Đề tài Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu máy móc, thiết bị công nghiệp của công ty TNHH Thương Mại và Xuất Nhập Khẩu Tân Đạt

Kinh doanh nhập khẩu máy móc, thiết bị công nghiệp là quá trình mua bán trên thị trường quốc tế nhằm mục tiêu thu lợi nhuận. Ngày nay nhu cầu về máy móc thiết bị công nghiệp là không thể thiếu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Chính vì vậy Công ty TNHH Thương mại & Xuất nhập khẩu Tân Đạt đã không ngừng mở rộng phạm vi kinh doanh nhập khẩu máy móc thiết bị công nghiệp. Bên cạnh đó Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nói chung và cho Công ty TNHH Thương mại & Xuất nhập khẩu Tân Đạt nói riêng trong quá trình buôn bán với bạn hàng quốc tế.

doc72 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1580 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu máy móc, thiết bị công nghiệp của công ty TNHH Thương Mại và Xuất Nhập Khẩu Tân Đạt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Kinh doanh nhập khẩu máy móc, thiết bị công nghiệp là quá trình mua bán trên thị trường quốc tế nhằm mục tiêu thu lợi nhuận. Ngày nay nhu cầu về máy móc thiết bị công nghiệp là không thể thiếu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Chính vì vậy Công ty TNHH Thương mại & Xuất nhập khẩu Tân Đạt đã không ngừng mở rộng phạm vi kinh doanh nhập khẩu máy móc thiết bị công nghiệp. Bên cạnh đó Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nói chung và cho Công ty TNHH Thương mại & Xuất nhập khẩu Tân Đạt nói riêng trong quá trình buôn bán với bạn hàng quốc tế. Sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp trên thị trường trong các lĩnh vực luôn luôn diễn ra sôi động, đòi hỏi các doanh nghiệp phải linh hoạt trong quá trình kinh doanh để có thể có chỗ đứng trên thị trường. Việc áp dụng các khoa học kỹ thuật trong quá trình sản xuất kinh doanh cực kỳ cần thiết, các doanh nghiệp thường xuyên phải sử dụng các máy móc, thiết bị công nghiệp hiện đại tiến hành sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Đây là cơ hội cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu máy móc, thiết bị công nghiệp nói chung và Công ty TNHH Thương mại & Xuất nhập khẩu Tân Đạt thực hiện kế hoạch kinh doanh đạt hiệu quả cao. Hơn nữa để hoà nhịp cùng với sự phát triển của thế giới thì việc nhập khẩu các máy móc, thiết bị công nghiệp hiện đại trên thế giới áp dụng vào trong quá trình sản xuất của các doanh nghiệp ngày càng đạt hiệu quả cao hơn. Đặc biệt khi chúng ta hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới thì cơ sở hạ tầng, trang thiết bị của các doanh nghiệp trong nền kinh tế nói chung cần được cải tiến và nhu câu về máy móc thiết bị công nghiệp của các doanh nghiệp nói riêng cũng tăng cao. Chính vì vậy em đã chọn đề tài “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu máy móc, thiết bị công nghiệp của công ty TNHH Thương Mại và Xuất Nhập Khẩu Tân Đạt” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Cơ cấu và nội dung của chuyên đề thực tập tốt nghiệp được trình bày như sau: Chương I: Những lý luận cơ bản về hiệu quả nhập khẩu hàng hóa của doanh nghiệp. Chương II: Thực trạng hoạt động kinh doanh nhập khẩu máy móc, thiết bị công nghiệp tại Công ty TNHH Thương Mại & Xuất Nhập Khẩu Tân Đạt. Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả nhập khẩu máy móc, thiết bị công nghiệp của Công ty TNHH Thương Mại & Xuất Nhập Khẩu Tân Đạt. Để hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp này em đã nhận được sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo PGS. TS. Nguyễn Văn Tuấn, các thầy cô trong khoa Thương mại Quốc tế – Trường Đại học Kinh tế Quốc dân và các anh chị trong phòng trong Công ty TNHH Thương Mại & Xuất Nhập Khẩu Tân Đạt. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó. Sau đây là nội dung chi tiết: CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ NHẬP KHẨU HÀNG HÓA CỦA DOANH NGHIỆP Tổng quan về hoạt động nhập khẩu. 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò chức năng của hoạt động nhập khẩu. 1.1.1.1. Khái niệm nhập khẩu. Hoạt động thương mại quốc tế đã có giai đoạn hình thành và phát triển từ rất lâu, nó nảy sinh từ sự chênh lệch giữa các quốc gia về năng lực sản xuất, tài nguyên thiên thiên và về lợi thế so sánh giữa các quốc gia. Hoạt động thương mại quốc tế bao gồm hai hoạt động cơ bản là hoạt động xuất khẩu và hoạt động nhập khẩu, hai hoạt động này có mối quan hệ mật thiết, hỗ trợ và bổ sung cho nhau vì vậy một quốc gia phải luôn luôn tồn tại cả hoạt động xuất khẩu và hoạt động nhập khẩu. Hoạt động nhập khẩu có thể được coi là một khâu cơ bản của quá trình ngoại thương, là hoạt động đầu tư tiền của, công sức và các nguồn lực khác vào việc mua hàng hoá từ nước ngoài vào tiêu thụ trong nước hoặc tái sản xuất để thu lợi nhuận và đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Hoạt động nhập khẩu tác động không nhỏ tới quá trình sản xuất và kinh doanh trong nước, góp phần mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với khả năng sản xuất. 1.1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của nhập khẩu. Hoạt động nhập khẩu là hoạt động mua hàng hoá không phải diễn ra trong nước mà diễn ra trên phạm vi quốc tế, giữa các quốc gia khác nhau trên thế giới. Bởi vậy hoạt động nhập khẩu chịu sự điều chỉnh của nhiều nguồn luật khác nhau như các điều ước quốc tế. Luật quốc gia của các nước có liên quan, tập quán thương mại quốc tế. Hoạt động nhập khẩu diễn ra trên một thị trường rộng lớn, diễn ra giữa những người có quốc tịch khác nhau…nên đồng tiền thanh toán thường là ngoại tệ mạnh, ổn định trên thị trường. Chủng loại hàng hoá và cơ cấu hàng hoá nhập khẩu trên thị trường rất đa dạng và phong phú, đặc biệt là dịch vụ và các hàng hoá hữu hình chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong các giao dịch. Các phương thức giao dịch, buôn bán trên thị trường quốc tế rất phong phú: Giao dịch trực tiếp, giao dịch qua trung gian, buôn bán đối lưu, liên doanh liên kết…Và các phương thức thanh toán trong hoạt động nhập khẩu cũng có rất nhiều hình thức: Phương thức nhờ thu, phương thức thanh toán đối lưu, phương thức tín dụng chứng từ được dùng phổ biến nhất hiện nay. Điều kiện giao hàng do các bên thoả thuận và vận dụng trong hoạt động nhập khẩu, có rất nhiều hình thức khác nhau nhưng phổ biến nhất vẫn là các điều kiện FOB, CIF… Hoạt động nhập khẩu có thể xảy ra các rủi ro về hàng hoá trong quá trình vận chuyển và giao nhận. Do đó để đề phòng rủi ro và giảm thiểu những thiệt hại thì các bên có thể thoả thuận mua bảo hiểm rủi ro cho các hàng hoá đó. Chi phí bảo hiểm có thể do đơn vị nhập khẩu hoặc người bán trả tuỳ thuộc vào những điều khoản đã thoả thuận trong hợp đồng. 1.1.1.3. Vai trò, chức năng của hoạt động nhập khẩu. Nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và mạnh mẽ đến sản xuất và đời sống trong nước, nó đóng một vai trò to lớn không thể thiếu được trong nền kinh tế quốc dân. Nhập khẩu góp phần bổ sung những hàng hóa còn thiếu ở trong nước (do trong nước không thể sản xuất được hoặc sản xuất nhưng không thể đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng). Nhập khẩu sẽ làm đa dạng hoá về chủng loại hàng hóa, về quy cách… xoá bỏ tình trạng độc quyền, mang lại lợi ích cho người dân. Góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của người dân, họ có cơ hội tiêu dùng nhiều hàng hoá hơn, mẫu mã đa dạng hơn với chi phí thấp hơn. Nhập khẩu giúp bổ sung kịp thời những mất cân đối của nền kinh tế, đảm bảo cho quốc gia phát triển ổn định và cho phép quốc gia đó tiêu dùng một lượng hàng hoá nhiều hơn khả năng sản xuất trong nước. Nhập khẩu thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ giữa các quốc gia, góp phần đưa các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong nước, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tăng cường cơ sở vật chất cho nền kinh tế. Nhập khẩu còn là nguồn cung cấp nguyên vật liệu cho nền sản xuất trong nước, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển (do tạo ra cạnh tranh), tác động tích cực đến hoạt động xuất khẩu. Nhập khẩu là cầu nối thông suốt giữa các nền kinh tế , các thị trường trong nước và ngoài nước với nhau, tạo điều kiện phân công lao động xã hội và hợp tác quốc tế, phát huy được lợi thế so sánh của mỗi quốc gia trên cơ sở chuyên môn hoá. 1.1.2. Phân loại các hình thức nhập khẩu. 1.1.2.1. Nhập khẩu trực tiếp. Đây là hoạt động nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp. Khi tiến hành nhập khẩu theo phương thức này, doanh nghiệp cần phải tiến hành nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, tính toán đầy đủ chi phí, đảm bảo kinh doanh nhập khẩu có lãi, đúng chính sách luật pháp quốc gia cũng như quốc tế. Hình thức nhập khẩu trực tiếp có những đặc điểm như phải đứng tiến hàng các khâu nên doanh nghiệp phải chịu mọi rủi ro, tổn thất và lợi nhuận thu được. Vì vậy để có hiệu quả cao đòi hỏi doanh nghiệp phải thận trọng trong từng bước từ việc nghiên cứu thị trường cho đến khi bán hàng và thu tiền. Khi nhập khẩu trực tiếp thì doanh nghiệp được trích kim ngạch nhập khẩu, khi tiêu thụ hàng nhập khẩu doanh nghiệp phải chịu thuế doanh thu, thuế lợi tức. Thông thường, doanh nghiệp chỉ cần lập một hợp một hợp đồng nhập khẩu với nước ngoài, còn hợp đồng tiêu thụ hàng hóa trong nước thì sau khi hàng về sẽ được lập. Ở phương thức này doanh nghiệp chỉ cần lập một hợp đồng với đối tác nước ngoài, còn các hợp đồng liên quan đến khâu tiêu thụ thì có thể lập sau. 1.1.2.2. Nhập khẩu theo hình thức ủy thác. Trong giao dịch quốc tế, không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng có thể tham gia một cách trực tiếp do các yếu tố về nguồn nhân lực, trong khi đó họ lại muốn được giao dịch. Từ nhu cầu ấy làm hình thành nên phương thức nhập khẩu ủy thác. Đó là phương thức mà doanh nghiệp này ủy thác cho doanh nghiệp có chức năng giao dịch trực tiếp tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Bên nhận ủy thác sẽ tiến hàng đàm phán với đối tác nước ngoài để làm thủ tục nhập khẩu theo yêu cầu của bên ủy thác và được hưởng một khoản thù lao gọi là phí ủy thác. Theo phương thức này, doanh nghiệp nhập khẩu (doanh nghiệp nhận ủy thác) không phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch (nếu có), không phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ hàng nhập khẩu mà chỉ đứng ra làm đại diện cho bên ủy thác giao dịch, ký hợp đồng, làm thủ tục nhập khẩu hàng cũng như thay mặt cho bên ủy thác khiếu nại, bồi thường với bên nước ngoài khi có tổn thất. Các doanh nghiệp được ủy thác nhập khẩu chỉ được tính kim ngạch nhập khẩu chứ không được tính doanh số, doanh thu. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp phải lập hai hợp đồng là hợp đồng mua bán hàng hóa với người nước ngoài và hợp đồng ủy thác với bên ủy thác. 1.1.2.3. Nhập khẩu dưới hình thức liên doanh liên kết. Nhập khẩu liên doanh là hoạt động nhập khẩu hàng hóa trên cơ sở liên kết một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp kỹ năng để cùng giao dịch và đề ra các chủ trương biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi cho các bên tham gia, lãi cùng hưởng rủi ro cùng gánh chịu. Các bên tham gia chỉ phải góp một phần vốn nhất định và tỷ lệ phân chia lãi lỗ phụ thuộc vào tỷ lệ vốn góp giữa các bên. Theo phương thức này, doanh nghiệp đứng ra nhập khẩu hàng sẽ được kim ngạch nhập khẩu, nhưng khi đưa hàng về tiêu thụ chỉ được tính doanh số bán hàng trên số hàng theo tỷ lệ vốn góp và chịu thuế trên doanh số đó. Doanh nghiệp đứng ra nhập khẩu phải lập hai hợp đồng. Một hợp đồng với các đối tác nước ngoài và một hợp đồng với đối tác liên doanh. Cách phân chia các hình thức nhập khẩu trên dựa vào chủ thể của hoạt động nhập khẩu. Nếu quan tâm đến hình thức thanh toán bằng tiền và mua thanh toán bằng hàng (còn gọi là mua bán đối lưu) là một hình thức còn khá mới mẻ đối với các doanh nghiệp Việt Nam, tìm hiểu kỹ phương thức này có thể cho phép các doanh nghiệp có được một phương thức nhập khẩu có hiệu quả. 1.1.2.4. Hình thức nhập khẩu tái xuất. Nhập khẩu tái xuất là hoạt động nhập khẩu hàng hóa nhưng không phải để tiêu thụ ở nội địa mà để xuất sang nước thứ ba nào đó nhằm thu lợi nhuận. Những hàng nhập khẩu này không được qua chế biến ở nước tái xuất. Như vậy phương thức nhập khẩu này được thực hiện thông qua 3 nước như nước xuất khẩu, nước nhập khẩu, nước tái xuất. Doanh nghiệp nhập khẩu ở nước tái xuất phải tính toán chi phí, ghép mỗi bạn hàng xuất và bạn hàng nhập khẩu, bảo đảm sao cho có thể thu được số tiền lớn hơn tổng chi phí bỏ ra để tiến hành hoạt động. Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính kim ngạch cả xuất và nhập khẩu, doanh số bán trên trị giá hàng xuất khẩu đối với các mặt hàng kinh doanh. Doanh nghiệp tái xuất lập hai bản hợp đồng là hợp đồng xuất khẩu, hợp đồng nhập khẩu và không chịu thuế xuất nhập khẩu đối với các mặt hàng kinh doanh. Để đảm bảo thanh toán, hợp đồng tái xuất thường sử dụng thư tín dụng giáp lưng. Hàng hóa không nhất thiết phải qua nước tái xuất mà có thể nhập thẳng về nước thứ ba (các hoạt động giao dịch thì vẫn liên quan đến nước tái xuất). Doanh nghiệp tái xuất còn có thể có được những khoản lợi do được thanh toán tiền hàng song lại có thể trả chậm cho bên xuất khẩu. 1.1.2.5. Nhập khẩu theo hình thức hàng đổi hàng. Nhập khẩu hàng đổi hàng cùng với trao đổi bù trừ là hai nghiệp vụ chủ yếu của buôn bán đối lưu, là hình thức nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu, phương tiện thanh toán trong hợp đồng này không phải là tiền mà bằng hàng hóa. Mục đích nhập khẩu ở đây không phải chỉ thu lãi từ hoạt động nhập khẩu mà còn nhằm để xuất khẩu được hàng và thu lợi từ hoạt động xuất khẩu nữa. Phương thức này mang lại lợi ích hơn cho các bên tham gia hợp đồng, mặt khác có thể tiến hành cùng một lúc cả hoạt động xuất và nhập khẩu. Hàng hóa xuất và nhập khẩu cũng là bạn hàng trong hoạt động nhập khẩu. Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính cả kim ngạch nhập khẩu trực tiếp và kim ngạch xuất khẩu, doanh số tiêu thụ trên cả hai loại mặt hàng. Để đảm bảo thực hiện hợp đồng, các bên thường sử dụng biện pháp như dùng thư tín dụng đối ứng là một loại thư tín dụng mà trong nội dung của nó có các điều khoản quy định chung. Thư tín dụng chỉ có hiệu lực khi người mở một thư tín dụng khác có kim ngạch tương đương. Hoặc có thể dùng người thứ ba khống chế chứng từ sở hữu hàng hóa, người này sẽ chỉ giao chứng từ đó cho người nhận hàng khi người này đổi lại một chứng từ sở hữu hàng hóa có giá trị tương đương. 1.1.3. Quá trình của hoạt động nhập khẩu. Mô hình các bước tiến hành hoạt động nhập khẩu hàng hoá Nghiên cứu thị trường Xây dựng chiến lược kinh doanh Tiến hành giao dịch trong nhập khẩu Đàm phán ký kết hợp đồng Tổ chức thực hiện hợp đồng Tổ chức tiêu thụ hàng nhập khẩu Đánh giá kết quả kinh doanh 1.1.3.1. Nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường là việc đầu tiên mà bất kì một doanh nghiệp nào cũng phải thực hiện khi muốn tham gia vào bất cứ một thị trường nào. Đây là giai đoạn rất quan trọng nó là yếu tố quyết định đến sự thành công hay thất bại của toàn bộ một kế hoạch kinh doanh nào của doanh nghiệp. Nghiên cứu thị trường theo nghĩa rộng được hiểu là qua trình điều tra để tìm triển vọng bán một sản phẩm hay một nhóm sản phẩm nào đó ra thị trường nước ngoài. Kết quả của một hoạt động nghiên cứu thị trường thực tế và nghiêm túc sẽ đem lại cho doanh nghiệp những thông tin sát thực nhất về lượng cung và lượng cầu hiện tại cũng như trong tương lai của thị trường. Đồng thời qua đó doanh nghiệp cũng có đầy đủ các thông tin về sản phẩm, số lượng, các đối thủ cạnh tranh hiện có và tiềm tàng, nhu cầu của thị trường hay nhu cầu của khách hàng trong hiện tại cũng như trong tương lai… Từ kết quả nghiên cứu này doanh nghiệp sẽ đưa ra được các kế hoạch, chiến lược và các bước đi phù hợp trong tương lai để có thể thực hiện thành công hoạt động nhập khẩu hàng hoá của mình. Có thể nói nghiên cứu thị trường gĩư một vai trò đặc biệt quan trọng quyết định tới sự thành công hay thất bại đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Công việc nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp bao gồm: - Nghiên cứu thị trường hàng nhập khẩu: lựu chọn mặt hàng nhập khẩu, nghiên cứu nguồn cung trên trên thị trường thế giới, nhu cầu của thị trường nội địa( quan hệ cung cầu trên thị trường),nghiên cứu giá hàng hoá nhập khẩu và giá hàng hoá trong nước. - Nghiên cứu về bạn hàng giao dịch: để từ đó lựa chon được bạn hàng phù hợp a) Nghiên cứu thị trường hàng nhập khẩu: * Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tại bàn: sử dụng để nghiên cứu khái quát, đây là phương pháp phổ thông nhất vì được thực hiện đơn giản mà chi phí lại không cao. Phương thức này là phương thức nghiên cứu gián tiếp, thong tin lấy được từ các nguồn tư liệu. Quan trọng nhất là doanh nghiệp phải tìm kiếm và phát hiện ra các thông tin mà mình cần một cách chính xác và khai thác triệt để những nguồn thông tin đó. Các nguồn thông tin mà doanh nghiệp có thể tìm kiếm dễ dàng như: sách báo, tạp chí, các phương tiện thông tin đại chúng; thông tin từ các trung tâm, các viện nghiên cứu, từ các cơ quan quản lý và xúc tiến thương mại…các nguồn thông tin có được từ các mối quan hệ trên thị trường. Tuy nhiên các nguồn thông tin này cũng có những hạn chế nhất định như: chỉ mang những thông tin chung chung về thị trường, độ tin cậy có hạn…bởi vậy trước khi sử dụng thông tin này cần phải kiểm tra rõ ràng, kiểm tra độ chính xác của thông tin. Nghiên cứu tại hiện trường: sử dụng để nghiên cứu chi tiết thị trường, là phương pháp thu thập thông tin trực tiếp từ thị trường, từ khách hàng, các nhà cung ứng, các thương nhân…Phương pháp này rất tốn kém về cả chi phí và thời gian nên thường chỉ thích hợp với những tập đoàn kinh tế lớn. Tuy nhiên, thông tin thu được rất đáng tin cậy và có độ chính xác cao. Để thực hiện nghiên cứu theo phương pháp này doanh nghiệp có thể thực hiện các công việc sau: xác điịnh và tiếp cận mục tiêu, đối tượng cần nghiên cứu; khảo sát trực tiếp thị trường bằng cách xây dựng các bảng biểu, các câu hỏi…( hoạt động này rất tốn kém về chi phí nên doanh nghiệp cần cân nhắc đến yếu tố hiệu quả); tham gia các hội chợ, triển lãm để trực tiếp giới thiệu, chào hàng sản phẩm của mình đến người tiêu dùng và đến đối tác; tổ chức các cuộc hội thảo, PR với các nhà cung ứng cũng như với khách hàng… Trên thực tế, người ta thường kết hợp cả hai phương pháp này với nhau nhằm đạt được được hiệu quả tối ưu vì mỗi một phương pháp đều có những nhược điểm và ưu điểm có thể bù đắp và hỗ trợ cho nhau, giúp doanh nghiệp thực hiện thành công công tác nghiên cứu thị trường. * Nội dung nghiên cứu thị trường: Tìm hiểu dung lượng của thị trường (giới hạn địa lý, thời gian), qui mô thị trường, những yếu tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường. Xác định cung trên thị trường: phần sản xuất trong nước và phần phải nhập khẩu. Xác định cầu trên thị trường: xác định xem khách hàng là ai, phân đoạn khách hàng, nhu cầu về hàng hoá, giá cả… Hàng hoá: trước hết là về mặt định tính, đó là trả lời xem có nhập khẩu được hàng hoá đó hay không, nhu cầu của thị trường là bao nhiêu, yếu tố thương phẩm (định giá), chu kì sống của sản phẩm, sản phẩm có mang tính chất thời vụ hay không, cân nhắc, tính toán về mặt định lượng: trả lời câu hỏi xem nhập khẩu có hiệu qủa hay không, (khi nhập khẩu phải tính được tỉ suất ngoại tệ của mặt hàng). Nghiên cứu về giá cả: giá quốc tế của hàng hoá, là giá có tính chất đại diện cho mặt hàng trên thị trường, và phải đảm bảo 3 tiêu chuẩn: thứ nhất giá mua bán là giá thông thường, tự do không có ràng buộc; thứ hai là phải tính giá bằng ngoại tệ có thể chuyển đổi được; thứ ba giá là gía mua bán thường xuyên. Các yếu tố khác: luật pháp, tập quán thương mại quốc tế,điều kiện thanh toán, vận tải, bảo hiểm… b) Nghiên cứu về bạn hàng giao dịch: Lựa chọn nước giao dịch phải nghiên cứu: tình hình sản xuất trong nước, chất lượng hàng hoá nhập khẩu, luật pháp và tập quán thương mại ở nước đó, tình hình kinh tế cũng như tình hình chính trị, những chính sách của nước bạn với mặt hàng mình định nhập khẩu. Lựa chọn bạn hàng giao dịch trước hết phải nghiên cứu tư cách pháp lý của bạn hàng giao dịch. Năng lực về mặt tài chính của bạn hàng: nguồn vốn, nợ, khả năng thanh toán nợ. v.v….. Quan điểm kinh doanh của bạn hàng, tình hình sản xuất, kinh doanh trong những năm gần đây. Uy tín của bạn hàng trên thị trường: hình ảnh của bạn hàng trên thị trường, mức độ ảnh hưởng, phạm vi hoạt động, thị phần, họ có quan hệ kinh doanh với những ai.v.v… 1.1.3.2. Xây dựng chiến lược kinh doanh. Nếu doanh nghiệp xây dựng được chiến lược kinh doanh tốt, phù hợp với yêu cầu của thị trường và đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng thì hoạt động nhập khẩu sẽ đạt được hiệu quả tốt nhất. Dựa vào kết qủa của hoạt động nghiên cứu thị trường doanh nghiệp sẽ xây dựng chiến lược kinh doanh hàng nhập khẩu một cách chi tiết. Phải lựa chọn được mục tiêu chiến lược kinh doanh: (trả lời các câu hỏi) môi trường đã tạo ra cơ hội gì? Thách thức gì? Phải căn cứ vào ý đồ chiến lược của các cấp lãnh đạo và phân tích thị trường giựa vào ba mô hình: mô hình SWOT, mô hình chuỗi giá trị (Value chain), mô hình BCG (Boston conlsunting
Tài liệu liên quan