Đề tài Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại công ty Thương mại dịch vụ nhựa

Đất nước Việt nam đã và đang trong một thời kỳ đổi mới kinh tế đầy sống động. Công cuộc đổi mới này được bắt nguồn từ đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986). Đại hội VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện cho nền kinh tế, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng và liên tục đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Đóng góp vào thành công này có nhiều yếu tố nhưng một bộ phận vô cùng quan trọng phải kể đến là việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.

doc83 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1472 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại công ty Thương mại dịch vụ nhựa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Đất nước Việt nam đã và đang trong một thời kỳ đổi mới kinh tế đầy sống động. Công cuộc đổi mới này được bắt nguồn từ đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986). Đại hội VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện cho nền kinh tế, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng và liên tục đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Đóng góp vào thành công này có nhiều yếu tố nhưng một bộ phận vô cùng quan trọng phải kể đến là việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Xuất nhập khẩu là lĩnh vực cần thiết không thể thiếu đối vối bất kỳ quốc gia nào.Để tăng trưởng kinh tế nhanh chóng quốc gia cần đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu bởi vì xuất khẩu sẽ thúc đẩy nền kinh tế trong nước còn nhập khẩu sẽ đảm bảo cho quá trình sản xuất được liên tục, có hiệu quả góp phần mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng, từng bước ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân. Việt Nam tuy là một nước giàu tài nguyên nhưng vẫn chưa đảm bảo được đầy đủ nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất trong nước. Nắm được thực trạng đó ngay từ ngày đầu thành lập công ty Thương mại dịch vụ nhựa đã rất chú trọng vào lĩnh vực nhập khẩu nguyên liệu nhựa, hoá chất nhựa. Công ty đã đầu tư rất lớn vào lĩnh vực này và biến nó thành ngành kinh doanh chủ yếu của công ty nhằm cung cấp đủ cho nhu cầu của các nhà máy, doanh nghiệp sản xuất sản phẩm nhựa trong toàn quốc. Như vậy, nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu không những có ý nghĩa quyết định đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu mà còn có ý nghĩa to lớn về mặt xã hội. Qua nhận thức về mặt lý luận tại trường đại học Kinh tế quốc dân cùng với thời gian thực tập nghiên cứu tại công ty Thương mại dịch vụ nhựa, được sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Th.s Cao Thuý Xiêm và gợi ý của các cán bộ trong công ty tôi xin mạnh dạn chọn đề tài: “Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại công ty Thương mại dịch vụ nhựa”. Mục tiêu nghiên cứu của đề tàI: Vận dụng lý luận vào thực trạng hoạt động nhập khẩu của công ty để rút ra những mạt được, tồn tạI cơ bản,nguyên nhân gây ra những tồn tại. Trên cơ sở đó đề xuất một số giảI pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: đề tàI lấy công ty thương mạI dịch vụ nhựa làm đối tượng nghiên cứu. Hoạt động của công ty có nhiều mặt, đề tàI chỉ đI sâu nghiên cứu về hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty. Đề tài gồm 3 phần: Chương I : Lý luận chung về hoạt động nhập khẩu và hiệu quả kinh doanh nhập khẩu Chương II : Phân tích tình hình hoạt động nhập khẩu và hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty Thương mại dịch vụ nhựa trong thời gian qua . Chương III : Một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại công ty Thương mại dịch vụ nhựa Chương I Lý luận chung về hoạt động nhập khẩu và hiệu quả kinh doanh nhập khẩu I. Hoạt động nhập khẩu trong nền kinh tế thị trường 1. Sự cần thiết của nhập khẩu: Khái niệm hoạt động nhập khẩu là việc mua bán trao đổi hàng hoá dịch vụ của nước này với nước khác và dùng ngoại tệ làm phương tiện trao đổi. Nó không chỉ là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là một hệ thống các quan hệ buôn bán trong một nền kinh tế có các tổ chức bên trong và bên ngoài. Vậy thực chất nhập khẩu ở đây là nhập khẩu từ các tổ chức kinh tế, các công ty nước ngoài và tiến hành tiêu thụ các hàng hoá đó ở thị trường nội địa hoặc tái sản xuất với mục đích thu lợi nhuận, nối liền sản xuất giữa các quốc gia. Thực tế đã chứng minh rằng: không một nước nào, quốc gia nào có khả năng sản xuất mọi loại hàng hoá đáp ứng mọi nhu cầu trong nước và con người đã thấy được lợi ích của trao đổi hàng hoá giữa các nước từ khi xuất hiện nền kinh tế sản xuất hàng hoá. Hoạt động xuất nhập khẩu là cần thiết vì lý do cơ bản là khai thác được lợi thế so sánh của nước xuất khẩu và mở rộng khả năng tiêu dùng của nước nhập khẩu. Nhà kinh tế học người Anh David Ricardo đã chứng minh được rằng, chuyên môn hoá quốc tế có lợi cho mọi quốc gia và gọi đó là quy luật lợi thế tương đối hay lý thuyết về lợi thế so sánh. Lý thuyết này khẳng định, mọi nước đều có lợi khi tham gia vào thương mại quốc tế. Một quốc gia hay các cá nhân có thể nâng cao mức sống và thu nhập thực tế bằng cách chuyên môn hoá vào sản xuất các hàng hoá mà quốc gia đó có thể sản xuất với hiệu quả sản xuất cao nhất và xuất khẩu các hàng hoá đó đổi lấy hàng nhập khẩu từ quốc gia, khu vực khác. Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật thì phạm vi chuyên môn hoá ngày càng tăng. Chuyên môn hoá quy mô lớn làm cho chi phí sản xuất giảm và hiệu quả kinh tế theo quy mô sẽ thực hiện. Từ đó nó mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng của mỗi quốc gia. Hoạt động nhập khẩu đã cho phép một quốc gia tiêu dùng các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng so với danh giới khả năng sản xuất và tiêu dùng trong nước khi thực hiện chế độ tự cung tự cấp, không giao lưu buôn bán. Như vậy, hoạt động nhập khẩu làm cho mỗi quốc gia có nhiều loại hàng hoá hơn, có thể cải thiện cuộc sống trong nước. Ngoài ra, sự cần thiết của nhập khẩu còn được chứng minh qua việc nó góp phần phát huy được thị hiếu của dân cư mỗi nước. Các nước có lực lương sản xuất phát triển, có kỹ thuật công nghệ tiên tiến sẽ sản xuất ra nhiều loại hàng hoá khác nhau, chất lượng tốt hơn và giá cả rẻ hơn các nước có ít nguồn lực và lực lượng sản xuất kém phát triển. Nhưng nhu cầu của con người thì không có giới hạn. Chỉ có thông qua con đường thương mại quốc tế các nước sẽ mua, nhập khẩu những hàng hoá dịch vụ ở những thị trường có giá rẻ, chất lượng cao và bán, xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ trên thị trường có giá cả đắt. ở đây điều quan trọng hơn cho các nước là không phải lúc nào cũng nhập khẩu được hàng hoá, dịch vụ giá rẻ và xuất khẩu được giá đắt mà chính là các nước đã lợi dụng được lợi thế so sánh để trao đổi quốc tế để sao cho cả hai bên đều có lợi. Hoạt động nhập khẩu cũng có thể mang vào trong nước những trào lưu mới, những phong tục tập quán của các quốc gia khác nhau đồng thời cũng diễn ra sự cạnh tranh giữa hàng hoá trong nước và hàng hoá nhập khẩu gây ra những khó khăn cho một số ngành sản xuất trong nước kéo theo một số tầng lớp dân cư. Do vậy, các quốc gia đều có chính sách rất cụ thể, rõ ràng với vấn đề thương mại quốc tế. Nước ta từ đại hội đảng lần thứ VI đã có một bước ngoặt đúng đắn có ý nghĩa quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế đất nước. Đó là việc đổi mới cơ chế hành chính, từ đó dẫn đến đổi mới chính sách thương mại quốc tế. Đảng ta nhận rõ: Thương mại quốc tế trong kinh tế hàng hoá nhiều thành phần tất yếu dẫn tới cạnh tranh, theo dõi kiểm soát lẫn nhau giữa các chủ thể kinh doanh hàng hoá lạc hậu. Đó chính là tiến trình phát triển của lịch sử và Việt Nam. Bởi vậy, nhập khẩu nói riêng và hoạt động thương mại quốc tế nói chung là tất yếu khách quan, tạo ra hiệu quả kinh tế cao nhất trong nền sản xuất của mỗi quốc gia cũng như trên toàn thế giới. 2. Vai trò của hoạt động nhập khẩu Xuất nhập khẩu nói chung và nhập khẩu nói riêng là hoạt động kinh doanh thương mại ở phạm vi quốc tế. Nhập khẩu thể hiện mối liên hệ không thể thiếu giữa các nền kinh tế các quốc gia với nền kinh tế thế giới. Nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống trong nước. Nhập khẩu để bổ sung các hành hoá mà trong nước không sản xuất được hay không đáp ứng được nhu cầu Trong điều kiện nền kinh tế hiện nay của đất nước ta, vai trò nhập khẩu trở nên quan trọng được thể hiện ở khía cạnh sau: - Nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng từng bước công nghiệp hoá đất nước. Bởi vì nhập khẩu đòi hỏi sự đồng bộ về kỹ thuật nên sẽ tạo ra dây truyền hiện đại kéo theo sự đổi mới trong đội ngũ cán bộ kỹ thuật và quản lý, tạo ra kỷ luật lao động chặt chẽ trong đội ngũ công nhân, gây ý thức hiệu quả. -Nhập khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung ứng đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản trong nước. Đồng thời thông qua nhập khẩu hàng hoá, Việt Nam sẽ tham gia vào thị trường cạnh tranh thế giới, điều này đòi hỏi sự năng động, sáng tạo của từng doanh nghiệp. -Nhập khẩu cũng làm đa dạng hoá mặt hàng, chủng loại, quy cách, mẫu mã các loại hàng hoá góp phần cải thiện và nâng cao mức sống nhân dân. Nhập khẩu máy móc thiết bị, đầu tư xây dựng là nơi thu hút hàng triệu lao động, vừa giải quyết công ăn việc làm, hạn chế tệ nạn xã hội, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh. -Nhập khẩu bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế, đảm bảo phát triển nền kinh tế cân đối và ổn định. -Nhập khẩu phát huy cao độ tính năng động sáng tạo của mỗi doanh nghiệp, mỗi tổ chức, mỗi cán bộ tham gia hoạt động nhập khẩu. Nhờ nhập khẩu mà các luồng thông tin được khai thông, các mối quan hệ được sử dụng tích cực. -Nhập khẩu tạo sự cạnh tranh của hàng hoá nội và hàng hoá ngoại, tạo ra động lực cho các nhà sản xuất trong nước buộc phải không ngừng vươn lên để tồn tại, tạo ra sự phát triển thực chất của sản xuất xã hội và thanh lọc các đơn vị sản xuất yếu kém. -Nhập khẩu có vai trò tích cực đến thúc đẩy xuất khẩu. Nhập khẩu giải quyết tình trạng thiếu nguyên liệu trong nước, tạo đầu vào cho sản xuất. Nhập khẩu hiện đại hoá công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế để xuất khẩu, đồng thời giảm các hao phí, tiết kiệm nguyên vật liệu đầu vào, giảm giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trong nước trên thị trường quốc tế. Để phát huy vai trò của hoạt động nhập khẩu cần: -Mở rộng sự tham gia của các thành phần kinh tế vào hoạt động dưới sự quản lý của nhà nước. -Coi trọng hiệu quả kinh tế xã hội trong hoạt động nhập khẩu, tức là không chỉ vì mục đích chạy theo lợi nhuận mà bất chấp bỏ qua lợi ích xã hội. -Đảm bảo nguyên tắc ngoại thương và quan hệ kinh tế với nước ngoài. Trong hoạt động phải chú ý tạo uy tín không chỉ với các nước trong khu vực mà với tất cả cácnước trên thế giới trên cơ sở tôn trọng, bình đẳng và cùng có lợi. 3. Một số hình thức nhập khẩu chủ yếu: Trong sự phát triển đa dạng chung của thế giới hiện đại thì hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng cũng phát triển phong phú dưới nhiều hình thức. Có thể kể ra một vài hình thức nhập khẩu thông dụng đang được áp dụng rộng rãi ở các doanh nghiệp như sau: 3.1. Nhập khẩu trực tiếp: Nhập khẩu trực tiếp là hoạt động nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp, doanh nghiệp phải đầu tư, nghiên cứu thị trường, tính toán chi phí sao cho có lãi, ký kết và thực hiện hợp đồng theo đúng chính sách, luật pháp của quốc gia cũng như của quốc tế. ở hoạt động nhập khẩu trực tiếp, doanh nghiệp nhập khẩu phải chịu mọi chi phí, mọi rủi ro cũng như phải chịu trách nhiệm pháp lý về mọi hoạt động nhập khẩu của mình. 3.2. Nhập khẩu uỷ thác: Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động nhập khẩu hình thành giữa một doanh nghiệp trong nước có vốn ngoại tệ riêng và có nhu cầu nhập khẩu một số loại hàng hoá nhưng không có quyền tham gia quan hệ xuất nhập khẩu trực tiếp đã uỷ thác cho doanh nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành nhập khẩu hàng theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác phải tiến hành đàm phán với nước ngoài để làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu của bên uỷ thác và được hưởng một phần thù lao gọi là phí uỷ thác. Bên uỷ thác vẫn phải tự mình nghiên cứu thị trường, lựa chọn mặt hàng, đối tượng giao dịch và chịu mọi chi phí liên quan. 3.3. Nhập khẩu liên doanh: Nhập khẩu liên doanh là hoạt động nhập khẩu trên cơ sở liên kết kinh tế tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp kỹ năng để cùng giao dịch và đề ra các biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này theo hướng có lợi nhất cho cả hai bên. 3.4. Nhập khẩu đổi hàng: Nhập khẩu đổi hàng cùng trao đổi bù trừ là hai loại nghiệp vụ chủ yếu của buôn bán đối lưu. Nó là một hình thức nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu, thanh toán không dùng tiền mà là hàng hoá. ở đây mục đích nhập khẩu hàng hoá không phải chỉ để thu lãi từ hoạt động nhập mà còn nhằm để xuất được hàng, thu được lãi từ hoạt động xuất. 3.5. Nhập khẩu tái xuất: Nhập khẩu tái xuất là hình thức nhập khẩu nhưng không phaỉ để tiêu thụ trong nước mà để tái xuất sang nước thứ ba nhằm thoả mãn nhu cầu và lợi nhuận. Những hàng nhập này không được qua chế biến ở nước tái xuất. Doanh nghiệp nước tái xuất phải tính toán chi phí, ghép mối bạn hàng xuất và nhập để làm sao cho thu được số tiền lớn hơn chi phí bỏ ra. Như vậy, nhập khẩu tái xuất luôn thu hút ba bên: bên nhập khẩu, bên tạm nhập tái xuất và bên xuất khẩu. Hàng hoá không nhất thiết phải chuyển qua nước tái xuất mà có thể chuyển qua nước thứ ba (nước nhập khẩu). Tiền trả cho nước xuất khẩu do nước tái xuất thu được từ xuất khẩu sang nước thứ ba. Nhiều khi bên tái xuất còn thu được lợi do thu nhanh trả chậm. II. Hiệu quả kinh doanh và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh 1. Hiệu quả kinh doanh 1.1.Khái niệm Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp đều phải xác định cho mình các mục tiêu hoạt động kinh doanh cụ thể. Để đạt được mục tiêu đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh thích hợp. Mục tiêu bao trùm lâu dài của mọi doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu này, trước hết mọi doanh nghiệp phải xác định tính toán sao cho sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu vaò để đạt được lợi nhuận tối đa. Như vậy, hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh luôn gắn liền với các yếu tố chi phí đầu vào và kết quả đạt được. Mọi khái niệm hiệu quả kinh doanh được đưa ra đều chỉ ra mối liên hệ giữa kết quả đạt được và chi phí đầu vào ở những khía cạnh khác nhau. Như vậy, hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực như lao động, vốn, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu... để đạt được các mục tiêu kinh doanh mà doanh nghiệp đã xác định. Có thể biểu diễn khái niệm bằng công thức sau: Trong đó: H: Là hiệu quả kinh tế của một quá trình kinh tế nào đó K: Là kết quả thu được từ nó C: là chi phí toàn bộ để đạt được kết quả đó Như thế, hiệu quả kinh doanh phản ánh mặt chất lượng các hoạt động sản xuất kinh doanh, trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp trong sự vận động không ngừng của các quá trình sản xuất kinh doanh, không phụ thuộc vào quy mô và tốc độ biến động của từng nhân tố. 1.2. Bản chất: Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế rất rộng phản ánh những lợi ích đạt được từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Để hiểu rõ bản chất của phạm trù hiệu quả kinh doanh cần phân biệt rõ ranh giới giữa hai phạm trù hiệu quả và kết quả. Có thể hiểu kết quả là phạm trù phản ánh những cái thu được sau một quá trình kinh doanh hay một khoảng thời gian kinh doanh nào đó, kết quả cần đạt bao giờ cũng là mục tiêu cần thiết của doanh nghiệp. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh nghiệp có thể cân, đo, đong, đếm được như số sản phẩm tiêu thụ mỗi loại, doanh thu, thị phần... và cũng có thể là các đại lượng chỉ phản ánh mặt chất lượng hoàn toàn có tính chất định tính như uy tín, chất lượng sản phẩm... Những kết quả này lại không cho thấy được trình độ quản lý, trình độ sử dụng đầu vào của doanh nghiệp. Trong khi đó hiệu quả là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất. ở công thức (1) ta thấy khái niệm phạm trù hiệu quả kinh doanh bao gồm kết quả (đầu ra) và chi phí (nguồn lực đầu vào) để đánh giá hiệu quả kinh doanh. Cả hai chỉ tiêu kết quả và chi phí đều được tính bằng cả hai đơn vị hiện vật và giá trị. Tuy nhiên nếu tính bằng đơn vị hiện vật thì rất khó xác định do tính không đồng nhất đơn vị đo lường . Vì vậy người ta thường tính hiệu quả theo đơn vị giá trị mà biểu hiện là tiền tệ . Như vậy , bản chất của hiệu quả kinh doanh chính là hiệu quả của lao động xã hội , nó phản ánh mặt chất lượng của hoạt động kinh doanh , phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố đầu vào của quá trình kinh doanh để đạt được mục tiêu lợi nhuận . Đồng thời nó cũng là thước đo trình độ tiết kiệm yếu tố đầu vào, nguồn lực xã hội . Tiêu chuẩn hiệu quả đặt ra là việc tối đa hoá kết quả hoặc tối thiểu hoá chi phí dựa trên điều kiện nguồn lực sẵn có. 1.3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh Hiệu quả kinh doanh được coi như là một trong những công cụ để các nhà quản trị thực hiện chức năng của mình. Việc xem xét và tính toán hiệu quả kinh doanh không những chỉ cho biết việc sử dụng đạt được ở trình độ nào đó mà còn cho phép các nhà quản trị phân tích và tìm ra các nhân tố để đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. Việc nâng cao hiệu quả kinh doanh có thể được hiểu là tạo ra kết quả cao hơn trong cùng một nguồn lực đầu vào hoặc kết quả tăng kết quả lớn hơn so với tốc độ tăng việc sử dụng các nguồn lực đầu vào. Chúng ta đều biết rằng các nguồn lực xã hội là một phạm trù khan hiếm: càng ngày người ta càng sử dụng nhiều các nguồn lực sản xuất vào các hoạt động sản xuất phục vụ các nhu cầu khác nhau của con người. Các nguồn lực sản xuất xã hội ngày càng giảm thì nhu cầu của con người lại ngày càng đa dạng và tăng lên. Điều này đòi hỏi các nhà sản xuất, kinh doanh phải biết tận dụng và sử dụng tiết kiệm tối đa các nguồn lực đầu vào để đạt hiệu quả kinh doanh cao nhất. Để làm được điều đó, đòi hỏi mọi doanh nghiệp phải lựa chọn và trả lời chính xác ba câu hỏi: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai. Bởi vì thị trường chỉ chấp nhận các doanh nghiệp nào quyết định sản xuất đúng loại sản phẩm (dịch vụ) với số lượng và chất lượng phù hợp. Nếu doanh nghiệp làm tốt ba điều trên thì sản phẩm sẽ tiêu thụ được trên thị trường, không lãng phí các nguồn lực sản xuất. Trong điều kiện khan hiếm các nguồn lực sản xuất thì nâng cao hiệu quả kinh doanh là cực kỳ quan trọng và không thể không đặt ra với bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào. Nó thực sự là vấn đề sống còn đối với mọi doanh nghiệp. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Muốn chiến thắng trong cạnh tranh, doanh nghiệp phải luôn tạo ra và duy trì các lợi thế cạnh tranh đó là: chất lượng và sự khác biệt hoá. Để duy trì lợi thế về giá cả doanh nghiệp phải sử dụng tiết kiệm các nguồn lực sản xuất hơn các doanh nghiệp khác cùng ngành. Doanh nghiệp càng tiết kiệm sử dụng các nguồn lực này bao nhiêu sẽ càng có lợi để thu được nhiều lợi nhuận bấy nhiêu. Hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh tương đối của việc sử dụng tiết kiệm các nguồn lực sản xuất xã hội nên là điều kiện để thực hiện mục tiêu bao trùm, lâu dài của doanh nghiệp. Vì vậy, nâng cao hiệu quả kinh doanh là đòi hỏi khách quan để doanh nghiệp thực hiện mục tiêu bao trùm, lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận. 1.4. ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh Đối với nền kinh tế quốc dân thì việc nâng cao hiệu quả kinh tế nói chung và hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu nói riêng là một phạm trù kinh tế đặc biệt quan trọng, phản ánh yêu cầu của quy luật tiết kiệm thời gian, phản ánh trình độ sử dụng lực lueượng sản xuất dưới chế độ CNXH trong cơ chế thị trường. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất càng cao thì quan hệ sản xuất ngày càng hoàn thiện, càng nâng cao hiệu quả sử dụng. Càng nâng cao hiệu quả sử dụng thì càng hoàn thiện quan hệ sản xuất, yêu cầu của quy luật kinh tế ngày càng được thoả mãn. Đối với bản thân doanh nghiệp thì nâng cao hiệu quả kinh doanh là mục tiêu cơ bản của mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Nó giúp doanh nghiệp bảo toàn và phát triển vốn, hay nói cách khác nó là cơ sở để doanh nghiệp thực hiện tái sản xuất mở rộng, cải tạo, hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho sản xuất kinh doanh góp phần tái sản xuất mở rộng, để cải thiện đời sống nhân dân, tích luỹ cho ngân sách, tăng uy tín và thế lực của công ty trên thương trường. Đối với cá nhân thì nó là động cơ thúc đẩy, kích thích người lao động hăng say lao động giúp cho năng suất lao động ngày một nâng cao. Qua đó hiệu quả kinh doanh cũng sẽ được
Tài liệu liên quan