Vị thành niên : là nhóm người chưa đến tuổi được pháp luật công nhận là công dân với đầy đủ các quyền và nghĩa vụ ( theo Từ điển Tiếng Việt, 1994 - NXBGD).
Hầu hết học sinh THCS và THPT được xếp vào nhóm vị thành niên (VTN), từ 14 - 18 tuổi. Đây là một giai đoạn chuyển tiếp của sự phát triển từ tuổi thơ sang người lớn, giai đoạn đặc biệt, duy nhất của cuộc sống vì xảy ra đồng thời một loạt những thay đổi, bao gồm : Sự chín muồi về thể chất ; Sự biến đổi điều chỉnh tâm lý ; Và sự biến đổi các quan hệ xã hội nhằm đáp ứng các yêu cầu và nhiệm vụ phát triển. Đây cũng là giai đoạn phát triển có nhiều khó khăn, thậm chí khủng hoảng, so với các lứa tuổi khác do những biến đổi dữ dội về tâm lý về cả phạm vi và mức độ, đến mức nhiều người xem đó như một “giai đoạn khủng hoảng” của đầu đời.
Những công trình nghiên cứu sự phát triển tâm sinh lý của lứa tuổi VTN gần đây quan niệm : Lứa tuổi này như là một giai đoạn phát triển đi qua một loạt những lớp sự kiện, những kinh nghiệm, sự trải nghiệm, hay những nhiệm vụ phát triển được xác định về mặt xã hội. Những diễn biến phức tạp về tâm lý là một trong những nguyên nhân lôi cuốn trẻ VTN vào những hành vi bất thường, hành vi xấu trong xã hội : rượu, cờ bạc, nghiện hút, quan hệ tình dục. .(gọi là : rối nhiễu tâm lý VTN). Các hiện tượng này gây nhiều lo ngại cho các bậc cha mẹ, nhà giáo dục và xã hội.
27 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 3322 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số rối nhiễu tâm lý vị thành niên dưới cái nhìn của nhà giáo dục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM
------
TIỂU LUẬN
MỘT SỐ RỐI NHIỄU TÂM LÝ VỊ THÀNH NIÊN
DƯỚI CÁI NHÌN CỦA NHÀ GIÁO DỤC
Giáo viên hướng dẫn : Trần Văn Tính
Sinh viên : Bùi Thị Thúy
Lớp : K48-SP Sử
Hà Nội -2005
LỜI CẢM ƠN
Tiểu luận này được hoàn thành với sự hướng dẫn và chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo trong khoa sư phạm - Đại học Quốc gia Hà Nội và sự giúp đỡ của các bạn trong tập thể lớp K48 - Sư phạm Sử. Em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô trong khoa Sư phạm và các bạn sinh viên đã giúp đỡ em hoàn thành tiểu luận này.
Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn thầy Trần Văn Tính, người đã hướng dẫn em hoàn thành tiểu luận này.
Do trình độ còn hạn chế, thời gian ngắn, và tài liệu ít, tiểu luận này khó tránh khỏi những hạn chế. Em mong sẽ nhận được sự đóng góp của thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Bùi Thị Thúy
PHẦN I : MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Vị thành niên : là nhóm người chưa đến tuổi được pháp luật công nhận là công dân với đầy đủ các quyền và nghĩa vụ ( theo Từ điển Tiếng Việt, 1994 - NXBGD).
Hầu hết học sinh THCS và THPT được xếp vào nhóm vị thành niên (VTN), từ 14 - 18 tuổi. Đây là một giai đoạn chuyển tiếp của sự phát triển từ tuổi thơ sang người lớn, giai đoạn đặc biệt, duy nhất của cuộc sống vì xảy ra đồng thời một loạt những thay đổi, bao gồm : Sự chín muồi về thể chất ; Sự biến đổi điều chỉnh tâm lý ; Và sự biến đổi các quan hệ xã hội nhằm đáp ứng các yêu cầu và nhiệm vụ phát triển. Đây cũng là giai đoạn phát triển có nhiều khó khăn, thậm chí khủng hoảng, so với các lứa tuổi khác do những biến đổi dữ dội về tâm lý về cả phạm vi và mức độ, đến mức nhiều người xem đó như một “giai đoạn khủng hoảng” của đầu đời.
Những công trình nghiên cứu sự phát triển tâm sinh lý của lứa tuổi VTN gần đây quan niệm : Lứa tuổi này như là một giai đoạn phát triển đi qua một loạt những lớp sự kiện, những kinh nghiệm, sự trải nghiệm, hay những nhiệm vụ phát triển được xác định về mặt xã hội. Những diễn biến phức tạp về tâm lý là một trong những nguyên nhân lôi cuốn trẻ VTN vào những hành vi bất thường, hành vi xấu trong xã hội : rượu, cờ bạc, nghiện hút, quan hệ tình dục. ..(gọi là : rối nhiễu tâm lý VTN). Các hiện tượng này gây nhiều lo ngại cho các bậc cha mẹ, nhà giáo dục và xã hội.
II. MỤC ĐÍCH.
Do những thay đổi quan trọng và phức tạp trên, đề tài này đi phân tích diễn biến sự phát triển tâm sinh lý lứa tuổi VTN, trình bày một số rối nhiễu cơ bản giúp nhà giáo dục nắm bắt được những đặc trưng tâm lý và diễn biến tâm lý của tuổi VTN. Từ đó, có những ứng xử sư phạm phù hợp với những hành vi và biểu hiện tâm lý khác thường ở học sinh. Đồng thời đưa ra một số góp ý đối với nhà giáo dục, đảm bảo cho việc giáo dục học sinh lứa tuổi vị thành niên đạt hiệu quả tốt nhất.
PHẦN II : NỘI DUNG
I. Những biến đổi tâm sinh lý của trẻ vị thành niên.
1.Thay đổi về mặt sinh lý.
Dù chủ động hay bị động về tâm lý, trẻ em giai đoạn này đều phải đối mặt với vấn đề dậy thì. Tuổi dậy thì được coi là dấu hiệu quan trọng nhất cho sự bắt đầu thời VTN.
Dậy thì : Là giai đoạn trưởng thành nhanh chóng về thể xác liên quan đến hoóc - môn và những thay đổi về cơ thể thường xảy ra ở đầu VTN, với sự biến đổi cơ thể (hệ cơ, xương, cơ quan sinh dục và các đặc tính sinh dục phụ. ..).Được đánh dấu bằng kỳ kinh đầu tiên ở các em gáivà lần xuất tinh đầu tiên ở em trai, báo hiệu sự trưởng thành về mặt thể chất, sự chín muồi của quá trình phát triển. Trẻ có khả năng sinh sản.
+ Thay đổi về hooc môn.
Kết qủa của sự thay đổi hình thể giữa bé trai và bé gái được quyết định bằng tăng lượng hooc môn: “ những chất hoá học cực mạnh do những tuyến nội tiết âm thầm tiết ra và được máu đưa đi khắp cơ thể”. Vai trò của hệ thống nội tiết ở tuổi dạy thì liên quan đến sự hoạt động của cấu tạo dưới đôi, tuyến yên và các tuyến sinh dục.
Cấu tạo dưới đồi: là một cấu trúc nằm ở phần não trước có chức năng kiểm soát sự đói, khát và tình dục.
Tuyến yên: là tuyến nội tiết quan trọng điều khiển sự tăng trưởng và ổn định của các tuyến khác
Tuyến sinh dục: Là tuyến chỉ giới tính- tinh hoàn ở nam và buồng trứng ở nữ.
Hai loại hooc môn chính quan trong cho sự phát triển trong thời dạy thì là androgen( kích thích tố nam) và estrogen( kích thích tố nữ) cả hai loại kích tố này đều có ở cả nam và nữ nhưng androgen mạnh hơn ở nam và estrogen mạnh hơn ở nữ. Các nhà khoa học cho biết: trong thời dạy thì lượng kích tố nam cao đột biến ở nam, kéo theo: bộ phận sinh duc ngoài phát triển tăng trưởng cao và giọng nói thay đổi- “ vỡ tiếng”. Và kích thích tố nữ ở nữ cao đột biến kéo theo sự phát triển ở vú, xương chậu và tử cung. ( John W. Santrock, “ tìm hiểu thế giới tâm lý tuổi vị thành niên”).
Hoạt động của các tuyến nội tiết thời kì này có vai trò quyết định đến sự hoàn thiện về mặt sinh lý cảu cơ thể, đến cuối giai đoạn VTN cơ thể bé trai và bé gái đã hình thành đầy đủ về các cơ quan sinh dục và dặc tính giới tính. Một cơ thể đã trưởng thành ( mặt sinh học).
+ Sự tăng trưởng chiều cao, trọng lượng:
Đây là giai đoạn “ nhảy vọt tầm vóc ở cả hai giới. Thời bắt đầu phát triển bùng phát về chiều cao ở nữ là khoảng 13-14 tuổi và nam 14-15 tuổi ( trẻ châu á) và 11-12 tuổi ở nữ và 13-14 tuổi ở nam( trẻ phương tây). Trong suốt quá trình phổng phao này, trẻ gái phát triển chiều cao TB mỗi năm chừng 4-5cm ( phương đông) và 7-9 cm( phương tây); bé trai là 5-7 cm phương đông và 8-10 cm ( phương tây). Vào giai đoạn đầu bé gái thường cao hơn bạn trai cùng tuổi nhưng càng về cuối độ tuổi VTN thì các em trai lại vượt qua các em gái
Cùng với phát triển chiều cao là sự phát triển mạnh của cơ bắp làm cơ thể không ngừng tăng trọng lượng. Cuối tuổi vị thành niên có thể đạt trọng lượng trung bình cho người trưởng thành. Trọng lượng các em nam vượt qua trọng lượng các em nữ.
+ Đặc điểm hệ thần kinh:
Đầu giai đoạn vị thành niên ( tương đương học sinh THCS ) do hoạt động mạnh của tuyến nội tiết, hệ thần kinh có sự hưng phấn mạnh và lan toả. Việc thành lập phản xạ có điều kiện với tín hiệu thứ 2 thường kém và chậm chạp hơn so với phản ứng hệ thống tín hiệu thứ 1.
Bước sang giai đoạn giữa và cuối VTN ( tương đương học sinh THPT), cấu trúc và chức năng của hệ thần kinh phức tạp là linh hoạt hơn. số lượng các dây thần kinh liên hợp được tăng lên, liên kết các phàn khác của vỏ não lại. Do đó phản ứng tâm lý thường linh hoạt, nhanh chóng, khả năng tư duy phát triển cao.
Tuối VTN là giai đoạn phát triển và hoàn thiện về thể lực. Tuy nhiên sự hoàn thiện này còn phụ thuộc vào chế độ ăn uống và luyện tập thể dục đúng đắn. Vì vậy để trẻ VTN đạt tới sức khoe, sức mạnh và năng lượng dồi dào cần quan tâm tới vấn đề dinh dưỡng và luyện tập thể dục thường xuyên.
2. Những thay đổi mặt xã hội:
Cách nhìn nhận đánh giá, kì vọng của gia đình, thầy cô và xã hội chính là nhân tố quyết định đến sự đánh giá vị trí của trẻ trong môi trường tương ứng. Hầu hết trẻ VTN đều coi mình là trung tâm, là “ cái rốn của vũ trụ”.
Trong gia đình: vị thế các em được nâng lên, được xem như một thành viên tích cực, được giao cho những nhiệm vụ cụ thể, thậm chí trở thành lao động chính trong gia đình. Vai trò và ý thức của trẻ được nâng cao.
Trong nhà trường: với một khối lượng kiến thức lớn buộc trẻ phải tiếp thu hơn nữa sự kéo dài của thiết chế gia đình với sự bao bọc, quan tâm, chăm sóc chu đáo của giáo viên cấp tiểu học bị phá bỏ. Bước vào cấp THCS và cao hơn ở bậc THPT yêu cầu tính tự giác, tự lập và chủ động trong học tập. Học thụ động chuyển sang giai đoạn cao hơn- chủ động. Động cơ học tập được xác định một cách rõ ràng trở thành đông lực kích thích tính chủ động của hoạt động học.
Trong xã hội: trẻ bắt đầu được thừa nhận như một thành viên tích cực của xã hội. Vì vậy, hầu hết có khuynh hướng sống một cuộc sống tích cực vì xã hội, muốn mang lại lợi ích cho người khác.
Nhìn chung địa vị của trẻ VTN được nâng cao trong xã hội chúng được tôn trọng, được lắng nghe ý kiến. Sự thay đổi này có thay đổi lớn đến tâm lý trẻ VTN. Trẻ VTN tự ý thức mình là người lớn thực thụ, có quyền chủ động quyết định và đối phó với mọi vấn đề xảy ra quanh mình. Cho dù người lớn nhìn nhận những vấn đề đó theo một cách khác.
3. Những biến đổi tâm lý trẻ VTN:
Những thay đổi thời kì dậy thì, đưa trẻ vào trạng thái không ổn định về tâm lý. Đây là nguyên nhân phát sinh ra hành vi bất thường ở các em.
Sự phát triển không cân đối của hệ tuần hoàn, thể tích tim tăng nhanh nhưng đường kính của các mạch máu phát triển chậm gây rối loạn tạm thời của tuần hoàn máu. Các em thường có cảm giác mệt mỏi, nhức đầu, chóng mặt, dễ cáu gắt và bực tức.
Sự hưng phấn mạnh chiếm ưu thế, các ức chế kém đi, vì vậy trẻ VTN dễ bị kích động, nóng nảy, hung hăng.
Khả năng tư duy chuyển đổi tư duy trực quan hình tượng sang tư duy cụ thể và phát triển mức cao của tư duy trừu tượng, kết hợp hành động nhanh mạnh của hệ thần kinh hình thành nên đặc tính nổi bật trong tâm lý giai đoạn VTN: tò mò và thích kkhám phá. Đặc tính tâm lý là rất tốt cho quá trình học tập và tìm hiểu xã hội. Nhưng nó cũng là lý do chính lôi cuốn trẻ VTN vào tệ nạn xã hội.
Một khía cạnh tâm lý do thể xác thay đổi ở tuổi dậy thì là : trẻ VTN luôn bị ám ảnh về cơ thể mình và luôn tưởng tượng ra những hình ảnh cơ thể mình sẽ như thế nào. Đầu giai đoạn này các em thấy có cảm giác “ bị đánh mất mình”,bản sắc như “ bị nhoè đi” ( Erickson-1964), và đi kèm theo nó là “ sự giảm sút của việc tự đánh giá bản thân” ( Harter-1990; Wigfild và đồng nghiệp, 1991). Có thể nói chính sự thay đổi đột ngột về thân thể khiến cho các em không tìm thấy lại được chính mình. Điều này giải thích tại sao chúng có thể đứng ngắm gương hàng giờ đồng hồ. Bên cạnh đó những thay đổi lớn của lứa tuổi này kéo theo khoong ít những thay đổi lớn vè tâm tư tình cảm, ước mơ, nguyện vọng càng làm cho các em thêm lạ lẫm với chính mình.
Trong hoàn cảnh này nếu không được quan tâm, chăm sóc có chủ định và đầy đủ, trẻ dễ có hành động lệch lạc, dễ có những đặc điểm tâm lý khác với con người trước kia của các em.
“ Cảm giác là người lớn” là cấu thành mới của quá trình tự ý thức của trẻ VTN. Cảm giác về sự trưởng thành này nảy sinh do các em ý thức được và đánh giá được những tiến triển về thể chất và sự phát dục trên cơ thể. Trẻ hình thành “ cảm giác là người lớn” chủ yếu thông qua sự phát triển cơ quan bề ngoài( cơ quan sinh dục; khối lượng cơ thể). Sự phat triển này làm hcúng thấy mình đã trưởng thành giống bố hoặc mẹ.
Nguồn gốc làm nẩy sinh cảm giác này còn nằm ở quan niệm xã hội. Đó là lòng tin, sự tôn trọng, coi trọng và kì vọng ( như đã nói ở trên) vào trẻ. Cùng với “ tấm gương” của người lớn, của bạn bè xung quanh đã gây tác động tâm lý quyết định lập trường sống mới, nguyện vong và rung động mới của VTN với xã hội.
Giai đoạn này tre thường năng nổ hoạt động để tự khẳng định mình với gia đình, bạn bè và xã hội. Song cũng ở đó trẻ còn tồn tại hai đặc tính “tính trẻ con” và “ tính người lớn”. “Tính người lớn “ thôi thúc trẻ làm mọi việc ù khó khăn để đạt mục đích : khẳng định mình. Nhưng năng lực bị hạn chế, “tính trẻ con” cản trở. Hai đặc thính này trái ngược cản trở sự trưởng thành của trẻ, cũng là nguồn gốc sinh ra xung đột trong mối quan hệ của người lớn và trẻ vị thành niên ( mâu thuẫn này nói rõ ở phần sau ).
3.1. hoạt động học tập :
Đối với nhiều em sự hấp dẫn của nhà trường tăng lên rõ rệt.
Thái độ học tập : có trách nhiệm, ý thức tự giác cao, chủ động trong học tập, thích khám phá mở rộng tin tức.
Phương pháp học : có khả năng tự học tự nắm bắt tài liệu theo sở thích và nhu cầu riêng của cá nhân. Đây là một kiểu của hoạt động học tập cao, mới về chất ở lứa tuổi này.
Hứng thú bền vững với môn học liên quan đến một ngành tương ứng, một sản phẩm cụ thể được xác lập nhưng kết quả học tập cao tập trung phần lớn vào lứa tuổi cuối VTN ( PTTH ).
Nhưng đây cũng là thời kỳ trẻ bắt đầu “trượt dốc” trong học tập. Học tập có thể bị xem nhẹ nếu có hứng thú mạnh mẽ với lĩnh vực khác. Coi học tập là phụ, việc lĩnh hội tri thức không đứng vị trí quan trọng nữa. Đây là thời điểm trẻ VTN dễ bị lôi kéo sa đà nhất :Trẻ có thể đứng đầu một nhóm bạn ; thích chú ý đến thời trang ; vui chơi. ..
Nguyên nhân của hiện tượng “ trượt dốc” là :
Không xác định đúng nhiệm vụ học tập là chủ đạo.
Phương pháp lĩnh hội tài liệu không đúng đắn, làm kiến thức giảm dần, giảm sút, dãn đến mất hứng thú học tập trẻ chuyển sang hứng thú với lĩnh vực khác, thậm chí bỏ học.
Không được giáo dục thường xuyên và kịp thời của gia đình và nhà trường trong giai đoạn “ khủng hoảng tâm lý” này.
3.2 hoạt động giao tiếp :
Hoạt động giao tiếp là hoạt động quan trọng của tuổi VTN. Ta đi xem xét hai mối quan hệ của trẻ VTN với bạn bè và cha mẹ.
-Bạn bè : là loại giao tiếp đứng thứ nhất. Hoạt động giao tiếp với bạn cùng lứa tuổi là hoạt động nổi trội. Theo nghiên cứu của Đỗ Thị Hạnh Phúc về nhu cầu kêt bạn thân của lứa tuổi đầu và giữa VTN ( THCS ) : 74,61% cảm thấy rất cần ; 17,66% thấy cần. Như vậy chúng coi bạn thân giống “cái tôi thứ 2 của mình”, để tìm sự bình đẳng tôn trọng và khẳng định giá trị của bản thân.
Cuối tuổi VTN, tình bạn khác giới càng phát triển những rung động tâm lý trong chúng xuất hiện một tình cảm đặc biệt : tình yêu. Tình yêu học trò thường trong sáng, thuần khiết, lý tưởng, giàu cảm xúc, ước mơ, nhưng lại thiếu bền vững và dễ đổ vỡ.
Trẻ VTN không thể sống thiếu tình bạn, sự bất hoà trong quan hệ bạn bè, bạn thân và đổ vỡ trong tình yêu đầu đời đều đem lại những cảm xúc và tổn thương tâm lý nặng nề cho trẻ - các nhà tâm lý gọi là “bi kịch cá nhân”. Sự tảy chay và đơn độc là trải nghiệm nặng nề nhất với cá nhân. Hoàn cảnh này dễ dẫn tới việc thực những hành vi sai trái, lệch chuẩn mực xã hội.
Bố mẹ : giao tiếp này đứng vị trí thứ hai sau quan hệ bạn bè. Giai đoạn này trẻ VTN có khuynh hướng độc lập thích khẳng định, chúng thường muốn tham dự vào sự việc trong gia đình muốn góp ý kiến giải pháp hay hành động. Nếu cha mẹ nắm bắt và ứng xử phù hợp với đặc điểm tâm lý này của VTN, quan gệ giữa cha mẹ và con cái là cùng chiều, hoà hợp và ổn định. Nếu cha mẹ thiếu tin tưởng ngăn cản hành động khẳng định tất yếu sẽ kéo theo quan hệ ngược chiều, gây ra xung đột. Điều này lý giải vì sao dưới cái nhìn của cha mẹ, các em là đứa “cứng đầu”, “ bất trị”.
Việc nắm bắt đặc điểm tâm lý VTN và có ứng xử phù hợp của cha mẹ, nhà giáo dục là yêu cầu quan trọng cho việc dạy bảo trẻ ở giai đoạn này.
3.3 sự phát triển nhân cách :
Tự ý thức và đánh giá bản thân :
Tự ý thức phát triển cao, chúng coi mình nhân cách độc lập, có quyền được tin cậy, tôn trọng như người lớn. Chúng tự ý thức được Cái tôi bản thân ; Cái tôi hiện thực ; Cái tôi động lực ; Cái tôi lý tưởng và cái tôi viễn tưởng.
Nhìn chung chúng đánh giá mình cao hơn hiện thực, thổi phồng khả năng của bản thân, luôn cho mình là đúng và hành động theo suy nghĩ với ý kiến riêng.
Đánh giá người khác :
Giai đoạn đầu VTN , trẻ đánh giá sự việc, cá nhân thông qua đặc điểm bề ngoài, qua quan sát. Do ít trải nghiệm nên đánh giá thường khắt khe, cứng nhắc và mang tính cực đoan. Kết quả của sự đánh giá này sẽ quy định tình cảm của trẻ với đối tương đánh giá là tốt hay xấu.
Giai đoạn giữa và cuối VTN đánh giá đi sâu vào đặc điểm bên trong. Do trải nghiệm khả năng suyđoán, phán đoán và nhận thức nhạy bén nên các đánh giá thường chính xác và tập trung.
Phát triển ý chí :
Ý chí : Là khả năng tự xác định cho hành động và hướng hành động của mình khắc phục khó khăn nhằm đạt mục đích đó (Từ điển Tiếng Việt, 1994 - NXBGD)
Trẻ VTN thường vươn lên theo các hình mẫu lý tưởng (Nhân vật trong phim, truyện, lịch sử. ..), từ đó hình thành nên các phẩm chất : Sức mạnh, lòng can đảm , chịu đựng, chung thuỷ. .. Vì ý chí này chúng có thể bắt chấp mọi nguy hiểm, hành động liều lĩnh táo tợn. Nam VTN thường thích đọ sức gây gổ để chứng minh ưu thế và thoả mãn sự tương đồng của bản thân với hình mẫu của mình. Nữ VTN thích thể hiện tài năng, khéo léo, phô chương hình thức đường nét. .. Nhằm quyến rũ và lôi cuốn sự chú ý từ bạn khác giới.
Vấn đề đặt ra cho việc định hướng hình mẫu lý tưởng của trẻ VTN như thế nào thì thích hợp ? Thực tế đã cho thấy nếu xây dưng được một hình mẫu đúng đắn, hợp chuẩn mực xã hội thì sự phát triển ý chí, phẩm chất và lối sống của trẻ trở nên tích cực, lành mạnh. Ngược lại, những hình mẫu lệch chuẩn lại là nguyên nhân chủ yếu đưa các em vào guồng quay của lề thói xấu lối sống lệch chuẩn, những hành vi bị pháp luật ngăn cấm.
Lứa tuổi VTN như các cụ ta đã từng nói “có lớn mà không có khôn”. Có “lớn” vì về mặt cơ thể trẻ lớn nhanh chỉ trong một thời gian ngắn, nhưng chưa có “khôn” vì VTN chưa trưởng thành về mặt tâm lý, xã hội, chưa hiểu biết sâu sắc về các vấn đề liên quan đến gia đình, xã hội, nghề nghiệp. Khi gặp những hoàn cảnh hoặc sự cố không thuận lợi trong cuộc sống hằng ngày, VTN dễ bị khủng hoảng tâm lý, mất cân bằng. Trong những hoàn cảnh khó khăn như thế, không ít em đã tìm đến giải pháp như : Sa đà, nghiện ngập, buông thả trong quan hệ tình dục. ..
Phần tiếp theo xin trình bày nguyên nhân và một số hành vi bất thường (hay rối nhiễu tâm lý ) mà trẻ VTN hay mắc phải.
II. Những rối nhiễu tâm lý VTN :
Rối nhiễu tâm lý VTN : Là trạng thái tâm lý chứa những hành vi bất thường ;Là hành vi về đạo đức, kém hay bất thích nghi, đau buồn trầm uất. Những hành vi này cản trở sự phát triển bình thường, hoàn chỉnh, suy mãn của trẻ VTN, và ảnh hưởng đến người khác. Chúng có thể biến tướng thành nhiều dạng - nghiện ma tuý, mại dâm, các hành vi phạm tội, bạo lực, phiền muộn và tự tử.
1. Nguyên nhân của rối nhiễu tâm lý :
Nguyên nhân khiến trẻ VTN có những hành vi về đạo đức, kém hay bất thích nghi và đau buồn. ..Bao gồm các yếu tố sinh lý, tâm lý, văn hoá xã hội, giáo dục.
-Về yếu tố sinh lý : người ta tin rằng sự trục trặc chức năng của cơ thể chịu trách nhiệm cho các rối loạn tâm thần của cá nhân. Ngày nay các nhà khoa học tập trung vào quá trình hoạt động của não - như sự dẫn truyền cuả các nhóm nơron, các yếu tố di truyền ; Lượng hoócmôn là nguyên nhân gây ra những hành vi bất thường. Từ góc độ y học, những rối loạn tâm lý này có thể chữa được bằng thuốc.
-Về yếu tố tâm lý : Là nguyên nhân quan trọng nhất sinh ra các hành vi bất thường. Những suy nghĩ méo mó, xáo trộn cảm xúc, khó khăn trong học tập và rắc rối trong mối quan hệ khiến VTN rơi vào trạng thái Stress đã góp phần nảy sinh hành vi bất thường.
Căn nguyên của sự rối loạn tâm lý thường bắt nguồn từ những kinh nghiệm xã hội - do căng thẳng với cha mẹ hoặc bất đồng với người khác ; Xung đột và tan vỡ hạnh phúc gia đình ; Khai trừ ra khỏi nhom bạ. ..
-Về yếu tố văn hoá xã hội : Đây cũng là yếu tố tác động đến tâm lý VTN, nói cách khácđó là tác động của môi trường xã hội. Một môi trường xã hội có chất lượng cuộc sống tốt, nhu cầu sống của trẻ được thoả mãn, văn hoá lành mạnh sẽ hạn chế rất nhiều những rối nhiễu tâm lý. Một môi trường xã hội nghèo khó, điều kiện thiếu thốn, tệ nạn xấu hoành hoành là mảnh đát màu mỡ dẫn trẻ VTN bước lệch khỏi chuẩn mực xã hội phát sinh nhiều hành vi bất thường.
-Về yếu tố giáo dục : Đây được coi là yếu tố quyết định trong mọi nền văn hoá. Trẻ VTN được giáo dục đạo đức, tri thức một cách có hệ thống và toàn vẹn sẽ tự ý thức và điều khiển được hành vi của bản thân trong đa số các trường hợp. Một số nhà tâm lý nghiên cứu thấy rằng : Đại đa số trẻ VTN có hành vi bất thường, phạm pháp, là do chúng không được giáo dục về hậu quả của những hành vi mình làm .
Các yếu tố sinh lý, tâm lý, văn hoá xã hội và giáo dục có tác động qua lại, phối hợp với nhau tạo nên hành vi cá nhân, dù là bình thường hay bất bình thường. Vì vậy trong quá trình giáo dục tâm lý trẻ VTN cần tác động riêng rẽ và tổng thể vào từng yếu tố mới hy vọng đạt được kết qủa tốt.
2. Các rối nhiễu tâm lý :
2.1. Thuốc lá, rượu, ma tuý :
Kể từ thủa ban sơ, loài người luôn tìm kiếm các chất có thể duy trì cuộc sống bảo vệ họ, đồng thời tạo ra những cảm giác dễ chịu nhằm vuốt êm thân kinh họ trong hoàn cảnh bức bối gian khó. Người ta bị hấp dẫn bở