Đề tài Một số ý kiến về thực trạng và giải phỏp phỏt triển cỏc doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong thời kỳ cụng nghiệp húa, hiện đại hóa đất nước

Trong lịch sử phát triển của các nước, các doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn luôn có vai trò và tác dụng rất quan trọng. Gần đây, chính trong thời điểm cách mạng khoa học và công nghệ tiến triển mạnh mẽ với xu thế toàn cầu hoá xảy ra khá sôi nổi, thực tiễn quản lý kinh tế và quản lý doanh nghiệp có những biến chuyển sâu sắc thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại càng được chú trọng hơn ở khắp các nước. Chính vì vậy mà rất nhiều nước Đông Á đã thu được những thành tựu rực rở và tạo nên cái được gọi là “điều kỳ diệu Đông Á”. Để nối tiếp những thành công của các nước trong khu vực, quá trình công nghiệp hoá nhanh chóng ở Việt Nam cũng cần phải đi theo hướng phát triển này. Nhìn chung, các doanh nghiệp đang chiếm phần đông trong khu vực kinh tế tư nhân của Việt Nam là hộ gia đình thì vẫn còn quá nhỏ bé, quá yếu ớt để có thể cạnh tranh trên trường quốc tế. Còn các doanh nghiệp nhà nước thì lại tỏ ra khá cứng nhắc và kém hiệu quả để có thể bắt kịp với nhu cầu gia tăng mạnh mẻ của thế giới. Nhiều kinh nghiệm đã chứng minh rằng chính các doanh nghiệp vừa và nhỏ những doanh nghiệp có quy mô đủ lớn để có thể hoạt động một cách có hiệu quả song cũng có thể biến chuyển một cách linh hoạt chính là chìa khoá để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá một cách nhanh chóng. Để phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới nhà nước đã có những chính sách hỗ trợ và khuyến khích theo hướng “Cởi mở và nới lỏng” hơn, vì vậy môi trường đầu tư và kinh doanh của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được cải thiện một cách rỏ ràng, nhưng vẫn còn tồn tại những khó khăn và hạn chế trong các chính sách phát triển. Trong thời gian tới cùng vói tiến trình hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam với việc gia nhập vào AFTA vào năm 2006 và WTO trong thời gian không xa, thì với thực trạng như hiện nay, thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh vơí các nước. Vì vậy để giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ thực sự trở thành một động lực quan trọng trong tiến trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Nhà nước cần phải có một chiến lược phát triển phù hợp, có những chính sách ưu đãi và hỗ trợ thiết thực. Để doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng tăng tính cạnh tranh, đóng góp ngày càng nhiều hơn cho đất nước. Xuất phát từ nhận định trên qua thời gian thực tập thực tập tại Ban Phân tích và Dự báo Vĩ mô của Viên Chiến lược, tôi đã quyết định chọn đề tài: “ Một số ý kiến về thực trạng và giải phỏp phỏt triển cỏc doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong thời kỳ cụng nghiệp húa, hiện đại hóa đất nước” Mục đích nghiên cứu của đề tài là tổng kết các lý luận và kinh nghiệm về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ; Đánh giá thực trạng doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam Và sau cùng là đưa ra một số giải pháp phát triển trong gian đoạn tới. Kết cấu của đề tài bao gồm: Chương 1: Vai trò của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chương 2 : Thực trạng phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong giai đoạn từ 1990-2001. Chương 3: Một số ý kiến về giải pháp thúc đẩy phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam đến năm 2010. Trong thời gian hạn hẹp và trình độ kiến thức thực tế còn hạn chế nên Luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các cô chú hướng dẫn để có thể hoàn chỉnh đề tài này tốt hơn nữa . Qua đây Em xin chân thành cảm ơn Thầy giáo: TS. Lê Huy Đức và các các cô chú trong ban Phân Tích và Dự Báo vĩ mô của Bộ kế Hoạch Đầu Tư đã giúp rất nhiều để có thể hoàn thành đề tài này.

doc87 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1262 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số ý kiến về thực trạng và giải phỏp phỏt triển cỏc doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong thời kỳ cụng nghiệp húa, hiện đại hóa đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Trong lịch sử phát triển của các nước, các doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn luôn có vai trò và tác dụng rất quan trọng. Gần đây, chính trong thời điểm cách mạng khoa học và công nghệ tiến triển mạnh mẽ với xu thế toàn cầu hoá xảy ra khá sôi nổi, thực tiễn quản lý kinh tế và quản lý doanh nghiệp có những biến chuyển sâu sắc thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại càng được chú trọng hơn ở khắp các nước. Chính vì vậy mà rất nhiều nước Đông Á đã thu được những thành tựu rực rở và tạo nên cái được gọi là “điều kỳ diệu Đông Á”. Để nối tiếp những thành công của các nước trong khu vực, quá trình công nghiệp hoá nhanh chóng ở Việt Nam cũng cần phải đi theo hướng phát triển này. Nhìn chung, các doanh nghiệp đang chiếm phần đông trong khu vực kinh tế tư nhân của Việt Nam là hộ gia đình thì vẫn còn quá nhỏ bé, quá yếu ớt để có thể cạnh tranh trên trường quốc tế. Còn các doanh nghiệp nhà nước thì lại tỏ ra khá cứng nhắc và kém hiệu quả để có thể bắt kịp với nhu cầu gia tăng mạnh mẻ của thế giới. Nhiều kinh nghiệm đã chứng minh rằng chính các doanh nghiệp vừa và nhỏ những doanh nghiệp có quy mô đủ lớn để có thể hoạt động một cách có hiệu quả song cũng có thể biến chuyển một cách linh hoạt chính là chìa khoá để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá một cách nhanh chóng. Để phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới nhà nước đã có những chính sách hỗ trợ và khuyến khích theo hướng “Cởi mở và nới lỏng” hơn, vì vậy môi trường đầu tư và kinh doanh của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được cải thiện một cách rỏ ràng, nhưng vẫn còn tồn tại những khó khăn và hạn chế trong các chính sách phát triển. Trong thời gian tới cùng vói tiến trình hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam với việc gia nhập vào AFTA vào năm 2006 và WTO trong thời gian không xa, thì với thực trạng như hiện nay, thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh vơí các nước. Vì vậy để giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ thực sự trở thành một động lực quan trọng trong tiến trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Nhà nước cần phải có một chiến lược phát triển phù hợp, có những chính sách ưu đãi và hỗ trợ thiết thực. Để doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng tăng tính cạnh tranh, đóng góp ngày càng nhiều hơn cho đất nước. Xuất phát từ nhận định trên qua thời gian thực tập thực tập tại Ban Phân tích và Dự báo Vĩ mô của Viên Chiến lược, tôi đã quyết định chọn đề tài: “ Một số ý kiến về thực trạng và giải phỏp phỏt triển cỏc doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong thời kỳ cụng nghiệp húa, hiện đại hóa đất nước” Mục đích nghiên cứu của đề tài là tổng kết các lý luận và kinh nghiệm về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ; Đánh giá thực trạng doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam Và sau cùng là đưa ra một số giải pháp phát triển trong gian đoạn tới. Kết cấu của đề tài bao gồm: Chương 1: Vai trò của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chương 2 : Thực trạng phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong giai đoạn từ 1990-2001. Chương 3: Một số ý kiến về giải pháp thúc đẩy phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam đến năm 2010. Trong thời gian hạn hẹp và trình độ kiến thức thực tế còn hạn chế nên Luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các cô chú hướng dẫn để có thể hoàn chỉnh đề tài này tốt hơn nữa . Qua đây Em xin chân thành cảm ơn Thầy giáo: TS. Lê Huy Đức và các các cô chú trong ban Phân Tích và Dự Báo vĩ mô của Bộ kế Hoạch Đầu Tư đã giúp rất nhiều để có thể hoàn thành đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn! Sinh viên Lê Ngoc Lâm CHƯƠNG I VAI TRÒ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC I / NHẬN THỨC VỀ DNVVN. 1. Doanh nghiệp và phân loại trong nền kinh tế thị trường. Theo Luật Công ty nước ta xác định: “Doanh nghiệp là đơn vị kinh doanh được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh”. Theo Luật Doanh nghiệp mới đưa ra và thực hiện kể từ ngày 1/1/2000 thì “Doanh nghiệp được xác định là tổ chức là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh”. Tức để công nhận là 1 doanh nghiệp, thông thường có 3 điều kiện: - Có tư cách pháp nhân đầy đủ. - Có vốn pháp định để kinh doanh. - Có tên gọi và hoạt động với danh nghĩa riêng chịu trách nhiệm độc lập về mọi hoạt động kinh doanh của mình. Các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường rất phong phú và đa dạng có thể phân loại doanh nghiệp theo từng tiêu thức khác nhau: Thứ nhất: dựa vào quan hệ sở hữu về vốn và tài sản của doanh nghiệp Doanh nghiệp nhà nước: là doanh nghiệp do nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lý với tư cách là chủ sở hữu. Doanh nghiệp tư nhân: là doanh nghiệp do cá nhân đầu tư vốn và tự chịu trách nhiệm về toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sở hữu hổn hợp: là doanh nghiệp đan xen của các hình thức sở hữu khác nhau trong cùng một doanh nghiệp như các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp cổ phần. Thứ hai: dựa vào mục đích kinh doanh - Doanh nghiệp hoạt động vì mục đích thu lợi nhuận: là một tổ chức kinh doanh được nhà nước thành lập hoặc thừa nhận, hoạt động theo cơ chế thị trường và vì mục tiêu lợi nhuận. Doanh nghiệp hoạt động công ích (vô vị lợi): là tổ chức kinh tế thực hiện các hoạt động về sản xuất, lưu thông hay cung cấp các dịch vụ công cộng, trực tiếp thực hiện các chính sách xã hội của nhà nước hoặc thực hiện nhiệm vụ an ninh quốc phòng. Những doanh nghiệp này không vì mục tiêu lợi nhuận mà chủ yếu là vì hiệu quả kinh tế xã hội. Thứ ba: dựa vào lĩnh vực kinh doanh - Doanh nghiệp tài chính: là các tổ chức tài chính trung gian như các ngân hàng thương mại, công ty tài chính, công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán,… là những doanh nghiệp có khả năng cung ứng cho nền kinh tế các dịch vụ về tài chính- tiền tệ, tín dụng, bảo hiểm… Doanh nghiệp phi tài chính: là các tổ chức kinh tế lấy sản xuất kinh doanh sản phẩm làm hoạt động chính, bao gồm các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong các ngành nghề như: doanh nghiệp công nghiệp, nông nghiệp, doanh nghiệp xây dựng cơ bản, doanh nghiệp dịch vụ… Thứ tư: dựa vào quy mô kinh doanh Người ta chia ra thành các doanh nghiệp lớn; doanh nghiệp vừa; và doanh nghiệp nhỏ. Cách quy đinh thế nào là doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ còn tuỳ thuộc vào từng quốc gia, từng địa phương và trong từng thời kỳ nhất định. Có hai tiêu thức phổ biến dùng để phân loại về quy mô các doanh nghiệp. ã Tiêu chí định tính: dựa trên những đặc điểm cơ bản của các doanh nghiệp như trình độ chuyên môn hoá, số đầu mối quản lý, mức độ phức tạp của quản lý,… các tiêu chí này phản ánh đúng bản chất của từng loại hình doanh nghiệp nhưng nó thường khó xác định trên thực tế nên nó thường chỉ làm cơ sở để tham khảo mà ít được sử dụng. ã Tiêu chí định lượng: Dựa trên những giá trị thực của tài sản (vốn), số lao động, doanh thu… cụ thể là: + Tài sản (vốn) có thể là tổng giá trị tài sản, hay tài sản cố định, giá trị còn lại. + Số lao động: có thể là lao động trung bình, lao động thường xuyên, lao động thực tế,… của doanh nghiệp. + Doanh thu có thể là tổng doanh thu/ năm, tổng giá trị gia tăng/ năm… Về tiêu chí định lượng để xác đinh quy mô của doanh nghiệp thì rất đa dạng ở nhiều nước ví dụ như: Bảng 1: Một số tiêu chí định lượng dùng để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước. Nước Tiêu chí phân loại 1. Oxtraylia Số lao động. 2. Canada Số lao động, doanh thu. 3. Hồng Kông Số lao động, doanh thu. 4. Indonexia Số lao động, doanh thu, Tổng giá trị tài sản. 5. Nhật Bản Số lao động, doanh thu, tỷ lệ vốn góp. 6. Malaixia Số lao động, doanh thu, tỷ lệ vốn góp. 7. Mêhicô Số lao động, doanh thu, tỷ lệ vốn góp. 8. Philiphin Số lao động, doanh thu, tổng giá trị tài sản. 9. Singapore Số lao động, doanh thu, tổng giá trị tài sản. 10. Thái lan Số lao động, doanh thu, tổng giá trị tài sản. 11.Mỹ Số lao động. Nguồn: Ban thương mại và đầu tư, tiểu Ban kinh doanh vừa và nhỏ của các nước APEC, 1997. Ngoài ra còn có một số tiêu chí khác để phân loại tuỳ theo điều kiện của một số nước. 2. Nhận thức về doanh nghiệp vừa và nhỏ 2.1 Theo quan niệm của các nước Các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã và đang đóng vai trò quan trọng trong đời sống thực tiển của hầu hết các nước trên thế giới. Đồng thời người ta cũng dự báo rằng trong tương lai, vai trò của chúng không hề suy giảm, thậm chí còn tăng lên. Song thế nào là doanh nghiệp vừa và nhỏ thì lại là vấn đề đang có sự tranh luận chưa đi đến thống nhất với nhiều quan niệm khác nhau. Với các nước EU, để xác định thế nào là một doanh nghiệp vừa và nhỏ người ta đưa ra 3 tiêu thức để đánh giá, đó là : Số lượng lao động thường xuyên được sử dụng trong doanh nghiệp đó. Doanh số bán/ năm. Vốn đầu tư cho sản xuất của doanh nghiệp. Có thể nói phương pháp lượng về các tiêu chuẩn lao động, doanh số bán, vốn sản xuất mà một số nước EU và Mỹ đã áp dụng để xác định một doanh nghiệp loại vừa hay nhỏ như trên mặc dù có những ưu điểm song vẫn tồn tại những hạn chế. Nhưng cho đến nay các tiêu chuẩn đó vẫn được áp dụng để xác định về mặt quy mô của một doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là người ta xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu dựa vào tiêu chí định lượng và xác định về mặt quy mô là chính. Điều này phù hợp với nhiều nước như Nhật, Mỹ, EU … Tuy nhiên trong các nước EU cũng có những nước như nước Anh đã sử dụng phương pháp kết hợp giữa phương pháp định lượng và định tính để xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ. Theo phương pháp này, ngoài việc người ta căn cứ vào số lượng lao động thường xuyên mà doanh nghiệp sử dụng, doanh số bán/ năm, người ta còn căn cứ vào một số tiêu chí khác như số lượng tư liệu sản xuất, trình độ công nghệ,… Tuỳ theo tính chất của từng ngành. Chẳng hạn theo quy định của uỷ ban Boston (Anh) thì một doanh nghiệp được gọi là doanh nghiệp nhỏ phải đảm bảo một số tiêu chuẩn, trong đó: Với ngành công nghiệp, số lượng công nhân phải dưới 200 người. Riêng với công nghiệp xây dựng và khai khoáng, số lượng công nhân phải dưới 25 người. Trong thương nghiệp bán lẻ và dịch vụ, doanh số hàng năm dưới 50.000 bảng Anh, còn trong thương nghiệp buôn bán thì doanh số/ năm dưới 200 ngàn. Trong ngành giao thông vận tải, sở hữu không quá 5 phương tiện vận tải. Về khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước ASEAN tuy còn có sự khác nhau. Song nhìn chung các nước singapo, Malaixia, Thái lan, Philiphin đều dựa vào 2 tiêu chí cơ bản để phân định doanh nghiệp vừa hay nhỏ là những doanh nghiệp mà có số lượng lao động dưới 100 người và vốn tư bản dưới 1,2 triệu đô la Singapore. Cũng tương tự, với Malaixia con số đó là 2,5 triệu M$. Nói tóm lại không có một khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ một cách thống nhất mà tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia để có nhưng tiêu thức phân loại khác nhau. Để có thể hiểu rỏ hơn thế nào là một doanh nghiệp vừa và nhỏ ta tham khảo một số định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ của một số nước trên thế giới sau: Bảng 2: Định nghĩa Doanh nghiệp vừa và nhỏ của một số nước: Nước Phân loại Số lao động số vốn Doanh thu 1.Mỹ Tất cả các ngành 0-500 Không Không 2.Nhật Bản Chế tác Bán buôn Bán lẻ Dịch vụ 1-300 1-100 <50 <100 300 triệu yên 0-100 0-50 0-50 Không 3.EU DN cực nhỏ DN nhỏ DN Vừa <10 <50 <250 không - 7 triệu Ecu 27 triệu Ecu 4.Canada DN nhỏ DN vừa <100 100-500 không <5 triệu CND$ 5->20 5.New Zealand tất cả các ngành <50 6. Thái Lan Sản xuất +DN nhỏ +DN vừa Buôn Bán +DN nhỏ +DN vừa Bán lẻ +DN nhỏ +DN vừa Không <50 triệu Bath 50-200 <50 50-100 <30 30-60 Không 7.Malaixia Chế tác <150 Không < 25 triệu RM 8.Indonesia DN nhỏ DN vừa Không <20.000 USD 20.000- 1.000.000 <100.000USD 100.000- 5.000.000 9. Mêhicô DN cực nhỏ DN nhỏ DN vừa <15 16-100 101-250 Không Không 10.Philippin DN nhỏ DN vừa 10-99 100-199 1,5-15 triệu Pêxô 15-60 Không Nguồn: 1. Hồ sơ các DNVVN của APEC, 1998 2. Định nghĩa DNVVN của các nước đang chuyển đổi,UN ECE, 1999 3. Tổng quan các DNVVN của OECD, 2000. 2.2 Tiêu thức xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam Đối với Việt Nam, việc quan niêm thế nào là một doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng còn rất khác nhau. Có thể nói cho đến nay chưa có một văn bản có tính chất pháp quy nào xác đinh rõ tiêu chuẩn một doanh nghiệp được coi là doanh nghiệp vừa hay nhỏ có giá trị chung cả nước. Trước giai đoạn đổi mới, thường có xu hướng là coi tất cả các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nhất là các cơ sở thủ công nghiệp là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Còn các doanh nghiệp quốc doanh là doanh nghiệp lớn, đồng thời trong chính sách thường chỉ quan tâm đến các doanh nghiệp quốc doanh, thậm chí còn có “mặc cảm” với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đặc biệt là nhưng doanh nghiệp tư nhân. Trong công cuộc đổi mới, với chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế có điều kiện phát triển, vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng được thể hiện rõ. Nhà nước đã có những chủ trương khuyến khích và hỗ trợ chúng. Song một khó khăn đặt ra là tiêu chí của một doanh nghiệp nhỏ, vừa là như thế nào, cần hổ trợ ra sao?…Khi đó nảy sinh những quan điển khác nhau và cũng đưa ra nhiều tiêu chí khác nhau để xác định một doanh nghiệp vừa và nhỏ, ví dụ như: ã Ngân hàng công thương Việt Nam: Ngân hàng công thương Việt Nam coi doanh nghiệp vừa và nhỏ là các doanh nghiệp có dưới 500 lao động, vốn cố định dưới 10 tỷ đồng, vốn lưu động dưới 8 tỷ đồng và doanh thu hàng tháng < 20 triệu đồng. ã Liên Bộ Lao động và Tài chính: thông tư liên Bộ Lao động– Tài chính coi doanh nghiệp vừa và nhỏ là các doanh nghiệp có: Lao động thường xuyên < 100 người. Doanh thu hàng năm < 10 tỷ đồng. Vốn pháp định < 1 tỷ đồng. ã Dự án VIE/ US/ 95/ 004 hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam do UNIDO tài trợ thì Doanh nghiệp nhỏ là: Có lao động < 30 người. Có vốn đăng ký < 1 tỷ đồng. Doanh nghiệp vừa là: Có lao động từ 31- 200 người. Vốn đăng ký < 5 tỷ đồng. ã Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc chương trình Việt Nam- EU: thì doanh nghiệp vừa và nhỏ được quỹ này hỗ trợ gồm các doanh nghiệp có số nhân công từ 10-500 người và vốn điều lệ từ 50.000-300.000$ tức khoảng 600 triệu đến 3,6 tỷ đồng. ã Quỹ phát triển nông thôn (thuộc ngân hàng nhà nước): coi doanh nghiệp vừa và nhỏ là các doanh nghiệp có: Giá trị tài sản không quá 2 triệu USD. Lao động không quá 500 người. Các tổ chức có các tiêu chí áp dụng khác nhau về việc xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ có nguyên nhân khách quan là do nhà nước chưa ban hành chính thức một tiêu chí chung để áp dụng cho tất cả các ngành nhằm xác định đối tượng thuộc doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tạm thời tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam là tiêu chí được chính phủ ban hành ngày 20/6/1998 theo công văn số 681/CP _KTN thì : “Doanh nghiệp vừa và nhỏ phải có vốn điều lệ < 5 tỷ đồng và có số lao động < 200 người.” Qua thực tiễn, có thể thấy tiêu chí này có những vấn đề đáng suy nghĩ như sau: - Có thể chỉ dùng một tiêu chí là lao động hoặc số vốn, bởi vì hai tiêu chí đó không luôn luôn tương thích với nhau, nhất là trong điều kiện hiện nay, có những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao, số vốn hoặc doanh thu khá lớn nhưng số lao động lại rất ít, đó là những lao động có chuyên môn kỹ thuật cao. - Theo kinh nghiệm của nhiều nước, nên có tiêu chí riêng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau, như công nghiệp, thương mại, dịch vụ, ... và cần có sự điều chỉnh qua từng thời gian, tuỳ thuộc vào yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước, vì mục đích của tiêu chí là để thực hiện những chính sách khuyến khích của nhà nước trong từng thời gian đối với từng ngành nghề. - Tiêu chí này chỉ là quy ước hành chính để xây dựng chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ. Từ tình hình đó đã tạo ra không ít khó khăn trong việc hổ trợ, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ một cách có hiệu quả. Điều đó đòi hỏi cần phải sớm có một quan niệm chuẩn xác mang tính pháp lý cao đặc biệt cần có luật như một số nước về doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trước khi có một quy định mang tính pháp lý cao chúng ta có thể căn cứ vào đề nghị của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình chính phủ về việc xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ (tháng 12/1998) như sau: Bảng 3: tiêu chí xác định Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam: Ngành nghề Doanh nghiệp vừa Doanh nghiệp nhỏ Vốn sản xuất(tỷ đồng) Số lao động (người) Doanh thu/ năm (tỷ đồng) Vốn sản xuất(tỷ đồng) Số lao động (người) Doanh thu/ năm (tỷ đồng) Sản xuất CN <=5 <=300 <=7 <=3 <=50 <=1 Thương mại dịch vụ <=3 <=200 <=29 <=1 <=30 <=5 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 2.3 Những đặc trưng cơ bản a. Về tình hình sản xuất kinh doanh: Theo đánh giá của của phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam thì tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong một vài năm gần đây đều cho thấy sự giảm sút. Điều này cho thấy, nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ đang trong tình trạng khó khăn. Bên cạnh yếu tố trượt giá và tăng tỷ giá ngoại tệ, và việc phát triển chậm của nền kinh tế, các doanh nghiệp còn thiếu chủ động trong trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tìm kiếm thị trường tiêu thụ, cũng như nguồn lực đầu vào. b. Về vốn: Vốn luôn là vấn đề nhức nhối của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nước ta, có đến 55% số doanh nghiệp thiếu vốn. Bởi lẽ, do nguồn vốn của doanh nghiệp hạn chế, lại vay mượn từ các kênh tài chính phi chính thức, đặc biệt là từ bạn bè, người thân. (đồ thị 1 cho ta thấy điều đó ). Mặt khác, thị trường chứng khoán của nước ta đã loại các doanh nghiệp vừa và nhỏ ra khỏi cuộc chơi. Đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi tiếp cận với khu vực tài chính chính thức đều gặp khó khăn và hạn chế lớn như: không có sự bảo lãnh của các tổ chức đại diện, lãi suất cao, khối lượng ít, thời gian ngắn, thủ tục rườm rà… c. Về thị trường Xem xét những yếu tố ảnh hưởng lớn đến các hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ đều không có thị trường tiêu thụ ổn định, đặc biệt là thị trường xuất khẩu hạn chế. Điều này được lý giải là do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vục vừa qua, tuy nhiên rõ ràng nó đã thể hiện sự yếu kém và khả năng cạnh tranh không cao của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nước ta. d. Về công nghệ và thiết bị: Nhìn chung, trong những năm qua các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã đổi mới công nghệ ở mức độ nhất định, điều này hoàn toàn hợp lý. Công nghệ là yếu tố quyết định tới năng suất, chất lượng của sản phẩm, giúp các doanh nghiệp có thể cạnh tranh được trên thị trường. Tuy nhiên, nguồn vốn tài chính bị giới hạn không cho phép các doanh nghiệp có thể tự mình đổi mới cũng như áp dụng khoa học, công nghệ, kỹ thuật tiên tiến. Vì vậy tỷ lệ đổi mới thiết bị cũng rất thấp. Chỉ khoảng 10%/ năm tính theo vốn đầu tư. Điều này cho thấy trình độ về thiết bị công nghệ kỹ thuật của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn thấp và còn lạc hậu khá xa so với mức trung bình của thế giới. e. Về trình độ tổ chức quản lý và tay nghề của lực lượng lao động: Trình độ và tay nghề của người lao động và đội ngũ quản lý ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ củng là một trong những vấn đề bức xúc hiện nay. Theo ước tính thì đa số các chủ doanh nghiệp và lực lượng lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay có trình độ cấp II (40- 45%), số lao động có trình độ tay nghề giản đơn, chưa được qua đào tạo chiếm khoảng 60-70%, trong khi đó chỉ có một số lượng nhỏ các chủ doanh nghiệp có trình độ đại học. 3. Những ưu thế và hạn chế của doanh nghiệp vừa và nhỏ 3.1. Những ưu thế - Dễ dàng khởi nghiệp, lúc ban đầu không đòi hỏi nhiều về mọi mặt. Do vốn ít, cơ cấu bộ máy gọn nhẹ nên các doanh ng
Tài liệu liên quan