Hội nhập, khu vực hoá và toàn cầu hoá đang là xu thế trung của thế giới. Bất cứ một quốc gia nào cũng không nằm ngoài xu thế nếu quốc gia đó muốn tồn tại và phát triển. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó.
Trước xu thế hội nhập của thế giới, trong khi Việt Nam đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Thì Việt Nam cần phải chủ động hội nhập, mở rộng quan hệ thương mại với các nước và các tổ chức trong khu vực và trên thế giới để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế đưa Việt Nam đến năm 2020 căn bản trở thành một nước công nghiệp.
Liên minh Châu Âu là một liên minh có nền kinh tế phát triển, có vị thế quan trọng trong thương mại quốc tế, và là nơi sản xuất công nghệ nguồn. Việc lập quan hệ và mở rộng quan hệ thương mại với EU là một quyết định đúng đắn của Đảng và Nhà nước, phù hợp với định hướng phát triển bởi mở rộng quan hệ thương mại với EU thì Việt Nam sẽ mở rộng được thị trường xuất khẩu của một số mặt hàng chủ lực như dệt may, dầy dép, thuỷ sản . và một số mặt hàng có lợi thế về lao động và tài nguyên. Đồng thời mở rộng quan hệ với EU Việt Nam sẽ được bù đắp và bổ sung về công nghệ nguồn, kinh nghiệm .
Chính vì những lý do trên cộng với sự gợi mở của TS. Phạm Duy Liên và sự góp ý chân thành của tập thể giáo viên trong Khoa kinh tế Ngoại Thương. Trong thời gian thực tập tại Xí nghiệp sản xuất hàng xuất nhập khẩu và kinh doanh dịch vụ tổng hợp – Công ty xây dựng Bộ giao thông vận tải. Em chọn đề tài: “ Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường EU giai đoạn 2001 - 2010”. Kết cấu bài viết của em bao gồm
A . Lời mở đầu
B. Nội dung
Chương I. Tính tất yếu khách quan thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường EU
Chương II. Thực trạng xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường EU trong thời gian qua
Chương III. Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hoá sang thị trường EU giai đoạn 2001 - 2010.
C. Kết luận
D. Tài liệu tham khảo
89 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1250 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường EU giai đoạn 2001 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập, khu vực hoá và toàn cầu hoá đang là xu thế trung của thế giới. Bất cứ một quốc gia nào cũng không nằm ngoài xu thế nếu quốc gia đó muốn tồn tại và phát triển. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó.
Trước xu thế hội nhập của thế giới, trong khi Việt Nam đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Thì Việt Nam cần phải chủ động hội nhập, mở rộng quan hệ thương mại với các nước và các tổ chức trong khu vực và trên thế giới để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế đưa Việt Nam đến năm 2020 căn bản trở thành một nước công nghiệp.
Liên minh Châu Âu là một liên minh có nền kinh tế phát triển, có vị thế quan trọng trong thương mại quốc tế, và là nơi sản xuất công nghệ nguồn. Việc lập quan hệ và mở rộng quan hệ thương mại với EU là một quyết định đúng đắn của Đảng và Nhà nước, phù hợp với định hướng phát triển bởi mở rộng quan hệ thương mại với EU thì Việt Nam sẽ mở rộng được thị trường xuất khẩu của một số mặt hàng chủ lực như dệt may, dầy dép, thuỷ sản…. và một số mặt hàng có lợi thế về lao động và tài nguyên. Đồng thời mở rộng quan hệ với EU Việt Nam sẽ được bù đắp và bổ sung về công nghệ nguồn, kinh nghiệm….
Chính vì những lý do trên cộng với sự gợi mở của TS. Phạm Duy Liên và sự góp ý chân thành của tập thể giáo viên trong Khoa kinh tế Ngoại Thương. Trong thời gian thực tập tại Xí nghiệp sản xuất hàng xuất nhập khẩu và kinh doanh dịch vụ tổng hợp – Công ty xây dựng Bộ giao thông vận tải. Em chọn đề tài: “ Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường EU giai đoạn 2001 - 2010”. Kết cấu bài viết của em bao gồm
A . Lời mở đầu
B. Nội dung
Chương I. Tính tất yếu khách quan thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường EU
Chương II. Thực trạng xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường EU trong thời gian qua
Chương III. Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hoá sang thị trường EU giai đoạn 2001 - 2010.
C. Kết luận
D. Tài liệu tham khảo
CHƯƠNG I: TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ SANG THỊ TRƯỜNG EU
I. THỊ TRƯỜNG THỐNG NHẤT EU
1. Liên minh Châu Âu EU
1.1. Quá trình hình thành và phát triển :
Châu Âu là mảnh đất của những cuộc chiến tranh triền miên tranh giành đất đai – tài nguyên, áp đặt sự thống trị giữa các quốc gia trong khu vực. Giấc mộng thống nhất Châu Âu đã được nung nấu từ rất lâu từ thế kỷ VIII dưới thời Seclơ Đại đế của đế chế La mã (742-814) đến Napôlêong ( năm 1769-1821) rồi Hitle đã từng vẽ ra một viễn cảnh Châu Âu với bộ luật chung, các đơn vị đo lượng chung, đồng tiền chung...nhưng điều mơ tưởng này của các nhà quân sự, chính trị gia và của nhiều người khác đã không trở thành hiện thực vì chưa có được sự đoàn kết lợi ích của các dân tộc.
Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ I nổ ra từ “ Châu Âu ” như là biểu hiện thắng thế của việc cạnh tranh tàn khốc với việc đặt lợi ích quốc gia dân tộc thiển cận lên trên hết nhưng cũng chính do chiến tranh khốc liệt cùng những hậu quả khủng khiếp của nó làm cho yêu cầu liên kết chính trị và kinh tế châu lục trở nên cấp bách, những năm 1920 đã có sự ra đời hàng loạt các tổ chức hoạt động cho sự thống nhất châu âu nổi bật là phong trào châu âu do bá tước người Áo Condehore – kalegi đề xuất năm 1923.
Chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ như một biểu hiện ngông cuồng muốn dùng vũ lực thống nhất “ Châu Âu ”, đặt nó dưới sự cai quản của dân tộc tự xưng là “ Thượng Đẳng ”, nhưng cũng chính chiến tranh đã làm bùng lên mối quan tâm về một châu âu đoàn kết, thống nhất chống kẻ thù chung và cùng chung sống yên bình sau khi chiến tranh kết thúc. Các lực lượng kháng chiến ở nhiều quốc gia như Pháp, Italia, Hà lan..
đã ủng hộ nhiệt tình việc xây dựng một cộng đồng chính trị châu âu sau chiến tranh. Năm 1941 những người kháng chiến Italia lập “ Phong trào liên bang Châu Âu ”, tháng 7 năm 1944 diễn ra hội nghị Geneve đề xuất lập liên bang Châu Âu có hiến pháp Châu Âu, một chính phủ siêu quốc gia trực tiếp chịu trách nhiệm trước dân và toà án, tuy nhiên ý tưởng đã bị đẩy lùi.
Tháng 5 năm 1949 thành lập Hội đồng Châu Âu ( Council of Europe ) do đề xuất của thủ tướng Anh W.Chusehill với sự có mặt của 10 nước thành viên (Pháp, Anh, Đan Mạch..), tuy nhiên tổ chức này chưa làm được gì nhiều hơn với tư cách là một tổ chức liên chính phủ lỏng lẻo. Và đây cũng không phải là mô hình tổ chức mà những người ủng hộ thống nhất Châu Âu mong muốn.
Rút kinh nghiệm từ những thất bại trước đó ông Jean monnet – Nhà ngoại giao Pháp được gọi là “ Người cha của Châu Âu ” đã vạch ra phương hướng hoạt động cho giai đoạn đầu liên kết. Kế hoạch Sahuman đã được ông vạch ra với nguyên tắc chính là phải gạt bỏ một phần chủ quyền quốc gia vì sự hợp tác lợi ích giữa các dân tộc Châu Âu.Cuối cùng dự án thành lập cộng đồng than và thép Châu Âu ( Ecsc ) đã được ký kết ngày 18-4-1951 tại Pari với sự tham gia của 6 nước ( Đức, Pháp, Italia, Bỉ, Hà lan, Luexambua ). Hiệp hội thành lập trước hết là giải quyết mâu thuẫn giữa Đức và Pháp, đây là mấu chốt của chủ nghĩa dân tộc Hẹp hòi, tạo điều kiện cho 2 nước xích lại gần nhau. Hiệp hội đã đặt viên gạch đầu tiên cho một “ Liên minh Châu Âu ”.Do vấn đề dầu mỏ ở Trung Đông đã làm nảy sinh nhu cầu hợp tác về năng lượng. Ngày 25-3-1957 Hiệp ước thành lập cộng đồng kinh tế Châu Âu ( EEC ) và cộng đồng năng lượng nguyên tử Châu Âu đã được ký kết tại Rôma.
Lần mở rộng thứ nhất của cộng đồng Châu Âu diễn ra ngày 22-1-1972 do 4 nước mới ký kết là Anh, Ailen, Đan mạch, Nauy. Hiệp ước có hiệu lực từ ngày 1-1-1973.
Lần mở rộng thứ hai dự tính vào ngày 28-5-1979 với sự tham gia của Hylạp, năm 1981 Hylạp chính thức tham gia vào liên minh Châu Âu. EC-10.
Năm 1986 Tây Ban Nha,Bồ Đào Nha, gia nhập cộng đồng kinh tế Châu Âu ( EEC ) văn kiện “ Châu Âu duy nhất" được ký kết và theo sau đó là hiệp ước Maastricht.
Từ ngày 1/1/1993 chính thức thi hành hiệp ước và liên minh Châu Âu. Năm 1995 nước áo, Phần Lan, Thuỷ Điển gia nhập EU đưa tổng số các nước thành viên lên 15.
Hiện nay EU là một trung tâm kinh tế hùng mạnh trên thế giới có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá ổn định, tốc độ tăng GDP năm 1996 là 1,6%; năm 1997 là 2,5% và năm 2000 là 2,1%. Hiện nay EU có một vị trí quan trọng trong thương mại quốc tế và có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế thế giới. Việc Việt Nam thúc đẩy quan hệ ngoại giao với EU phù hợp với định hướng phát triển đất nước theo hướng xuất khẩu góp phần thúc đẩy quá trình Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nước.
1.2. Thị trường thống nhất Châu Âu :
1.2.1 . Liên minh thuế quan và thị trường chung.
Hiệp định Rome thành lập cộng đồng kinh tế Châu Âu ( EEC: European Economic Community ) ký năm 1957 ấn định nhiệm vụ xác lập một liên minh thuế quan( a Customs Union ) và một thị trường chung ( a Common market ) giữa các nước thành viên. Xây dựng cơ sở lý thuyết cho nhiệm vụ này, các nhà hoạch định chính sách của EEC đã tính đến quan điểm của các nhà kinh tế theo các trường phái khác nhau. Những người thuộc trường phái tân tự do và tân cổ điển cho rằng, thị trường là yếu tố điều tiết nền kinh tế có hiệu quả nhất, nên việc hình thành thị trường chung là hoạt động đúng đắn, nhưng điều kiện để hình thành nó là tối thiếu hoá sự can thiệp của nhà nước. Còn những người thuộc trường phái của xu hướng điều chỉnh thì cho rằng sẽ không thể thực hiện được thị trường liên kết hoàn hảo nếu không sử dụng một cách tự giác cấp độ siêu quốc gia các yếu tố cần cho sự phối hợp và các công cụ của chính sách kinh tế.
Việc hình thành thị trường chung Châu Âu được dựa trên cơ sở lý luận tân cổ điển về việc hình thành không gian thị trường thống nhất và luận giải tính hiệu quả của liên minh thuế quan. Đồng thời quan điểm của những người theo trường phái điều chỉnh cũng được tính đến ở quan niệm về các hình thức về giai đoạn liên kết kinh tế và luận thuyến về sự điều chỉnh của nhà nước không cần tới mức can thiệp vào quá trình liên kết mà chỉ cần bằng các điều kiện cạnh tranh và phối hợp chính sách.
Ba mục tiêu căn bản về liên kết kinh tế mà hiệp định Rôme nhấn mạnh là : 1) Tạo lập một liên minh thuế quan nhờ đó tất cả các hàng rào thuế quan và các cản trở khác trong buôn bán giữa các nước thành viên EEC phải được dỡ bỏ. Bên cạnh đó cần đặt được thoả thuận về thuế quan chung đối với bên ngoài để tất cả các hàng hoá nhập vào EEC đều chịu cùng một chi phí và sự kiểm tra như nhau dù vào từ của khẩu nào thuộc EEC. Ngoài ra cũng cần thoả thuận với nhau về một chính sách thương mại chung đối với các nước thứ ba. 2) Hình thành một thị trường chung với thoả thuận các quy tắc cho phép lưu chuyển tự do dân cư, hàng hoá, các dịch vụ và tiền tệ giữa các thành viên EEC.3) Thoả thuận phát triển một chính sách nông nghiệp chung với việc bảo đảm sự ổn định của thị trường nông nghiệp cùng việc cung ứng thực phẩm còn nông dân được trả giá đảm bảo.
Liêm minh thuế quan là sự hợp nhất một số địa bàn thuế quan vào một địa bàn duy nhất ở đó xoá bỏ các loại thuế quan giữa các nước thành viên. Không giống như khu vực mậu dịch tự do, các thành viên của liên minh không được phép thu các loại thuế quan riêng của mình đối với hàng hoá nhập khẩu từ các nước bên ngoài mà phải sử dụng biểu thuế quan chung. Cho tới ngày 1-7-1968 các nước EC đã hoàn thành việc thiết lập liên minh thuế quan cho các hàng công nghiệp còn với hàng nông sản thì vào tháng 1 năm 1970. Những thành viên gia nhập EC muộn hợn sẽ được phép có một thời kỳ chuyển tiếp trước khi liên minh thuế quan được thực hiện trên toàn lãnh thổ nước mình. Chính sách thương mại chung được ghi nhận tại các điều 110-116 của hiệp định Rôme. Đây là chính sách tập trung vào việc hình thành một biểu thuế trong buôn bán với các nước không phải thành viên của khối và thực hiện dỡ bỏ mọi rào cản thuế quan trong buôn bán nội khối. Nhờ có chính sách thương mại mà các nước thành viên EC có thể phối hợp hài hoà các chính sách thương mại của mình.
Thị trường chung đã hình thành sớm hơn 18 tháng so với dự kiến. Từ tháng 7-1968, trên toàn lãnh thổ các nước thành viên đã thực hiện được việc: 1) Xoá bỏ mọi hàng rào thuế quan trong buôn bán với nhau: 2) Thực hiện một biểu thuế quan chung trong buôn bán với các nước thứ ba : 3) Xoá bỏ những hạn chế đối với việc lưu chuyển lao động cũng như giữa các nước thành viên về lương bổng, bảo hiểm xã hội và đào tạo nghề nghiệp: 4) Xác lập chế độ tự do lưu chuyển về vốn và các phương tiện sản xuất. Sự hình thành của thị trường chung Châu Âu đã tạo thuận lợi và thúc đẩy đáng kể tự do buôn bán trong nội khối cũng như mở rộng việc buôn bán với các nước thứ ba.
1.1.2. Thị trường thống nhất và sự hình thành liên minh kinh tế và tiền tệ.
Bước sang thập niên 1970 nền kinh tế các nước EC gặp nhiều khó khăn, trong khi thị trường chung bộc lộ các khiếm khuyết trước tình trạng các nước thành viên EC tìm cách thoát khỏi khó khăn không phải bằng cách dựng lên các hàng rào bảo hộ phi thuế quan. Việc ký kết đạo luật Châu Âu đơn nhất ( single European Act ) tháng 2 năm 1986 tại Luxambua là một cố gắng mới thúc đẩy thị trường chung. Đây được coi là bước đi quan trọng nhất và thành công nhất của quá trình liên kết Châu Âu từ hiệp định Rôme. Mục tiêu quan trọng nhất được đặt ra hoàn thành mọi chuẩn bị cho sự ra đời thị trường thống nhất vào nửa đêm ngày 21-12-1992. Đạo luật sau khi được phê chuẩn ở các quốc gia thành viên đã có hiệu lực từ tháng 7-1987 với 282 khoản mới về luật pháp cần được hoà nhập vào áp dụng ở hệ thống luật pháp quốc gia. Đó là những giải pháp nhằm dỡ bỏ các hàng rào thực thể còn sót lại, các hàng rào tài chính và hàng rào kỹ thuật. Như vậy thị trường đơn nhất hình thành, tức là sẽ tạo được một khu vực không có đường biên nội tại đảm bảo sự lưu chuyển tự do của hàng hoá, con người, các dịch vụ và tư bản. Cho đến thời hạn chót thị trường thống nhất đã hình thành tuy mới có đuợc 92% số điều khoản được hội đồng các bộ trưởng thông qua và 79% số này được dịch chuyển vào hệ thống luật pháp quốc gia. Thị trường thống nhất bắt đầu hoạt động từ ngày 1-1-1993 và người ta hiểu rằng số phần trăm còn thiếu đó của luật pháp sẽ được sớm lấp đầy.
Vào những năm 1960, hệ thống tiền tệ thế giới bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu rạn nứt do sự lạm dụng địa vị đặc biệt của đồng đô la mỹ. Hệ thống tiền tệ Bretton Woods rối loạn do Hoa Kỳ không đủ sức bán vàng ra để giữ giá 30 USD ăn một ounce vàng và đến tháng 8-1971, Hoa Kỳ tuyên bố đình chỉ việc đổi đô la ra vàng. Đồng đô la mất giá, hệ thống tiền tệ thế giới trở nên hết sức rối loạn do nạn đầu cơ với việc tung đô la Mỹ ra săn lùng các đồng tiền Châu Âu được giá. Tình hình đó làm cho các đồng tiền Tây Âu biến động mạnh.
Liên kết tiền tệ giữa các thành viên EC trở thành yêu cầu cấp bách. Năm 1972 các nước EC đã đưa ra thực hiện cơ chế “ Con rắn tiền tệ ”( the currency snake ) hay còn gọi là hệ thống “ con rắn trong đường hầm ”. Cơ chế này quy định biên độ giao động cộng trừ 1,25% tỷ giá chính thức giữa các đồng tiền Tây Âu ( với sự tham gia của các nước EC và một số quốc gia khác như Nauy, Thuỵ Điển.. ) và muốn qua đó xác lập hệ thống tỷ giá ổn định để tiếp tục thúc đẩy tiến trình liên kết và cải thiện tình hình kinh tế chung. Nhưng nhiều nước sau khi tham gia đã không đủ sức theo đuổi và đến tháng 12-1978 Hội đồng bộ trưởng EC đã thoả thuận một cơ chế tiền tệ mới gọi là “ Hệ thống tiền tệ Châu Âu ”( EMS ). Cơ chế này chính thức có hiệu lực từ tháng 3 -1979 với sự nới rộng biên độ giao động tới cộng trừ 2,25% cho các nước chưa gia nhập con rắn tiền tệ.
Mục tiêu trước mắt của EMS là tránh khủng hoảng tiền tệ nhưng lâu dài thì muốn tạo cho Tây Âu một khu vực tiền tệ ổn định có đồng tiền riêng để tránh cho Tây Âu khỏi lệ thuộc và bị chi phối bởi đồng đôla Mỹ, tiến tới tranh giành ảnh hướng với đồng đôla Mỹ và đồng Yên Nhật Bản. Hệ thống tiền tệ Châu Âu đã được thực hiện thành công qua hai giai đoạn: Giai đoạn một thực hiện liên kết các đồng tiền của các nước thành viên bằng một đơn vị tiền tệ chung của Châu Âu được gọi là đồng Ecu ( European currency unit ) đồng thời tăng cường phối hợp giữa các ngân hàng quốc gia các nước thành viên .Giai đoạn hai thực việc kiểm soát các chính sách tiền tệ của các nước thành viên và biến Ecu trở thành đồng tiền chung được sử dụng song hành với các đồng tiền quốc gia trong dự trữ và thanh toán.
EMS được gọi là thành công nhưng một số quốc gia không đồng tình ở chỗ cho rằng chính sách kinh tế và tiền tệ của mình bị cơ chế EMS gò ép theo khuôn mẫu, trước tình hình đó Hội nghị thưởng đỉnh EC ở Hanovơr tháng 6-1988 đã quyết định lập uỷ ban do chủ tịch uỷ ban Châu Âu đứng đầu nghiên cứu đề xuất thành lập một liên minh kinh tế và tiền tệ EMU.
Mục đích của EMU là tạo ra sự ổn định giá cả, ổn định tỷ giá giữa các đồng tiền Tây Âu và đưa vào sử dụng một đồng tiền chung làm tăng sức mạnh thị trường thống nhất và sức mạnh của EC nói chung. Biện pháp thực hiện là phát triển một chính sách tiền tệ chung, phối hợp chặt chẽ các chính sách kinh tế và lập hệ thống các ngân hàng trung ương Châu Âu ( ESCB ). Ba tiêu chuẩn quan trọng nhất cho việc gia nhập EMU là: 1) Có sự ổn định giá cả ở mức cao .2) Có sự vững vàng của tình trạng tài chính.3) Có sự ổn định của tỷ giá.
Việc xác lập EMU là một thành công đáng kể của tiến trình liên kết kinh tế Châu Âu do EU khởi xướng và dẫn dắt. Việc xây dựng EMU đã vượt ra khỏi khuôn khổ kinh tế - tiền tệ và bao hàm cả những vấn đề chính trị - xã hội.
2. Vị thế của EU trên thế giới.
Sau khi hợp nhất thành công EU đã trở thành một trung tâm kinh tế tài chính mạnh, ngang hàng với Mỹ và Nhật Bản. Trên một trăm nước thiết lập mối quan hệ với EU tại uỷ ban Châu Âu: Thực tế cho thấy, trong những năm gần đây khủng hoảng kinh tế đã khiến cho nhiều nước, tổ chức kinh tế như: ASEAN, Nhật Bản, Mỹ..bị ảnh hưởng. Nền kinh tế Nhật Bản đã có dấu hiệu suy thoái, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của các quốc gia Châu Á suy giảm mạnh. Trong khi đó, EU vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng ổn định và hầu như không bị ảnh hưởng bởi các cuộc khủng hoảng. Điều này cho thấy EU là một tổ chức mạnh kinh tế trên thế giới, duy trì mối quan hệ này là một quyết định sáng suốt của Đảng và Nhà Nước trong công cuộc phát triển kinh tế của Việt Nam.
2.1 Liên minh Châu Âu trong thương mại toàn cầu.
Liên minh Châu Âu là lực lượng thương mại hàng đầu, là thị trường thống nhất rộng lớn nhất thế giới với 370 triệu người tiêu dùng ( EU đứng thứ 3 thế giới về dân số, sau Trung Quốc và Ấn Độ ), liên minh Châu Âu có vai trò và ảnh hưởng quốc tế như một thực thể hơn là một tập hợp các quốc gia dân tộc. Các bạn hàng lớn nhất của EU trên thương trường là Hoa Kỳ năm 1995 có tổng kim ngạch buôn bán 204,5 tỷ USD chiếm 18,4% tiếp đó là Thuỵ Sỹ: 94,8 tỷ USD chiếm 8,5% sau đó là Nhật Bản: 87,2 tỷ chiếm 7,9%. Xét theo khối liên kết thì bạn hàng lớn nhất là khối NAFTA: 234 tỷ USD chiếm 21% kim ngạch ngoại thương của EU.
EU trong tư cách một thị trường quan trọng nhất thế giới với sự gắn kết của 15 nước thành viên phụ thuộc vào thương mại quốc tế nhiều hơn so với Mỹ. Là một thành viên chủ đạo của Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT ), EU có vai trò chủ chốt trong các cuộc đàm phán thương mại đa phương. Những cuộc đàm phán này đã thu được thành công trong việc giảm bớt các hàng rào thương mại từ những năm 60 trở lại đây.
Các hàng hoá chủ yếu của EU mua - bán trên thị trường thế giới là sản phẩm công nghiệp và hàng chế biến. Số này chiếm khoảng 85% kim ngạch xuất khẩu và 65% kim ngạch nhập khẩu. Ngoài ra EU còn xuất các thực phẩm và đồ uống, nguyên liệu và nhiên liệu: nhập chủ yếu là các hàng nông sản và hàng nguyên khai, dầu – khí. Trong toàn khối EU có khoảng 12 triệu người trực tiếp làm việc trong khu vực xuất khẩu với phần còn lại của thế giới.
Với những đóng góp của mình, EU đã có vai trò quan trọng trong việc phát triển thương mại thế giới. Khối lượng thương mại ngày nay tăng lên đáng kể so với 50 năm năm trước do việc từng bước loại bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Từ năm 1985 đến năm 1996 tỷ trọng thương mại của EU chiếm trong GDP thế giới đã tăng 3 lần so với thập kỷ trước và tăng 2 lần so với những năm 60.
Kim ngạch xuất nhập khẩu của EU đã tăng lên hàng năm, ( năm 1994 là 1.303,41 tỷ USD : Năm 1995 là 1.463,13 tỷ USD, năm 1996 là 1.532,37 tỷ USD: Năm 1997 là 1.572,51 tỷ USD ), chiếm 20,42% kim ngạch thương mại toàn cầu giai đoạn 1994-1997, trong khi đó của Mỹ là 19,37% và Nhật Bản là 9,8%. Trong đó kim ngạch xuất khẩu của EU chiếm khoảng 21,13% tổng kim ngạch toàn cầu ( 1994-1997 ), con số này của Mỹ và Nhật Bản là 16,67% và 10,7%. Kim ngạch nhập khẩu của EU cũng không ngừng gia tăng, chiếm 19,72% kim ngạch nhập khẩu toàn cầu, còn của Mỹ và Nhật Bản là 20,09% và 8,88% ( 1994-1997 ).
Trong quan hệ quốc tế, luật pháp EU cho phép xác lập mối quan hệ thương mại với các nước ngoài khối theo các hình thức như:
Các hiệp định liên kết ( Association agreements ) cho phép bạn hàng xâm nhập miễn thuế vào thị trường EU cho phần lớn sản phẩm chế biến trong một thời kỳ quá độ nhất định. Hiệp định này sẽ tạo ra một khu vực mậu dịch tự do hoặc một dạng liên minh thuế quan. Do đó đây thường là hình thức hiệp định để ký với các nước sẽ là thành viên của EU trong tương lai.
Một hình thức liên kết đặc biệt hiện đang giành cho 70 nước ở Châu Phí, vùng Caribê và Thái Bình Dương ( ACP ) cho phép các sản phẩm có nguồn gốc nước từ các nước này xâm nhập miễn thuế rộng rãi vào thị trường EU.
Các hiệp định thương mại ưu đãi (Prefrential trade agreememts ) cho phép các đối tác xâm nhập ưu đãi vào thị trường EU.
Các hiệp định khung (Framework agreements ) được thiết kế để tạo ra một cấu trúc thể chế không hàm ý sự cần thiết hai bên cần phải có sự nhượng bộ đặc biệt về thương mại hoặc kinh tế .
Có thể thấy rất rõ chính sách thương mại chung của EU tập trung vào việc áp thuế chung với hàng hoá buôn bán với các nước ngoài khối trong khi xoá bỏ mọi hàng rào thuế trong buôn bán nội khối. Như vậy hiển nhiên là EU đã không phân biệt đối xử trong buôn bán nội khối nhưng lại thực hiện phân biệt đối xử trong buôn bán với các nước ngoài khối là điều trái với yêu cầu của GATT ( WTO ) :Mặt khác nhờ chính sách thương mại chung, các nước EU đã phối hợp hài hoà các chính sách thương mại