Sau hơn 15 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể về các mặt kinh tế, văn hoá, xã hội. Sản xuất trong nước phát triển, xuất nhập khẩu được khai thông, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao. Đạt được những thành quả ấy là nhờ vào định hướng đúng của Đảng và Nhà nước, chủ trương mở rộng và phát triển kinh tế đối ngoại để phát huy các nguồn lực từ bên ngoài.
71 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1361 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động kinh doanh nhập khẩu thực phẩm tại Công ty Thực phẩm miền Bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Lời mở đầu
Sau hơn 15 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể về các mặt kinh tế, văn hoá, xã hội. Sản xuất trong nước phát triển, xuất nhập khẩu được khai thông, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao. Đạt được những thành quả ấy là nhờ vào định hướng đúng của Đảng và Nhà nước, chủ trương mở rộng và phát triển kinh tế đối ngoại để phát huy các nguồn lực từ bên ngoài.
Xuất nhập khẩu đang là hoạt động kinh tế đối ngoại quan trọng đối với nước ta. Xuất khẩu được khuyến khích nhằm đẩy mạnh nền sản xuất trong nước, tăng thu ngoại tệ và tạo công ăn việc làm cho người lao động. Nhập khẩu cho phép khai thác tiềm năng thế mạnh của thế giới. Hoạt động thương mại quốc tế đã góp phần tích cực vào việc phát huy nội lực, tận dụng các nguồn lực từ bên ngoài, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng đồng thời góp phần ổn định và phát triển kinh tế xã hội.
Trong thời gian đầu của công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, chúng ta cần phải nhập khẩu rất nhiều mặt hàng để phục vụ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước. Ngoài máy móc thiết bị, chúng ta vẫn cần nhập khẩu một lượng hàng tiêu dùng mà nếu sản xuất trong nước không mang lại hiệu quả kinh tế hơn. Nắm vững chủ trương của Đảng và Nhà nước, đồng thời căn cứ vào tình hình thị trường trong nước và quốc tế, Công ty Thực phẩm miền Bắc không ngừng nhập khẩu một số thực phẩm phục vụ cho nhu cầu tiêu thụ trong nước.
Là một doanh nghiệp được thành lập dựa trên cơ sở sát nhập các Công ty con, Công ty Thực phẩm miền Bắc phải tiếp nhận một khoản nợ trên mười tỷ đồng. Mặc dù gặp nhiều khó khăn mọi mặt, song những năm vừa qua cán bộ công nhân viên Công ty vẫn cố gắng khắc phục khó khăn vượt qua mọi trở ngại để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần vào sự thành công của Công ty. Trong thời gian gần đây, đặc biệt trong ba năm trở lại đây (1999 - 2001) tình hình kinh doanh của Công ty có nhiều khả quan. Tổng doanh thu của Công ty trong ba năm 1999, 2000, 2001 lần lượt là 670,8 tỉ đồng, 634 tỉ đồng và 938,32 tỉ đồng. Mức lợi nhuận của Công ty tăng từ 648 triệu đồng năm 1999 lên 2147 triệu đồng vào năm 2001. Công ty luôn vượt kế hoạch đóng góp vào tổng thu ngân sách Nhà nước. Công ty ngày càng mở rộng qui mô, số lao động trong Công ty tăng từ 648 người năm 1999 lên 1026 người năm 2001. Mặc dù số lượng lao động tăng, nhưng mức lương bình quân đầu người của Công ty vẫn được cải thiện, từ 555.000 đồng/tháng vào năm 1999 lên 873.000 đồng/tháng vào năm 2001. Đóng góp vào những kết quả đáng khích lệ ấy phải kể đến vai trò của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu trong Công ty. Hoạt động này góp phần tạo công việc làm thường xuyên và thu nhập ổn định cho người lao động trong Công ty. Tuy nhiên qua phân tích đánh giá thực trạng kinh doanh nhập khẩu hàng hoá ở Công ty, chúng tôi thấy còn có một số hạn chế. Doanh thu từ nhập khẩu và tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu còn thấp. Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu còn nghèo nàn, ít có sự thay đổi và chưa thật hiệu quả. Công tác tổ chức tiêu thụ kinh doanh hàng nhập khẩu cũng còn một số bất cập.
Trong quá trình thực tập tại Công ty thực phẩm miền Bắc, được sự chỉ bảo tận tình của Thầy giáo PGS. TS Trần Chí Thành và sự hướng dẫn giúp đỡ của các cán bộ trong Công ty chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài "Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động kinh doanh nhập khẩu thực phẩm tại Công ty Thực phẩm miền Bắc".
Mục đích nghiên cứu đề tài: Hoàn thiện phương pháp luận kinh doanh nhập khẩu, phân tích thực trạng kinh doanh nhập khẩu của Công ty để tìm ra những nguyên nhân của những tồn tại hiện nay, từ đó đề ra những giải pháp hoàn thiện hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty thực phẩm Miền Bắc.
Giới hạn nội dung và phạm vi nghiên cứu đề tài: bao gồm phân tích đánh giá quá trình kinh doanh nhập khẩu của Công ty, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty. Đề tài nghiên cứu tình hình nhập khẩu đối với toàn Công ty và tất cả các mặt hàng, với số liệu thu thập từ năm 1999 - 2001.
Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp tiếp cận cơ bản được vận dụng là phương pháp thu thập thông tin, phân tích tài liệu, bảng số liệu. Trên cơ sở các thông tin thu thập được trong quá trình thực tập kết hợp với cơ sở lý luận được rút ra trong quá trình học tập và nghiên cứu để nhận xét đánh giá từ sơ bộ đến cụ thể về hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại Công ty Thực phẩm miền Bắc. Từ đó đề ra các giải pháp hoàn thiện hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại Công ty.
Kết cấu luận án bao gồm ba phần với 72 trang và 9 biểu bảng.
Chương I: Cơ sở lý luận của hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
Chương II: Phân tích thực trạng kinh doanh nhập khẩu của Công ty Thực phẩm miền Bắc.
Chương III: Một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty Thực phẩm miền Bắc .
Chương I: Hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp
I. Bản chất và vai trò của việc nhập khẩu hàng hoá.
1. Bản chất vai trò của thương mại quốc tế.
Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá dịch vụ giữa các nước thông qua mua bán nhằm mục đích lợi nhuận. Thương mại quốc tế là tất yếu khách quan, tạo ra hiệu quả cao nhất trong nền sản xuất của mỗi quốc gia cũng như trên toàn thế giới.
Sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các quốc gia thông qua mua bán là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia khác nhau. Trong vài ba thập kỷ trở lại đây, thực tế đã cho thấy sự thất bại của các nước thực hiện chính sách kinh tế đóng. Muốn phát triển nhanh mỗi nước không thể độc lập dựa vào nội lực mà phải biết tận dụng tranh thủ những thành tựu kinh tế khoa học kỹ thuật của nhân loại. Đó là một trong những điều kiện cần để nền kinh tế phát triển hiệu quả nhất, tham gia phân công lao động quốc tế, khai thác hợp lý tiềm năng sẵn có của mỗi một nước. Nhu cầu mở cửa hội nhập trở nên rất bức thiết đối với nước ta, với một xuất phát điểm về kinh tế rất thấp.
Thương mại quốc tế mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước, bởi lẽ có thể cho phép khối lượng hàng hoá tiêu dùng khác với số lượng hàng hoá sản xuất; cho phép một sự thay đổi có lợi phù hợp với đặc điểm của sản xuất trong nước. Điều này có nghĩa là một quốc gia có thể tiêu dùng các mặt hàng mà trong nước không thể sản xuất, sản xuất không đáp ứng được nhu cầu hay sản xuất được song chi phí sản xuất quá lớn.
Theo các lý thuyết về thương mại quốc tế, sẽ là có lợi cho cả đôi bên, nếu mỗi nước tiến hành chuyên môn hoá sản xuất những mặt hàng cụ thể mà nước đó có lợi thế tuyệt đối và xuất khẩu những hàng hoá đó, đồng thời nhập khẩu những hàng hoá có ít lợi thế tuyệt đối hơn. Điều này cũng đúng đối với ngay cả những nước chỉ có lợi thế tương đối. Trên cơ sở lý luận và qua kinh nghiệm thực tiễn, người ta thấy rằng thương mại quốc tế đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chuyên môn hoá sâu nhằm sử dụng hiệu quả các nguồn lực, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho các ngành sản xuất vật chất nói chung. Sự chuyên môn hoá theo qui mô lớn sẽ góp phần giảm chi phí sản xuất, làm gia tăng lợi thế về qui mô.
Thương mại quốc tế sẽ giúp Việt Nam tranh thủ được các nguồn lực trên thế giới, tận dụng hiệu quả nội lực, tham gia vào quá trình chuyên môn hoá quốc tế, hoà nhập với nền kinh tế thế giới. Thương mại quốc tế làm tăng khả năng tiêu dùng, tranh thủ vốn và kỹ thuật bên ngoài, thay đổi cơ cấu vật chất của sản phẩm có lợi cho quá trình sản xuất, tăng hiệu quả sản xuất, tạo đà cho nền kinh tế Việt Nam ‘cất cánh‘.
2. Vai trò của việc nhập khẩu hàng hoá.
Nhập khẩu là một trong hai nhiệm vụ cấu thành của nghiệp vụ ngoại thương xuất nhập khẩu, là một mặt không tách rời của thương mại quốc tế. Nhập khẩu là việc mua hàng hoá dịch vụ từ nước ngoài phục vụ cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước nhằm mục đích đem lại lợi ích kinh tế ở mức cao nhất có thể. Thông qua xuất nhập khẩu nói chung, nền kinh tế nội địa hoà nhập với nền kinh tế thế giới.
Trước hết, thông qua việc nhập khẩu máy móc thiết bị công nghệ, nguyên nhiên vật liệu mà trong nước không có điều kiện sản xuất, nhập khẩu bảo đảm đầu vào cho quá trình sản xuất và tái sản xuất mở rộng. Nhập khẩu là tiền đề cho quá trình tái sản xuất mở rộng, bảo đảm cho quá trình này liên tục và hiệu quả. Nhập khẩu cho phép thúc đẩy khai thác tiềm năng, thế mạnh trong nước vào việc phát triển kinh tế. Nhập khẩu hàng hoá kích thích tiêu dùng trong nước. Trên cơ sở đó, nền sản xuất xã hội được đẩy mạnh, đời sống nhân dân được nâng cao do được cung cấp đầy đủ hàng hoá dịch vụ tốt, nâng cao hiệu quả sản xuất tiêu dùng.
Nhập khẩu làm đa dạng hoá chủng loại mặt hàng cũng như về qui cách, tạo điều kiện thoả mãn tốt hơn nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng trong nước. Nhập khẩu giải quyết tốt những nhu cầu đặc biệt như hàng hoá khan hiếm hay những hàng hoá mà nền sản xuất trong nước không đáp ứng đủ nhu cầu thị trường về các mặt như mẫu mã, chất lượng, số lượng, giá thành.
Thông qua việc nhập khẩu, có thể tranh thủ khai thác tiềm năng về hàng hoá, vốn, công nghệ của các nước và các khu vực trên thế giới phù hợp với hoàn cảnh nước ta. Dựa vào nhập khẩu để nắm bắt công nghệ của thế giới, tiết kiệm chi phí xã hội, nâng cao năng suất lao động. Nhập khẩu thúc đẩy xuất khẩu để tạo ra một chỉnh thể hoàn thiện trong quá trình kinh doanh.
Nhập khẩu xoá bỏ tình trạng độc quyền. Đồng thời nhập khẩu tạo ra sự cạnh tranh. Doanh nghiệp trong nước muốn tồn tại phải năng động vươn lên, tìm mọi cách nâng cao hiệu quả sản xuất và chất lượng sản phẩm.
Nhập khẩu cùng với xuất khẩu là cầu nối để nền kinh tế nội địa hoà nhập với nền kinh tế thế giới, tạo điều kiện cho phân công lao động quốc tế và hợp tác quốc tế, phát huy được lợi thế so sánh của đất nước trên cơ sở chuyên môn hoá.
Vài năm tới đây (2006), khi Việt Nam hoàn thành xong chương trình giảm thuế năm trong lịch trình tham gia AFTA, hàng hoá các nước tràn ồ ạt vào Việt Nam. Đây là điều mà các nhà hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô cần lường trước. Nhập khẩu không chỉ là nhu cầu mà sẽ là điều tất yếu. Do đó bên cạnh việc nhập khẩu, cần phải cố gắng cải tiến sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trong nước.
3. Vai trò và yêu cầu của nhập khẩu thực phẩm.
a. Vai trò của nhập khẩu thực phẩm.
Thực phẩm, may mặc trong những năm gần đây có nhiều bước phát triển quan trọng. Cùng với sự tăng cao về mức sống của người dân thì những ngành sản xuất hàng tiêu dùng ngày càng phát triển. Sự phát triển của những ngành này là phù hợp với quy luật kinh tế. Thực tế thì theo sự bình chọn của người tiêu dùng, vài năm qua, các Công ty thực phẩm thường nằm trong số Công ty có sản phẩm đạt TOP TEN hàng Việt Nam chất lượng cao. Có thể kể đến các Công ty dầu Tường An, Công ty bánh kẹo Hải Hà, Công ty đồ hộp Hạ Long.
Ngành công nghiệp thực phẩm trong nước đang ngày càng lớn mạnh. Tuy nhiên nhu cầu về nhập khẩu thực phẩm phong phú, tồn tại nhu cầu thực phẩm cao cấp của một số dân cư có thu nhập cao. Đáp ứng nhu cầu đó, Công ty thực phẩm Miền bắc nhập khẩu một số sản phẩm sữa cao cấp nhãn hiệu Snow cùng một số sản phẩm cao cấp khác.
Ngoài ra, giá cả của một số sản phẩm còn cao so với thu nhập của người dân. Nhập khẩu thực phẩm thực phẩm để phù hợp với yêu cầu về giá cả của người tiêu dùng Việt Nam. Nhập khẩu thực phẩm góp phần nâng cao tính cạnh tranh của ngành thực phẩm nội địa, đồng thời góp phần giải quyết công ăn việc làm cho đội ngũ cán bộ công nhân viên Công ty Thực phẩm miền Bắc.
b. Yêu cầu của nhập khẩu thực phẩm.
Nhập khẩu thực phẩm phải thoả mãn các yêu cầu:
- Thực phẩm nhập khẩu phải bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm cho người tiêu dùng trong nước. Muốn vậy, cần làm rõ nguồn gốc của thực phẩm, và thực phẩm nhập khẩu phải được kiểm tra trước khi vào Việt Nam.
- Nhập khẩu phải đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng về chất lượng, giá cả, chủng loại sản phẩm. Tránh nhập khẩu những sản phẩm mà trong nước đã sản xuất được. Chuyển dần sang hướng nhập khẩu sản phẩm trong nước chưa sản xuất, hoặc những nguyên liệu không có ở trong nước.
- Doanh nghiệp nhập khẩu để kinh doanh cần chú ý bảo đảm lợi ích của người tiêu dùng trong nước, tránh hiện tượng vì quyền lợi cục bộ mà làm ảnh hưởng đến lợi ích xã hội.
II. Nội dung cơ bản của hoạt động nhập khẩu.
1. Nghiên cứu thị trường.
Nghiên cứu thị trường là công việc cần thiết đối với mọi Công ty muốn tham gia vào thị trường thế giới. Ngoài việc nắm vững tình hình trong nước và đường lối chính sách, luật lệ quốc gia có liên quan đến hoạt động kinh tế đối ngoại, Công ty kinh doanh cần phải nhận biết rõ về thị trường quốc tế mà mình muốn xâm nhập.
1. 1. Nhận biết sản phẩm nhập khẩu.
Nhận biết sản phẩm nhập khẩu nhằm đảm bảo lựa chọn mặt hàng kinh doanh có lợi nhất đối với doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải trả lời được năm câu hỏi sau:
- Thị trường đang cần mặt hàng nào?
Phương châm hành động hợp lý là “chỉ bán cái thị trường chứ không bán cái có sẵn”. Người nhập khẩu cần tìm hiểu nhu cầu của thị trường trong nước về mặt hàng, quy cách, phẩm chất, kiểu dáng, bao bì, số lượng, chất lượng... để có thể đáp ứng kịp thời.
- Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó như thế nào?
Mỗi mặt hàng được tiêu dùng trên thị trường có nhũng đặc điểm riêng thể hiện ở thời gian tiêu dùng, quy luật biến động của quan hệ cung cầu về mặt hàng đó. Có nắm vững tập quán tiêu dùng đó thì ta mới có thể đáp ứng tốt nhất nhu cầu của thị trường.
-Mặt hàng đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống?
Mỗi sản phẩm hàng hoá đều có chu kỳ sống riêng. Chu kỳ sống của sản phẩm gồm bốn thời kỳ: thâm nhập, phát triển, bão hoà, suy thoái. Mỗi thời kỳ chu kỳ sống của sản phẩm, nhu cầu của người tiêu dùng về sản phẩm là rất khác nhau, biểu hiện ra hành động mua cũng khác nhau. Do đó cần phải nghiên cứu nắm vững chu kỳ sống của sản phẩm nhằm có các biện pháp thích hợp trong từng thời kỳ.
-Tình hình sản xuất mặt hàng đó ở trong nước?
Chênh lệch nhu cầu về hàng hoá và cung trong nước của hàng hoá đó chính là nhu cầu về hàng hoá nhập khẩu. Nghiên cứu về cung hàng hoá cần lưu ý tới khả năng sản xuất và tốc độ phát triển sản xuất của hàng hoá đó, bởi vì đây là những yếu tố ảnh hưởng khá lớn đến cung của hàng hoá.
-Tỷ suất ngoại tệ của mặt hàng kinh doanh?
Tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu là số tiền nội tệ thu được khi phải chi ra một đơn vị ngoại tệ. Chỉ số này nhằm đánh giá mức độ hiệu quả của việc nhập khẩu hàng hoá. Nếu tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu thấp hơn tỷ giá hối đoái thì không nên nhập khẩu.
1. 2. Nắm vững thị trường trong ngoài nước.
Đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và kinh doanh nhập khẩu nói riêng cần nắm vững những yếu tố chủ yếu liên quan đến mặt hàng kinh doanh của mình trên thị trường nước ngoài là: dung lượng thị trường và nghiên cứu giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới.
a. Nghiên cứu dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng.
Dung lượng thị trường của một mặt hàng là khối lượng hàng hoá đó được giao dịch trên một khu vực thị trường nhất định (một quốc gia, một khu vực hay trên toàn thế giới) trong một thời kì nhất định thường là một năm.
Dung lượng thị trường thường xuyên biến động và chịu sự tác động tổng hợp của nhiều yếu tố khác nhau. Nghiên cứu dung lượng thị trường nhằm giúp cho doanh nghiệp có cơ sở vạch ra các kế hoạch chiến lược kinh doanh dài hạn và ngắn hạn cho doanh nghiệp.
Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến dung lượng thị trường bao gồm:
* Các nhân tố làm dung lượng thị trường biến động có tính chu kỳ:
- Sự vận động của tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa là nhân tố quan trọng nhất có ảnh hưởng đến tất cả thị trường hàng hoá. Nghiên cứu nhân tố này cần chú ý đến các nước giữ vai trò chủ yếu trên thị trường các nước xuất khẩu và nhập khẩu.
- Nhân tố thời vụ ảnh hưởng đến dung lượng thị trường hàng hoá trên cả ba khâu sản xuất, lưu thông, tiêu dùng. ảnh hưởng của nhân tố này đối với từng thị trường hàng hoá cụ thể cũng khác nhau về phạm vi và mức độ.
* Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài:
Những nhân tố này có thể gây nên những biến động rất lớn về dung lượng thị trường nhưng lại tác động trong dài hạn. Do dó ta không thể dễ dàng nhận biết ngay được. Một số nhân tố chủ yếu là: tiến bộ khoa học kỹ thuật, các biện pháp và chính sách của nhà nước và các tập đoàn tư bản lũng đoạn, thị hiếu và tập quán của người tiêu dùng, ảnh hưởng của các hàng hoá thay thế...
* Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời:
Khi dự đoán về sự phát triển của tình hình thị trường và giá cả trong thời gian ngắn nhằm phục vụ cho công tác kinh doanh trực tiếp, phải hết sức chú ý đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố tạm thời tới sự biến đổi của dung lượng thị trường. Có thể kể đến các yếu tố tự nhiên như: hạn hán, bão lụt, đình công... hay các nhân tố như xung đột chính trị, xã hội... Cần phải nghiên cứu các yếu tố này để có thể đối phó với các tình huống bất ngờ có thể xảy ra, phòng tránh các rủi ro trong kinh doanh.
b. Nghiên cứu giá cả hàng hoá trên phạm vi thị trường thế giới.
Trên thị trường thế giới, giá cả không những phản ánh mà còn điều tiết cung cầu. Việc xác định đúng đắn giá cả trên thị trường quốc tế trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu có ý nghĩa quan trọng đối với hiệu quả thương mại quốc tế. Cụ thể nó sẽ làm tăng thu ngoại tệ trong xuất khẩu và giảm chi ngoại tệ trong nhập khẩu.
Giá cả mỗi hàng hoá nhập khẩu là giá quốc tế, giá quốc tế có tính chất đại diện cho mỗi hàng hoá nhất định trên thị trường thế giới.
- Dự đoán xu hướng biến động giá cả và các nhân tố ảnh hưởng:
Giá cả trên thị trường thế giới biến động liên tục và rất phức tạp. Để có thể dự đoán được xu hướng biến động giá cả của mỗi loại hàng hoá trên thị trường thế giới trước hết phải dựa vào kết quả nghiên cứu và dự báo thị trường loại hàng hoá đó, đánh giá đúng xu hướng biến động giá cả hàng hoá ấy.
Tuỳ theo mục đích mà dự báo trong thời gian dài hay ngắn. Kết quả nghiên cứu dự báo trong thời gian dài thường được sử dụng vào mục đích lập kế hoạch nhập khẩu hàng năm, dự báo trong thời gian ngắn phục vụ trực tiếp cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu hiện tại.
- Các nhân tố tác động lên xu hướng biến động giá cả của hàng hoá:
Các nhân tố này cũng rất nhiều và được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau tuỳ theo từng mục đích nghiên cứu. Các nhân tố tác động lâu dài bao gồm: chu kỳ, giá trị, lũng đoạn. Các nhân tố tác động ngắn hạn bao gồm: các nhân tố tác động lên cung cầu giá cả hàng hoá trên thị trường, các nhân tố mang tính chất tạm thời như thời vụ, đầu cơ, nhân tố tự nhiên. Dưới đây sẽ nghiên cứu một số nhân tố chủ yếu tác động đến xu hướng biến động của giá cả:
- Nhân tố chu kỳ: Sự vận động có tính chất quy luật của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa qua các giai đoạn của chu kỳ sẽ làm thay đổi quan hệ cung cầu về các loại hàng hoá đó trên thị trường. Khi quan hệ cung cầu trên thị trường thay đổi thì kéo theo sự thay đổi của giá cả hàng hoá là một điều tất yếu.
Nhân tố lũng đoạn và giá cả: Đây là nhân tố có tác động rất lớn đến sự hình thành giá cả và sự biến động của chúng trên thị trường hàng hoá thế giới.
Lũng đoạn làm xuất hiện nhiều mức giá khác nhau đối với cùng một loại hàng hoá, thậm chí ngay trên cùng một khu vực thị trường. Tuỳ theo mối quan hệ giữa người mua và người bán, thị trường thế giới có lũng đoạn cao và lũng đoạn thấp. Giá lũng đoạn cao là giá bán thành phẩm công nghiệp, máy móc thiết bị mà người bán là các nhà tư bản công nghiệp ở các nước tư bản chủ nghĩa; giá lũng đoạn thấp là giá bán các loại hàng nguyên liệu, lương thực của những người sản xuất nhỏ mà người mua là các nước tư bản phát triển.
Nhân tố cạnh tranh: Cạnh tranh có thể làm cho giá cả biến động theo những xu hướng khác nhau. Cạnh tranh giữa những người bán xẩy ra khi trên thị trường cung có xu hướng lớn hơn cầu. Nhiều người cùng bán một loại hàng hoá, cùng chất lượng, cùng kiểu dáng. Ai có chính sách giá cả hợp lý sẽ thu hút được nhiều khách hàng và như vậy giá cả có xu hướng giảm xuống.
Cạnh tranh giữa những người mua xuất hiện trên thị trường khi cầu có xu hướng lớn hơn cung. Để mua được hàng hoá, những người mua phải cạnh tranh với nhau bằng cách nâng cao giá lên làm giá cả trên thị trường có xu hướng tăng lên.