Đề tài Nâng cao hiệu quả của các Dự án đầu tư công từ nguồn vốn Ngân sách Nhà nước trong Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam

trước hết, phải khẳng định vai trò quan trọng hàng đầu của nông nghiệp nước ta trong nền KTQD. Việt Nam là nước có đại đa số dân cư sinh sống và lập nghiệp từ các hoạt động sản xuất nông nghiệp. Nhưng thực tế cho thấy, sản xuất nông nghiệp của nước ta còn lạc hậu và chưa phát huy được hiệu quả cao trong tăng trưởng và giảm nghèo. Yêu cầu của phát triển ngành trong giai đoạn tới đòi hỏi phải nâng cao hiệu quả của các chương trình, dự án đầu tư công theo đúng định hướng, mục tiêu đã đề ra.

docx55 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1352 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả của các Dự án đầu tư công từ nguồn vốn Ngân sách Nhà nước trong Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A- Mở đầu Lý do chọn đề tài: trước hết, phải khẳng định vai trò quan trọng hàng đầu của nông nghiệp nước ta trong nền KTQD. Việt Nam là nước có đại đa số dân cư sinh sống và lập nghiệp từ các hoạt động sản xuất nông nghiệp. Nhưng thực tế cho thấy, sản xuất nông nghiệp của nước ta còn lạc hậu và chưa phát huy được hiệu quả cao trong tăng trưởng và giảm nghèo. Yêu cầu của phát triển ngành trong giai đoạn tới đòi hỏi phải nâng cao hiệu quả của các chương trình, dự án đầu tư công theo đúng định hướng, mục tiêu đã đề ra. Mục tiêu nghiên cứu: Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, vấn đề đặt ra là làm sao hoạt động đầu tư công cộng trong ngành có hiệu quả, đạt được các mục tiêu kinh tế- xã hội và đáp ứng được các yêu cầu của công cuộc phát triển đất nước. Từ sự đối chiếu giữa những mục tiêu, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước với thực trạng đầu tư công trong ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn để có thể đưa ra những đề xuất góp phần cải thiện tình hình trên. Phương pháp nghiên cứu: Vận dụng một số phương pháp cơ bản sau: Khảo sát, thu thập tài liệu về cơ chế, chính sách, các Nghị định của Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan về hoạt động đầu tư công trong nông nghiệp. Thu thập các thông tin, tài liệu đã công bố cũng như các tài liệu mới. Sử dụng các dẫn chứng cụ thể, điển hình: một số dự án, địa phương. Phân tích, tổng hợp thông tin, viết báo cáo. Chương I- Cơ sở lý luận của đầu tư công trong Nông nghiệp và phát triển nông thôn I- Khái niệm và vai trò của Dự án đầu tư công trong Nông nghiệp và phát triển nông thôn 1. Các khái niệm cơ bản 1.1.Vốn đầu tư và hoạt động đầu tư 1.1.1. Hoạt động đầu tư Quá trình tái sản xuất nền kinh tế quốc dân đòi hỏi các cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế phải được tạo ra, duy trì và khôi phục một cách liên tục. Quá trình này được thực hiện thông qua hoạt động đầu tư. Từ đó, hoạt động đầu tư được hiểu là các hoạt động làm tăng thêm( bao hàm cả khôi phục) quy mô của tài sản quốc gia. Đó là hành động bỏ vốn nhằm đạt được các mục tiêu cụ thể nào như mục tiêu lợi nhuận( sinh lời), hoặc các mực tiêu phi lợi nhuận( xã hội, môi trường,...). Để tiến hành đầu tư cần có vốn đầu tư. 1.1.2. Vốn đầu tư Theo Giáo trình Dự báo phát triển Kinh tế- Xã hội: “ Vốn đầu tư là tiền tích lũy của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh; là tiền tiết kiệm của nhân dân và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sản xuất hiện có, tạo ra tiềm lực lớn hơn cho sản xuất, kinh doanh hoặc cải thiện điều kiện sinh hoạt của xã hội”. Vốn đầu tư được phân chia theo nhiều giác độ khác nhau như: theo công dụng cảu kết quả đầu tư, theo mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành, theo nguồn hình thành, theo yêu cầu của từng lĩnh vực cụ thể,... Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, xin được xét trên các góc độ sau: - Một là, theo công dụng của kết quả đầu tư, vốn đầu tư được chia thành: vốn đầu tư cho sản xuất và vốn đầu tư phi sản xuất. Vốn đầu tư Vốn đầu tư sản xuất Vốn đầu tư phi sản xuất VĐT TSLĐ VĐT TSCĐ VĐT cơ bản VĐT sửa chữa lớn Hình 1.1: Sơ đồ kết cấu vốn đầu tư - Hai là, xét theo nội dung một dự án đầu tư cụ thể, vốn đầu tư được chia thành bốn loại chính sau đây: + Chi phí chuẩn bị đầu tư. + Chi phí để tạo ra các tài sản cố định hoặc bảo dưỡng các tài sản cố định hiện có. + Chi phí để tạo ra hoặc tăng thêm tài sản lưu động. + Chi phí dự phòng cho các khoản chi phí phát sinh ngoài dự kiến. Như vậy, có nhiều cách phân loại vốn đầu tư, tùy theo mục đích nghiên cứu và sử dụng mà chúng ta lựa chọn tiêu thức cho phù hợp. 1.2. Dự án đầu tư 1.2.1. Khái niệm Ngay sau khi ra đời, thuật ngữ dự án đã được sử dụng một cách rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế- xã hội. Chúng ta thường được biết đến các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, hay các dự án đầu tư xây dựng cơ bản...ví dụ như: Dự án xây dựng đường quốc lộ, Dự án điện cao thế, Dự án sử dụng mạng lưới công nghệ thông tin trong quản lý hành chính Nhà nước,... Tuy có những nội dung và yêu cầu cụ thể khác nhau tùy theo từng lĩnh vực cụ thể nhưng bất kỳ dự án nào cũng đều được xác định rõ về thời gian bắt đầu và kết thúc dự án. Trên cơ sở đó, khái niệm dự án nói chung được trình bày một cách khá thống nhất. Các tác giả đều nhất trí cho rằng: - Về hình thức, DA là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và có hệ thống một dự kiến đầu tư trong tương lai. - Về nội dung, DA là một ý đồ tiến hành một công việc cụ thể nào đó nhằm đạt được mục tiêu xác định trong khuôn khổ nguồn lực và khoảng thời gian nhất định. Theo quan điểm của người viết, dự án đầu tư hay gọi tắt là dự án( DA) là một chuỗi các công việc và nhiệm vụ có mục tiêu cụ thể, có giới hạn nhất định về nguồn lực, tài chính và thời gian. 1.2.2. Đặc điểm Dự án có các đặc điểm cơ bản sau: - Một là, tính thống nhất: theo đó, dự án là một thực thể độc lập trong một môi trường xác định với các giới hạn nhất định về quyền hạn và trách nhiệm. - Hai là, tính xác định: dự án được xác định rõ ràng về mục tiêu, nguồn lực, thời hạn với một cơ cấu, chất lượng nhất định. - Ba là, tính logic: đây là đặc điểm quan trọng nhất, được thể hiện ở mối quan hệ biện chứng giữa các thành phần cấu thành dự án. Một dự án gồm có bốn bộ phận: + Mục tiêu của dự án gồm hai cấp mục tiêu: mục tiêu trực tiếp và mục tiêu phát triển. Mục tiêu trực tiếp là mục tiêu cụ thể mà dự án đặt ra và phải đạt được trong một giới hạn nhất định về nguồn lực và thời gian. Mục tiêu phát triển là mục tiêu dự án góp phần thực hiện. + Nguồn lực của dự án: là các đầu vào về vật chất, tài chính, nhân lực, công nghệ cần thiết để thực hiện dự án. + Hoạt động của dự án: là những công việc do dự án tiến hành nhằm chuyển hóa các yếu tố nguồn lực đầu vào thành sản phẩm đầu ra. + Kết quả của dự án gồm có: đầu ra, kết quả và tác động. Đầu ra là các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ cụ thể mà dự án đem lại cho xã hội sau quá trình thực hiện dự án. Kết quả là các tác động, ảnh hưởng đến cộng đồng từ quá trình tạo ra một đầu ra hoặc một nhóm các đầu ra của dự án. Thường thì các kết quả này được xem xét trong thời gian trung hạn. Tác động là những kết quả mang tính chất dài hạn nhờ việc đạt được các kết quả trung hạn ở trên. Đây cũng là việc đạt được các mục tiêu cuối cùng của một dự án. Ví dụ: thực hiện Chương trình 135 của Chính phủ, một xã có thể quyết định đầu tư xây dựng cơ bản thông qua Dự án kiên cố hóa kênh mương nhằm nâng cao năng suất nông nghiệp, tăng thu nhập cho người dân, góp phần xóa đói giảm nghèo trên địa bàn xã. Để triển khai dự án cần có các nguồn lực đầu vào, đó là: kinh phí( vốn), lao động, nguyên vật liệu xây dựng, công nghệ, kỹ thuật,...Hoạt động của dự án chính là toàn bộ quá trình thi công kiên cố kênh mương để đem lại đầu ra là hệ thống kênh mương hoàn chỉnh. Kết quả ban đầu của dự án đầu tư trên là năng suất cây trồng được nâng cao. Từ đó giúp tăng thu nhập cho người dân, góp phần giảm tỷ lệ đói nghèo trong xã- đó chính là những tác động của việc kiên cố hóa kênh mương. 1.3. Dự án đầu tư công 1.3.1. Khái niệm Dự án đầu tư công thường được đề xuất bởi Chính phủ và được hình thành trong các hoạch định vĩ mô. Các DA này thường do Nhà nước làm chủ và sử dụng các nguồn lực chủ yếu do Nhà nước kiểm soát. Về nội dung, DAC là một kế hoạch hành động chi tiết được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu và đề xuất các mục tiêu, nguồn lực và các phương án triển khai cụ thể. Trong thực tế, các DAC là sự triển khai của các Chương trình đầu tư công cộng trong từng giai đoạn. Cũng như các dự án thông thường, các DAC cũng bao gồm các phân tích về mọi khía cạnh như: tài chính, kinh tế, pháp lý, nhân lực cũng như các giải pháp về mặt công nghệ- kỹ thuật. Do tính chất đặc thù của đầu tư công nên đối với các DAC, hoạch định là khâu đầu tiên và cũng là khâu quan trọng nhất của quá trình quản lý đầu tư công. Về hình thức, DAC là tập hợp các tài liệu( hồ sơ DA, văn kiện DA) bao gồm: đề xuất đầu tư, báo cáo nghiên cứu, ý kiến các bên liên quan( ngành, địa phương,...). Tùy theo mức độ chi tiết mà người ta gọi là: DA sơ bộ, DA tiền khả thi, DA khả thi. Như vậy, DAC là tập hợp các hoạt động tương hỗ nhằm thực hiện một mục tiêu phát triển theo một phương án đã lựa chọn với thời gian và nguồn lực đã xác định. 1.3.2. Đặc điểm Bất kỳ DAC nào cũng đều mang những đặc trưng và yêu cầu cơ bản nhất của DA nói chung. Do đó, để phân biệt DAC với các DA thông thường khác cần phải dựa trên những đặc điểm của đầu tư. Theo đó, DAC có thường có các đặc điểm nhận dạng sau: - Một là, DAC thường có sự tham gia của Nhà nước. Đa số các DAC đều do Nhà nước làm chủ đầu tư, đồng thời Nhà nước cũng kiểm soát và quản lý quá trình đầu tư thông qua các Cơ quan chức năng của Nhà nước( Bộ, ngành,...). - Hai là, nguồn vốn của DAC chủ yếu từ NSNN, có nguồn gốc từ NSNN hoặc huy động qua NSNN và thường được xác định trong dự toán NSNN hàng năm cũng như trong từng thời kỳ tuỳ thuộc vào mục tiêu và quy mô đề ra của Chính phủ. - Ba là, sản phẩm của DA thường là các hàng hóa công cộng. Đặc trưng cơ bản nhất của loại hàng hoá này là tính không cạnh tranh và tính không loại trừ. Ở nước ta, phần lớn các DA đầu tư xây dựng cơ bản đều có những đặc điểm tương tự DAC. Tuy nhiên, ngay cả khi chủ đầu tư là các doanh nghiệp Nhà nước, nhưng nếu sản phẩm của DA là hàng hoá cá nhân thì DA đó cũng không được gọi là DAC. - Bốn là, quy mô của DAC thường lớn và thời hạn thường kéo dài, hầu như không có khả năng hoàn vốn. Đặc điểm này gắn liền với tính mục tiêu của các DAC. - Năm là, DAC thường có tác động tới nhiều đối tượng, và mang tính liên ngành, liên vùng. Tuy các DAC có đối tượng thụ hưởng rất rõ ràng nhưng kết quả của một DAC thường không chỉ dừng lại ở những đối tượng đó mà còn có khả năng lan toả đến các khu vực khác có liên quan. - Sáu là, DAC thường ưu tiên các lợi ích kinh tế- xã hội, phát triển bền vững, xóa đói giảm ng hèo và các mục tiêu xã hội khác. Điều này xuất phát từ một trong những chức năng quan trọng nhất của Nhà nước khi can thiệp vào nền kinh tế là nhằm đảm bảo phúc lợi và công bằng xã hội. Do vậy, các DAC thường được hướng đến việc thực hiện và đạt được các mục tiêu xã hội đó. Về mặt lý thuyết, những đặc điểm trên giúp chúng ta nhận dạng được các DAC. Trong thực tế, người ta thường chỉ căn cứ vào chủ đầu tư và nguồn vốn sử dụng để xác định xem đó có phải là DAC hay không. Trên cơ sở đó, một DA do Nhà nước làm chủ và kiểm soát, sử dụng vốn Nhà nước( vốn NSNN, huy động qua NSNN, vốn tín dụng phát triển của Nhà nước) thường được coi là DAC. Nhà nước xây dựng các Chương trình đầu tư công cộng để hệ thống và sắp xếp thực hiện các mục tiêu quốc gia trong từng giai đoạn phát triển kinh tế- xã hội, đồng thời quyết định xây dựng và lựa chọn triển khai các DAC một cách hợp lý nhất. 1.3.3. Phân loại dự án đầu tư công Phân loại DAC có thể dựa theo nhiều tiêu thức khác nhau. Để thuận tiện trong quá trình quản lý đầu tư và trong ngành Nông nghiệp và phát triển nông thôn, DAC chủ yếu được phân loại theo các tiêu thức sau: * Một là, theo đặc điểm, tính chất và quy mô của hoạt động đầu tư. Cách phân loại này dựa trên cách phân loại dự án đầu tư nói chung ở Việt Nam hiện nay. Theo cách này, DAC được chia thành 3 nhóm A, B, C cụ thể như sau: - Các DA nhóm A bao gồm: + Các DA, không kể mức vốn, thuộc phạm vi bảo vệ an ninh, quốc phòng có tính bảo mật quốc gia, có ý nghĩa chính trị- xã hội quan trọng, thành lập và xây dựng hạ tầng khu công nghiệp mới. + Các DA có mức vốn trên 600 tỷ đồng đầu tư vào giao thông: cầu, cảng biển, cản sông, sân bay, đường sắt, đường quốc lộ. + Các DA có mức vốn trên 400 tỷ đồng đầu tư vào thuỷ lợi, giao thông, cấp thoát nước và công trình hạ tầng kỹ thuật, bưu chính viễn thông, BOT trong nước, đường giao thông nội thị đã có quy hoạch chi tiết được duyệt. + Các DA có mức vốn trên 300 tỷ đồng đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu đô thị mới, vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên. + Các DA có mức vốn trên 200 tỷ đồng đầu tư vào y tế, văn hoá, giáo dục, phát thanh, truyền hình, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học. - Các DA nhóm B bao gồm: + Các DA có mức vốn từ 30 đến 600 tỷ đồng, đầu tư vào công nghiệp điện, dầu khí, giao thông: cầu, cảng biển, cảng sông, sân bay, đường sắt, đường quốc lộ. + Các DA có mức vốn từ 20 đến 400 tỷ đồng đầu tư vào thuỷ lợi, giao thông, cấp thoát nước và công trình hạ tầng kỹ thuật, bưu chính viễn thông, BOT trong nước, đường giao thông nội thị đã có quy hoạch chi tiết được duyệt. + Các DA có mức vốn từ 15 đến 300 tỷ đồng đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu đô thị mới, vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên. + Các DA có mức vốn từ 7 đến 200 tỷ đồng đầu tư vào y tế, văn hoá, giáo dục, phát thanh, truyền hình, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học. - Các DA nhóm C bao gồm: + Các DA có mức vốn dưới 30 tỷ đồng, đầu tư vào công nghiệp điện, dầu khí, giao thông. Các trường phổ thông nằm trong quy hoạch. + Các DA có mức vốn dưới 20 tỷ đồng đầu tư vào thuỷ lợi, giao thông, cấp thoát nước và công trình hạ tầng kỹ thuật, bưu chính viễn thông, BOT trong nước, đường giao thông nội thị đã có quy hoạch chi tiết được duyệt. + Các DA có mức vốn dưới 15 tỷ đồng đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu đô thị mới, vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên. + Các DA có mức vốn dưới 7 tỷ đồng đầu tư vào y tế, văn hoá, giáo dục, phát thanh, truyền hình, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học. * Hai là, theo tính chất và mức độ nghiên cứu lập DA. Đây là cách phân loại dựa vào khung dự án, từ đó DAC được chia thành: DA sơ bộ( báo cáo đầu tư); DA tiền khả thi( báo cáo nghiên cứu tiền khả thi); DA khả thi( báo cáo nghiên cứu khả thi). *Ba là, căn cứ theo nguồn vốn đầu tư, DAC bao gồm các loại: - DA sử dụng vốn NSNN - DA sử dụng vốn Tín dụng phát triển Nhà nước - DA sử dụng vốn đầu tư phát triển của DNNN - DA sử dụng vốn ODA Trong phạm vi của đề tài, người viết chỉ tập trung nghiên cứu đến các DAC sử dụng nguồn vốn NSNN. Đây là nguồn vốn chủ yếu nhất trong đầu tư công cộng ở nước ta. 1.2.4. Chu kỳ dự án đầu tư công Về khái niệm chu kỳ dự án, có một số định nghĩa như sau: Theo Giáo trình Chương trình và dự án Kinh tế- xã hội: “ Chu kỳ dự án là một quá trình hoạt động gồm nhiều giai đoạn kế tiếp nhau từ khâu đầu tiên đến khâu cuối cùng nhằm bảo đảm cho mục tiêu phát triển được thực hiện một cách tối ưu”. Giáo trình Lập dự án đầu tư phát triển Nông nghiệp nông thôn có viết: “ Quá trình lặp đi lặp lại bắt đầu từ việc chuẩn bị và soạn thảo dự án đầu tư đến khi kết thúc dự án được gọi là chu kỳ dự án hay chu trình dự án đầu tư”. Theo quan điểm của người viết, tựu trung lại, chu kỳ dự án là một chuỗi các hoạt động cụ thể nối tiếp nhau, từ khi hình thành ý tưởng đến khi kết thúc dự án và đưa ra một ý tưởng dự án mới. Cũng như các dự án thông thường khác, chu kỳ của DAC cũng gồm 6 giai đoạn cơ bản, được thể hiện ở sơ đồ chu kỳ dự án đầu tư, bao gồm: xác định dự án đầu tư, xây dựng dự án đầu tư, thẩm định dự án, phê duyệt và ra quyết định đầu tư, triển khai thực hiện dự án- khai thác công trình đầu tư, đánh giá hậu dự án. Tuy vậy, đối với một DAC, nội dung của từng giai đoạn cũng có những điểm khác biệt. Hình thành ý tưởng đầu tư Đánh giá hậu DA Xây dựng DA Thực hiện DA Thẩm định DA Phê duyệt và ra quyết định Hình 1.2: Chu kỳ Dự án đầu tư công - Giai đoạn xác định dự án: đây là giai đoạn hình thành nên ý tưởng của DAC. Khác với các dự án tư nhân- ý tưởng đầu tư được hình thành hoàn toàn do thị trường, ý tưởng của DAC thường được hình thành trong quá trình hoạch định, xây dựng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chuơng trình phát triển KT-XH của quốc gia. - Giai đoạn xây dựng dự án: đây là giai đoạn xác lập những điều kiện cơ bản để quyết định đầu tư. Công việc của giai đoạn này là đưa ra được một báo cáo đầu tư chi tiết và chuẩn xác về mọi mặt của một dự án để trình duyệt như: địa điểm, công nghệ- kỹ thuật, thiết bị, nhân lực, vật tư, thị trường, nguồn vốn, thời hạn, các tác động về xã hội, môi trường và hiệu quả của đầu tư. Do đặc điểm của đầu tư công cho nên khi lập dự án, cần phải tính đến và chỉ ra được các lợi ích về mặt kinh tế, xã hội của dự án phục vụ cho các mục tiêu quốc gia. - Giai đoạn thẩm định dự án: đây là giai đoạn mà một cơ quan chức năng của Nhà nước đánh giá xem DAC có đạt được các mục tiêu đã đề ra một cách hiệu quả hay không. Mục đích của quá trình thẩm định là để kiểm tra mức độ phù hợp của thiết kế dự án với các mục tiêu phát triển KT- XH trên tất cả các khía cạnh mà chủ đầu tư đã đề cập đến trong bản dự án, bao gồm: + Nghiên cứu khả thi: phân tích khía cạnh thể chế- tổ chức- quản lý dự án; thị trường dự án; công nghệ- kỹ thuật; phân tích tài chính, kinh tế dự án. + Nghiên cứu tác động: phân tích tác động môi trường và xã hội dự án. Từ đó đưa ra kết luận về tính hợp lệ, tính khả thi, tính hiệu quả của các phương án đề xuất, nhận xét về từng phương án nhằm giúp cơ quan phê duyệt có đủ căn cứ để phê duyệt hoặc không phê duyệt dự án. - Giai đoạn phê duyệt và ra quyết định: là giai đoạn cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào báo cáo thẩm định để phê duyệt dự án và ra quyết định đầu tư, bao gồm các nội dung: tổng mức đầu tư, nguồn vốn, khả năng tài chính, tiến độ giải ngân, các ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước, trách nhiệm và mối liên hệ của các Bộ, ngành liên quan, phương thức và nguyên tắc đấu thầu, thời gian xây dựng và các mốc triển khai chính của dự án,... - Giai đoạn thực hiện dự án: đây là giai đoạn chiếm thời gian dài nhất trong chu kỳ dự án. Các công việc chính của giai đoạn này gồm: tiến hành thực hiện đầu tư, vận hành và bắt đầu khai thác công trình dự án đem lại. Kết quả của dự án phụ thuộc rất lớn vào chất lượng của giai đoạn này. Nếu dự án được triển khai và thực hiện theo đúng thiết kế, đảm bảo được các yêu cầu về chất lượng và tiến độ thì đầu ra của dự án sẽ đáp ứng được các mục tiêu như dự kiến. - Giai đoạn đánh giá hậu dự án: là giai đoạn cuối cùng trong chu kỳ dự án, đánh giá mức độ đạt được của dự án so với mục tiêu đã đề ra, nhằm mục đích tổng kết lại quá trình đầu tư, rút ra những bài học kinh nghiệm góp phần nâng cao hiệu quả của các dự án tiếp theo. Trên cơ sở nắm vững các đặc điểm trong từng giai đoạn của chu kỳ dự án, các nhà quản lý có thể đưa ra được phương thức quản lý đồng bộ và hợp lý để thúc đẩy quá trình triển khai dự án nhằm tăng cường tính hiệu quả của các dự án đầu tư. 2. Vai trò của các Dự án đầu tư công trong phát triển Nông nghiệp nông thôn Như ta đã biết, Chương trình đầu tư công cộng là cốt lõi của đầu tư phát triển toàn xã hội, tạo khả năng thực hiện những mục tiêu KT- XH của đất nước trong kỳ kế hoạch. Các Chương trình đầu tư công cộng bao gồm nhiều dự án công được hoạch định trong kế hoạch phát triển của Nhà nước. Do đó, dự án công là phương tiện liên kết giữa kế hoạch và thị trường, nâng cao tính khả thi của kế hoạch, đồng thời bảo đảm khả năng điều tiết thị trường theo định hướng của kế hoạch. Chính vì vậy, các dự án công có vai trò rất lớn đối với sự phát triển KT- XH đất nước. - Thứ nhất, các DAC nằm trong các chương trình đầu tư công cộng góp phần thúc đẩy kinh tế nông nghiệp- nông thôn và tăng trưởng kinh tế. Đầu tư của Nhà nước trong Nông nghiệp- nông thôn chủ yếu thông qua các dự án công về thủy lợi, chủ động tưới tiêu, tăng cường công tác thủy nông, đa dạng hóa nông nghiệp, cải tạo đất trồng, phát triển các ngành nghề ở nông thôn. Từ đó, từng bước góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa nông nghiệp- nông thôn. Đến lượt mình, sự phát triển của nông nghiệp- nông thôn lại trở thành lực đẩy đối với tăng trưởng kinh tế đất nước. - Thứ hai, các DAC tác động trực tiếp đến mục tiêu xóa đói giảm nghèo thông qua kết quả xây dựng các công trình hạ tầng kinh tế- xã hội cho vùng nông thôn như các công trình thủy lợi, các khu sản xuất, bệnh xá, trường học, các dịch vụ y tế, vệ sinh, ...và người dân có thể tiếp cận với các điều kiện sản xuất và sinh hoạt tốt hơn. Mặt khác, DAC cũng tạo điều kiện cho việc hình thành các cơ sở sản xuất kinh doanh dựa trên các tiềm năng sẵn có của từng vùng, phát t
Tài liệu liên quan