn nữa, hàng hoá làm ra không chỉ bởi lao động mà cả yếu tố sản xuất khác như đất đai, vốn, khoa học- kỹ thuật. Việc so sánh hàm lượng lao động của những mặt hàng khác nhau sẽ đưa ra nhận định sai lệch về giá trị tương đối, bởi vì việc sản xuất những mặt hàng đó đòi hỏi tỷ trọng khác nhau về các yếu tố sản xuất. Do đó lý thuyết trên không nhận được sự tán đồng hoàn toàn của các nhà kinh tế học. Mãi đến năm 1936 Gorttied Haberler mới đưa ra lý thuyết chi phí cơ hội để chứng minh cho quy luật lợi thế tương đối ( lợi thế so sánh ) một cách rõ ràng.
Theo lý thuyết Haberler thì chi phí cơ hội của một hàng hoá là số lượng các hàng hoá khác phải cắt giảm để nhường lại đủ các nguồn tài nguyên để sản xuất thêm một đơn vị hàng hoá thứ nhất. Như vậy, quốc gia nào có chi phí cơ hội thấp trong việc sản xuất một loại hàng hoá nào đó thì họ có lợi thế tương đối ( lợi thế so sánh ) trong việc sản xuất hàng hoá đó và không có lợi thế tương đối trong việc sản xuất hàng hoá thứ hai.
Ví dụ: khi không có thương mại quốc tế thì Đài loan phải bỏ đi 2/3 số đơn vị của cải để dành lại đủ các nguồn tài nguyên cho việc sản xuất thêm một đơn vị thép. Như thế chi phí cơ hội về thép ở Đài loan là 1 thép = 2 vải. Như vậy, Đài loan có lợi thế tương đối trong việc sản xuất vải. Theo quy luật lợi thế tương đối Đài loan sẽ chuyên môn hoá sản xuất thép còn Việt nam sẽ chuyên môn hóa sản xuất vải.
2. Vai trò của thương mại quốc tế đối với sự phát triển của mỗi quốc gia.
Thương mại quốc tế có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, không chỉ do nó cho phép mở rộng khả năng tiêu dùng của mỗi quốc gia mà nó còn giúp quốc gia đó phát triển. Bên cạnh đó có nhiều lý do khác khiến thương mại quốc tế trở nên vô cùng quan trọng.
Thương mại quốc tế cần thiết cho việc thực hiện chuyên môn hoá sâu để có hiệu quả kinh tế trong nhiều ngành công nghiệp hiện đại. Chuyên môn hoá quy mô lớn làm cho chi phí sản xuất giảm và hiệu quả kinh tế theo quy mô sẽ được thực hiện ở từng nước trong các nước khác nhau.
Sự khác nhau về sở thích hay mức cầu cũng là một nguyên nhân khác để có thể buôn bán. Ngay cả trong trường hợp hiệu quả tuyệt đối trong hai nơi giống hệt nhau, buôn bán vẫn có thể diễn ra do khác nhau về sở thích.
Có thể nói nhu cầu trao đổi xuất hiện từ thời cổ đại nhưng chỉ từ khi ra đời của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa mới phá vỡ tính chất đóng kín của từng đơn vị kinh tế trong từng quốc gia và của từng nước.
Chế độ tư bản chủ nghĩa gắn chặt thị trường dân tộc với thị trường thế giới, gắn chặt phân công lao động trong nước với phân công lao động quốc tế. Ngoại thương trở nên không thể thiếu được với phương thức sản xuất đó, như Lê-Nin đã nhận xét: “ không có thị trường bên ngoài thì một số nước tư bản không thể sống được ”.
Thực tế chứng minh rằng không một quốc gia nào có thể bằng chính sách đóng cửa với nước ngoài lại phát triển nhanh và có hiệu quả kinh tế cao được. Muốn phát triển nhanh, mỗi nước không thể đơn độc dựa vào nguồn lực của mình mà phải biết tận dụng có hiệu quả tất cả các thành tựu kinh tế, khoa học kỹ thuật của nhân loại đã đạt được. Nền kinh tế mở cửa sẽ mở ra những tiềm năng sẵn có của một nước nhằm sử dụng phân công lao động quốc tế một cách có lợi nhất.
Mở rộng thương mại quốc tế và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại là vận dụng một trong những bài học kinh nghiệm quý báu rút ra từ thực tiễn nước ta trong những năm qua. Đại hội VIII Đảng ta khẳng định: “ chúng ta chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt thể chế chính trị, xã hội trên nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình ”.
Cho đến nay dù thành tựu đã đạt được xong chưa có thể giúp chúng ta thoát khỏi vị trí là một trong những nước nghèo trên thế giới nhưng cũng có những kết quả đáng mừng từ chính sách mở rộng thương mại, giao lưu kinh tế với bên ngoài. Nước ta đang từng bước chuyển mình với nhịp độ sản xuất mới bằng những công nghệ khoa học tiên tiến. Tin tưởng rằng, với những hướng đi đúng dắn, với những ưu thế của mình và sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, Việt nam sẽ trở thành một mắt xích quan trọng trong nền kinh tế thế giới.
II. Vị trí, vai trò của xuất khẩu đối với sự phát triển của một quốc gia.
1. Vị trí của xuất khẩu hàng hoá.
Xuất khẩu hàng hoá là những việc mua bán trao đổi hàng hoá, dịch vụ của một nước này với các nước khác và dùng ngoại tệ làm phương tiện trao đổi. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trong nền kinh tế có thương mại quốc tế mở rộng bao gồm cả việc bán sản phẩm hàng hoá ra nước ngoài và nhập khẩu sản phẩm từ nước khác. Kinh doanh xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán thuộc phạm vi quốc tế và là hoạt động kinh tế thương mại rất phức tạp. Do đó nó không chỉ là một hành vi bán riêng lẻ mà là cả một quá trình kinh doanh phức tạp bao gồm nhiều khâu khác nhau.
Trong thời đại ngày nay, thời đại của cùng tồn tại hoà bình, cùng vươn tới ấm no hạnh phúc và cũng là thời đại của việc vươn tới mở cửa và mở rộng giao lưu kinh tế. Do đó xu hướng phát triển của nhiều nước trong những năm gần đây là thay đổi chiến lược kinh tế từ “đóng cửa” sang “mở cửa” và từ “thay thế nhập khẩu” sang “hướng vào xuất khẩu”. Có thể nói đây là con đường đúng đắn cho sự phát triển vượt bậc giúp cho nền kinh tế của mỗi quốc gia ngày càng phát triển.
Đối với những nước mà nền kinh tế chưa phát triển cao như nước ta thì những nhân tố thuộc về tiềm năng như lao động và tài nguyên thiên nhiên là rất lớn trong khi các nhân tố như vốn, kỹ thuật - công nghệ, và kinh nghiệm quản lý còn thiếu. Vì vậy, chiến lược hướng vào xuất khẩu thực chất là giải pháp “mở cửa ” nền kinh tế nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài kết hợp với những tiềm năng bên trong về lao động và tài nguyên thiên nhiên sẽ giúp cho nền kinh tế Việt nam tăng trưởng nhanh, rút ngắn khoảng cách chênh lệch giàu nghèo. Mặt khác, Việt nam cũng phải ra sức phát triển sản xuất, xuất khẩu hàng hoá, nhập khẩu những công nghệ mới tiên tiến nhằm thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế đã đặt ra.
Xuất khẩu hàng hoá nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá của quá trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích liên kết sản xuất với tiêu dùng của nước này với nước khác. Ngoài ra, xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài cho phép chúng ta khai thác được tiềm năng, thế mạnh về sức lao động và tài nguyên thiên nhiên. Vì vậy, nền sản xuất xã hội phát triển như thế nào trong giai đoạn hiện nay phụ thuộc rất lớn vào hoạt động xuất khẩu.
Xuất khẩu không những được thừa nhận là hoạt động cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại mà nó còn là một phương tiện thúc đ