Ô nhiễm Asen (As) trong nước ngầm xảy ở nhiều nơi trên thế giới, 
đặc biệt là ở khu vực Nam và Đông Nam Á. Theo các nghiên cứu ở 
khu vực này cho thấy, ô nhiễm As thường xảy ra trong tầng ngậm 
nước trẻ Holocene ở các đồng bằng châu thổ được bồi đắp phù sa bởi 
các con sông lớn bắt nguồn từ dãy núi Himalaya. Cơ chế giải thích cho 
sự xuất hiện của As được chấp nhận rộng rãi là cơ chế khử hòa tan 
khoáng sắt oxit giàu As. Trong khi đó, tầng chứa nước Pleistocene cổ 
hơn, nằm sâu hơn so với tầng Holocene ít bị ô nhiễm As hơn. Nguyên 
nhân là do tầng này chịu sự rửa trôi lâu hơn của các dòng nước ngầm 
qua các thời kì băng hà và băng tan hoặc do các trầm tích Pleistocene 
có tính oxi hóa nên có khả năng lưu giữ hấp phụ As chặt hơn.
Cùng với sự phát triển kinh tế và xã hội là nhu cầu sử dụng và khai 
thác nước ngầm ngày một tăng. Các hoạt động khai thác nước ngầm
của người dân chủ yếu diễn ra ở tầng nông Holocene với độ sâu <50m 
và phân bố rộng trên toàn đồng bằng Sông Hồng. Trong khi đó, hoạt 
động khai thác nước ngầm với công suất lớn của các nhà máy nước 
diễn ra chủ yếu ở phía khu vực phía Nam Hà Nội – nơi có Sông Hồng 
chảy qua. Theo báo cáo của liên đoàn địa chất Việt Nam: tổng công 
suất khai thác nước ngầm trên toàn thành phố là 1.100.000m
3
/ngày 
đêm, trong đó chỉ riêng khu vực phía Nam là 700.000m
3
/ngày đêm. 
Các nhà máy nước ở khu vực này tiến hành khai thác nước ngầm ở 
tầng Pleistocene ở độ sâu 50-100m và kết hợp với kĩ thuật lọc thấm 
bờ. Lọc thấm bờ là quá trình nước mặt thấm qua đáy sông, hồ, các lớp 
trầm tích và đi vào tầng ngậm nước gần kề một cách tự nhiên. Và nếu 
chúng ta xây dựng một hệ thống bơm gần các sông hồ, sẽ tạo ra quá 
trình thấm cưỡng bức do sự thăng giáng về thủy lực giữa nước ngầm 
và nước sông. Hệ lọc tự nhiên là tốt vì có thể hạn chế quá trình xử lý 
thứ cấp nhưng nếu các tầng ngậm nước phía trên chứa các chất ô 
nhiễm khó lọc bằng mặt cơ học thì sẽ xảy ra nguy cơ lan truyền ô 
nhiễm trong toàn bộ tầng chứa nước ngầm bên dưới.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 24 trang
24 trang | 
Chia sẻ: hongden | Lượt xem: 1839 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu sự rửa trôi Asen trong nước ngầm tại đồng bằng Sông Hồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1 
MỞ ĐẦU 
1. Tính cấp thiết của luận án 
Ô nhiễm Asen (As) trong nước ngầm xảy ở nhiều nơi trên thế giới, 
đặc biệt là ở khu vực Nam và Đông Nam Á. Theo các nghiên cứu ở 
khu vực này cho thấy, ô nhiễm As thường xảy ra trong tầng ngậm 
nước trẻ Holocene ở các đồng bằng châu thổ được bồi đắp phù sa bởi 
các con sông lớn bắt nguồn từ dãy núi Himalaya. Cơ chế giải thích cho 
sự xuất hiện của As được chấp nhận rộng rãi là cơ chế khử hòa tan 
khoáng sắt oxit giàu As. Trong khi đó, tầng chứa nước Pleistocene cổ 
hơn, nằm sâu hơn so với tầng Holocene ít bị ô nhiễm As hơn. Nguyên 
nhân là do tầng này chịu sự rửa trôi lâu hơn của các dòng nước ngầm 
qua các thời kì băng hà và băng tan hoặc do các trầm tích Pleistocene 
có tính oxi hóa nên có khả năng lưu giữ hấp phụ As chặt hơn. 
Cùng với sự phát triển kinh tế và xã hội là nhu cầu sử dụng và khai 
thác nước ngầm ngày một tăng. Các hoạt động khai thác nước ngầm 
của người dân chủ yếu diễn ra ở tầng nông Holocene với độ sâu <50m 
và phân bố rộng trên toàn đồng bằng Sông Hồng. Trong khi đó, hoạt 
động khai thác nước ngầm với công suất lớn của các nhà máy nước 
diễn ra chủ yếu ở phía khu vực phía Nam Hà Nội – nơi có Sông Hồng 
chảy qua. Theo báo cáo của liên đoàn địa chất Việt Nam: tổng công 
suất khai thác nước ngầm trên toàn thành phố là 1.100.000m3/ngày 
đêm, trong đó chỉ riêng khu vực phía Nam là 700.000m3/ngày đêm. 
Các nhà máy nước ở khu vực này tiến hành khai thác nước ngầm ở 
tầng Pleistocene ở độ sâu 50-100m và kết hợp với kĩ thuật lọc thấm 
bờ. Lọc thấm bờ là quá trình nước mặt thấm qua đáy sông, hồ, các lớp 
trầm tích và đi vào tầng ngậm nước gần kề một cách tự nhiên. Và nếu 
chúng ta xây dựng một hệ thống bơm gần các sông hồ, sẽ tạo ra quá 
trình thấm cưỡng bức do sự thăng giáng về thủy lực giữa nước ngầm 
và nước sông. Hệ lọc tự nhiên là tốt vì có thể hạn chế quá trình xử lý 
thứ cấp nhưng nếu các tầng ngậm nước phía trên chứa các chất ô 
nhiễm khó lọc bằng mặt cơ học thì sẽ xảy ra nguy cơ lan truyền ô 
nhiễm trong toàn bộ tầng chứa nước ngầm bên dưới. 
Ô nhiễm As trong nước ngầm ở đồng bằng Sông Hồng được phát 
hiện vào năm 1998. Kể từ đó đến nay có rất nhiều nghiên cứu được 
 2 
tiến hành. Hầu hết các kết quả nghiên cứu đều cho thấy hàm lượng As 
trong nước ngầm đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép của tổ chức y tế 
giới WHO 10µg/L và chủ yếu xảy ở tầng nước ngầm nông Holocene. 
Tuy nhiên, gần đây các nghiên cứu ở khu vực phía Nam Hà Nội có 
những phát hiện mới đi ngoài xu hướng trên đó là tại những khu vực 
này As xuất hiện với nồng độ cao trong cả tầng nông Holocene và tầng 
sâu Pleistocene. Các nghiên cứu cho rằng chính việc bơm khai thác 
nước đã khiến cho As lan truyền từ tầng Holocene xuống tầng 
Pleitocene. Tuy nhiên các nghiên cứu này chỉ dừng lại ở việc phát hiện 
chứ chưa có các bằng chứng địa hóa cụ thể để chứng minh. 
 Nhằm góp phần cung cấp các bằng chứng về mặt địa hóa cho sự 
rửa trôi As dưới tác động của việc bơm khai thác nước, tác giả đã lựa 
chọn đề tài: “Nghiên cứu sự rửa trôi Asen trong nước ngầm tại 
đồng bằng Sông Hồng”. 
Mục tiêu nghiên cứu: Tìm hiểu về con đường giải phóng As từ 
trầm tích vào nước ngầm trong tầng Holocene và nghiên cứu sự vận 
động của As từ tầng Holocene xuống tầng Pleistocene dưới tác động 
của bơm khai thác nước. Từ đó đánh giá ảnh hưởng của việc khai thác 
nước đến nguy cơ lan truyền As từ tầng Holocene xuống tầng 
Pleistocene tại khu vực Nam Dư – Hoàng Mai – Hà Nội. 
2. Nội dung luận án 
Để đạt được mục tiêu đề ra, luận án tập trung vào 2 nhóm nội 
dung chính sau: 
 Về phương pháp: 
(1) Tối ưu quy trình chiết phân đoạn As trên các pha khoáng trong trầm 
tích: lựa chọn tác nhân chiết, thời gian chiết và điều kiện tiến hành chiết. 
(2) Lựa chọn điều kiện tiến hành thí nghiệm hấp phụ, giải hấp phụ As 
trên trầm tích tự nhiên trong điều kiện yếm khí nghiêm ngặt: khảo sát 
điều kiện yếm khí, dung dịch nền, thời gian hấp phụ đạt cân bằng.. 
 Ứng dụng vào nghiên cứu các quá trình dịch chuyển As trong các 
tầng chứa nước Holocene và Pleistocene: 
(1) Nghiên cứu sự phân bố của As trên các pha khoáng trong trầm tích 
nhằm tìm ra nguồn giải phóng As từ trầm tích vào nước ngầm. 
 3 
(2) Định lượng quá trình hấp phụ, giải hấp phụ As(III), As(V) lên trầm tích. 
(3) Nghiên cứu các bằng chứng về sự rửa trôi As từ trầm tích ra nước 
ngầm trong tầng Holocene dựa vào mối tương quan giữa As trong 
trầm tích và nước ngầm; mối tương quan giữa As và các thành phần 
hóa học trong nước ngầm. 
(4) Nghiên cứu các bằng chứng về sự dịch chuyển As từ tầng Holocene 
xuống tầng Pleistocene dưới tác động của khai thác nước ngầm: so 
sánh thành phần hóa học trong nước sông, nước ngầm Holocene, nước 
ngầm Pleistocene ở khu vực khai thác. 
3. Những điểm mới về khoa học của luận án 
Luận án đã tối ưu được quy trình chiết phân đoạn As trong trầm tích. 
Lựa chọn được 5 tác nhân chiết: NaHCO3 0,5M, pH 8,5; HCOOH 0,5M, 
pH 3; Axit ascobic 0,1M, pH 3; hỗn hợp NH4 – oxalat 0,2M và axit 
ascobic 0,1M; HNO3 65% tương ứng với 5 pha liên kết chính của As trong 
trầm tích: pha hấp phụ; pha khoáng dễ hòa tan; pha khoáng sắt hoạt động; 
pha khoáng sắt tinh thể và pha khoáng sắt pyrit. Bốn pha chiết đầu tiên 
được thực hiện trong điều kiện yếm khí, thời gian chiết tối ưu là 6 giờ. Quy 
trình này có độ lặp tốt với độ lệch chuẩn tương đối nhỏ hơn 10%. 
Luận án đã lựa chọn được các điều kiện tiến hành thí nghiệm hấp 
phụ và giải hấp phụ của As trên trầm tích tự nhiên trong điều kiện yếm 
khí nghiêm ngặt: sử dụng dung dịch nền NaHCO310mM với thời gian 
hấp phụ đạt cân bằng là 3 ngày, điều kiện yếm khí trong glove box 
được tạo ra bằng hỗn hợp khí N2:H2 (97%:3%), qua xúc tác Pd và 
dung dịch Fe(II). 
 Luận án đã tìm được trong trầm tích tại khu vực Nam Dư (0,9m 
đến -40m), As tồn tại chủ yếu trên pha khoáng sắt tinh thể. Đây là pha 
khoáng chính chứa As, là nguồn chủ yếu giải phóng As từ trầm tích 
vào nước ngầm trong môi trường khử. Đồng thời khả năng hấp phụ 
của As(V) trong trầm tích tại khu vực Nam Dư cao hơn so với As(III) 
từ 7-10 lần. Quá trình hấp phụ và giải hấp phụ của As(III) là thuận 
nghịch, trong đó đối với As(V) thì kém thuận nghịch hơn. Kết qua này 
góp phần chứng tỏ As(III) linh động hơn so với As(V) và làm rõ hơn 
cơ chế dịch chuyển của As trong nước ngầm. 
 4 
 Tìm được các bằng chứng về sự rửa trôi của As từ trầm tích vào 
nước ngầm trong tầng chứa nước Holocene và đặc biệt là sự di chuyển 
của As từ tầng Holocene xuống tầng Pleistocene dưới tác động của 
khai thác nước ở khu vực Nam Dư – Hoàng Mai – Hà Nội. Nghiên 
cứu đã góp phần giải thích sự ô nhiễm As trong các tầng chứa nước ở 
khu vực phía Nam Hà Nội. 
4. Bố cục luận án 
Luận án gồm có 128 trang với 25 hình vẽ và đồ thị, 9 bảng số liệu, 
82 tài liệu tham khảo. Luận án được cấu tạo gồm: 5 trang mở đầu, 36 
trang tổng quan tài liệu, 23 trang nội dung và phương pháp nghiên cứu, 
50 trang kết quả nghiên cứu và thảo luận, 4 trang kết luận, 2 trang công 
trình có liên quan đến luận án đã công bố và 8 trang tài liệu tham khảo. 
NỘI DUNG LUẬN ÁN 
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 
Chương này tổng hợp lý thuyết về sự hình thành, phân bố của As 
trong trầm tích ở đồng bằng Sông Hồng, các đồng bằng châu thổ khu 
vực Đông Nam Á và phương pháp chiết phân đoạn kim loại nói chung 
và As nói riêng trong trầm tích. Sau đó, luận án tổng hợp về hiện trạng ô 
nhiễm và sự phân bố của As trong nước ngầm ở các tầng chứa nước 
Holocene và Pleistocene ở khu vực đồng bằng Sông Hồng cũng như các 
đồng bằng châu thổ khu vực Đông Nam Á và các cơ chế hiện có giải 
thích cho sự phân bố, dịch chuyển của As trong các tầng chứa nước. 
CHƢƠNG 2: NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Địa điểm, đối tƣợng nghiên cứu 
2.1.1. Địa điểm nghiên cứu 
Hai khu vực Nam Dư – Hoàng Mai – 
Hà Nội (có khai thác nước ngầm) và khu 
vực Vạn Phúc (không khai thác nước) được 
lựa chọn. Cả hai khu vực này đều nằm bên 
bờ sông Hồng và cách nhau khoảng 10km. 
Hình 2.2. Bản đồ khu vực 
Nam Dư và Vạn Phúc 
 5 
2.1.2. Đối tượng nghiên cứu 
 Mẫu tối ưu phương pháp chiết phân đoạn: các mẫu trầm tích được lấy 
tại khu vực nước ngầm ô nhiễm As (xã Vân Cốc, Đan Phượng, Hà Nội). 
 Mẫu để nghiên cứu sự phân bố của As và Fe trong trầm tích tầng 
Holocene tại khu vực Nam Dư: 10 mẫu trầm tích (0,9m đến -36,7m). 
 Mẫu nghiên cứu sự hấp phụ, giải hấp phụ của As được tiến hành với 
các mẫu trầm tích có độ sâu -5,6 đến -6,3m, tại khu vực Nam Dư. 
 17 mẫu nước tại Nam Dư và 13 mẫu nước tại Vạn Phúc được phân 
tích các chỉ tiêu: As(T), As(III) và các thành phần hóa học khác. Ở từng 
khu vực đều bao gồm các mẫu: nước sông, nước Holocene và Pleistocene. 
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu 
2.2.1. Phương pháp lấy mẫu trầm tích, nước ngầm 
Sử dụng phương pháp piston để lấy các mẫu trầm tích nguyên dạng. 
Mẫu trầm tích sau khi lấy được bảo quản trong tủ lạnh sâu -200C. 
Sử dụng máy bơm để hút nước từ các giếng, mẫu nước ngầm 
được dẫn qua bộ dẫn dòng chảy (flow cell) mà trên đó được lắp các 
điện cực đo các thông số pH, Ec, DO. Các dụng cụ lấy mẫu được sục 
khí N2 để loại bỏ sự ảnh hưởng của oxi trong không khí xâm nhập làm 
biến đổi thành phần hóa học của nước ngầm. Mẫu nước được lấy vào 
các lọ đựng mẫu phù hợp vào bảo quản. 
2.2.2. Phương pháp chiết phân đoạn As trong trầm tích 
Sử dụng các tác nhân có lực chiết tăng dần trong đó tác nhân sau 
có lực chiết bao trùm tác nhân trước nhằm bóc tách các pha liên kết 
của As trên 5 pha khoáng chính sau: pha hấp phụ, pha khoáng dễ hòa 
tan, pha khoáng Fe hoạt động và pha khoáng sắt tinh thể và pha 
khoáng sắt pyrit. 
Các bước chiết được tiến hành song song, trong đó hàm lượng As 
trên từng pha được tính bằng lấy kết quả của pha sau trừ đi pha trước. 
Phương pháp chiết phân đoạn được tối ưu các thông số: tác nhân 
chiết, thời gian chiết tối ưu và điều kiện chiết. 
2.2.3. Phương pháp nghiên cứu sự hấp phụ và giải hấp phụ của As 
trên trầm tích 
Các thí nghiệm hấp phụ và giải hấp phụ của As trên trầm tích được 
thực hiện theo các bước sau: 
Bước 1(tạo mẫu trầm tích không chứa As): Rửa trầm tích để có mẫu 
trầm tích sạch không chứa As. 
 6 
Bước 2 (hấp phụ): Thêm một lượng As(III)/ As(V) chuẩn với thể tích 
chính xác, lắc lộn ngược, sau một thời gian nhất định, li tâm, dùng xylanh 
hút 5ml dịch trong và phân tích hàm lượng As(III), As(T). 
As (hấp phụ trên trầm tích) = tổng lượng As (thêm vào) – lượng As (pha lỏng). 
Tiếp tục thêm một lượng As chuẩn như trên và làm tương tự cho đến 
khi kết thúc thí nghiệm hấp phụ. 
Bước 3(giải hấp phụ): Kết thúc thí nghiệm hấp phụ ở bước 2, li tâm 
loại bỏ dịch chiết để thu được mẫu trầm tích hấp phụ As. Thêm dung 
dịch nền không chứa As vào, lắc lộn ngược trong khoảng thời gian 
nhất định, li tâm, hút bỏ toàn bộ dịch chiết để phân tích hàm lượng 
As. Bước này được lặp đi nhiều lần. 
Các điều kiện tiến hành thí nghiệm này như: dung dịch nền, điều kiện tạo 
yếm khí nghiêm ngặt, và thời gian hấp phụ đạt cân bằng được khảo sát. 
2.2.4. Phương pháp phân tích thành phần hóa học của nước ngầm 
và dịch chiết 
Mẫu nước ngầm: Hàm lượng As (III), As tổng, Fe2+, Fe tổng, PO4
3-
, 
CH4, NH4
+
, DOC, NO3
-
, Mn
2+
,
 Na
+
, Ca
2+
, HCO3
-
, Cl
- trong các mẫu 
được xác định bằng các phương pháp phân tích hiện đại: AAS, UV-
Vis, IC, GC. 
Dịch chiết trầm tích: hàm lượng As (III), As tổng, Fe2+, Fe tổng xác 
định bằng sử dụng các phương pháp: AAS, UV-Vis, 
2.2.5. Phương pháp xử lí số liệu 
Luận án sử dụng phần mềm PHREEQC để tính toán các kết quả về 
cân bằng ion, sự hình thành các kết tủa và phần mềm AquaChem để 
biểu diễn các số liệu nước ngầm dưới dạng biểu đồ như piper, stiff. 
2.3. Thiết bị, dụng cụ và hóa chất 
- Máy hấp thụ nguyên tử AA-6800; máy sắc ký ion HIC-20A super, 
Shimadzu; máy quang phổ hấp thụ phân tử UV/Vis-3101 PC, 
Shimadzu; máy sắc ký khí GC-2014, cột nhồi porapak – T, Shimadzu; 
Máy quang phổ hấp thụ phân tử UV/Vis, HACH; Máy đo các chỉ tiêu 
hiện trường và các điện cực đo pH, ôxi hòa tan, độ dẫn. 
- Các dụng cụ chuyên biệt: glovebox (buồng kín, bên trong chứa khí 
trơ, nhằm tạo điều kiện yếm khí); Bộ dẫn dòng chảy kín (Flow cell, 
dùng để lấy mẫu nước ngầm); Catrige tách As(III)/As(V). 
- Các dung dịch chuẩn gốc As(III) 1000 mg/L, Fe (III) 1000 mg/L; 
Dung dịch chuẩn kiểm chứng đa nguyên tố dùng cho ICP ..., Merck. 
- Khí metan chuẩn (metan 1% trong nitơ), MIKROLAB GAS. 
- Các hóa chất sử dụng đều là hóa chất tinh khiết, Merck hoặc Fluca. 
 7 
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Nghiên cứu tối ƣu quy trình chiết phân đoạn As trên các pha 
khoáng trong trầm tích và các điều kiện nghiên cứu sự hấp phụ và 
giải hấp phụ As trên trầm tích tự nhiên 
3.1.1. Nghiên cứu tối ưu quy trình chiết phân đoạn As trên các pha 
khoáng trong trầm tích 
3.1.1.1.Nghiên cứu lựa chọn tác nhân chiết 
Kết quả hình 3.1 cho thấy đường động học biểu thị hàm lượng 
As(III) chiết ra khi sử dụng các tác nhân chiết khác nhau tương ứng 
với bốn pha chiết đầu. 
Hình 3.1. Kết quả khảo sát tác nhân chiết cho pha chiết I, II, III, IV 
Đối với pha chiết I - pha As hấp phụ trên bề mặt trầm tích, hai tác 
nhân NaHCO3 và NH4H2PO4 đều có năng lực chiết tối đa tương đương 
nhau. Tuy nhiên, hàm lượng As chiết được theo thời gian khi sử dụng 
 8 
NaHCO3 ổn định hơn so với NH4H2PO4. Nguyên nhân có thể là do 
trong quá trình chiết NH4H2PO4 đã xảy ra tương tác với trầm tích, tạo 
kết tủa làm ảnh hưởng đến lượng As chiết ra. Do năng lực chiết ổn 
định, nên NaHCO3 được lựa chọn làm tác nhân chiết cho pha As ở 
dạng hấp phụ. 
Kết quả ở pha II - pha As phân bố trên các khoáng dễ hòa tan như 
siderite (FeCO3), vivianite (Fe3(PO4)2.8H2O), calcite (CaCO3) cho thấy 
hai tác nhân chiết HCOOH và HCl có năng lực chiết là tương đương 
nhau. Tuy nhiên, với dịch chiết HCl 0,001M, pH tăng lên trong quá 
trình chiết vì bản thân HCl vốn là một axit dễ bay hơi và không có khả 
năng đệm như HCOOH. Điều này dẫn đến việc khi sử dụng HCl như 
một tác nhân chiết cần phải điều chỉnh pH liên tục, do vậy thao tác thí 
nghiệm trở nên phức tạp hơn. Trong khi đó, dịch chiết HCOOH 0,5M 
(pH = 2), được điều chỉnh đến pH = 3 bằng dung dịch NaOH tạo ra 
một hệ đệm ổn định. Vì vậy HCOOH 0,5M được lựa chọn là tác nhân 
chiết cho pha II. 
Axit ascobic 0,1M được lựa chọn cho pha III- As trên các pha 
khoáng sắt (III) hoạt động như ferihydrite Fe(OH)3, lepidocrocite γ – 
FeOOH. Đây là các khoáng ở dạng vô định hình do đó dễ dàng bị khử 
về Fe(II). Theo tác giả Dieke Postma, 2010 cho thấy axit ascorbic chỉ có 
thể khử được khoáng sắt (III) hoạt động mà không khử được các khoáng 
sắt ở dạng tinh thể bền vững như hematite hoặc goethite. Kết quả cho 
thấy hàm lượng As chiết ra với tác nhân này khá ổn định theo thời gian 
do vậy tác nhân Axit ascobic 0,1M được lựa chọn cho pha chiết III. 
Với pha IV – pha As phân bố trong khoáng sắt tinh thể (hematite, 
goethtite), hỗn hợp NH4 – oxalate + axit ascorbic đã được nhiều tác giả 
sử dụng nhằm chiết các dang As liên kết chặt với khoáng sắt(III) tinh 
thể. Hiệu quả của hỗn hợp chiết này được giải thích là do sự kết hợp 
giữa tính khử của axit ascorbic và khả năng tạo phức của oxalate. Do đó 
hỗn hợp oxalate và axit ascorbic rất hiệu quả đối với pha khoáng sắt 
(III) tinh thể. Kết quả khảo sát trong hình 3.2 cho thấy khả năng chiết 
của hỗn hợp NH4 – oxalate + axit ascorbic đạt giá trị cực đại ngay trong 
giờ đầu và sau đó ổn định theo thời gian. Với ưu điểm có khả năng chiết 
 9 
hiệu quả và ổn định, hỗn hợp NH4 – oxalate + axit ascorbic được lựa 
chọn là tác nhân chiết As phân bố trên các pha khoáng sắt tinh thể. 
Đối với pha V – As liên kết 
trên pha khoáng bền vững, tác 
nhân HNO3 chiết được các kim 
loại trên khoáng pyrit, sunfua, 
trong khi đó nếu sử dụng kết hợp 
HNO3 với chất oxi hóa như H2O2 
thì chiết thêm được kim loại trên 
khoáng silicat. Kết quả khảo sát 
cho thấy, hàm lượng As chiết ra 
không có sự khác biệt giữa hai 
tác nhân HNO3 và HNO3+H2O2 
(sự sai khác nhỏ hơn 10%) (hình 
3.2). Điều này có nghĩa là As ở 
pha khoáng bền vững trong trầm tích ở khu vực nghiên cứu chủ yếu là 
trên khoáng pyrit, sunfua. Do vậy, sử dụng tác nhân chiết HNO3 hay 
hỗn hợp HNO3+H2O2 đều thu được kết quả tương đương. Trong khi 
đó, thao tác thí nghiệm với HNO3 đơn giản hơn so với hỗn hợp 
HNO3+H2O2. Do vậy HNO3 được lựa chọn là tác nhân chiết cho pha 
khoáng bền vững. 
Kết quả trên hình 3.1 cho thấy hàm lượng As chiết ra đều tăng dần 
theo thời gian và ổn định sau 6 giờ. Do đó, 6 giờ là thời gian chiết tối ưu 
được lựa chọn cho bốn bước chiết đầu. 
3.1.2. Lựa chọn điều kiện chiết 
Kết quả trong bảng 3.1 cho thấy hàm lượng As chiết ra và pH ở 
hai hệ : hệ hở và hệ kín. Kết quả cho thấy, hàm lượng As chiết ra ở hệ 
hở trong tất cả các bước chiết đều lớn hơn so với hệ kín (sự sai khác 
nhỏ hơn 15%). Nguyên nhân lý giải cho điều này là do hệ hở được giữ 
pH ổn định trong suốt thời gian thí nghiệm. Trong khi đó hệ kín lại 
không có sự điều chỉnh pH khiến pH tăng lên trong quá trình chiết, 
kéo theo sự kết tủa của sắt hidroxit và sự hấp phụ As lên pha kết tủa. 
Hình 3.2. Kết quả khảo sát tác 
nhân chiết cho pha V 
 10 
Bằng chứng rõ ràng là giá trị pH đo được khi lấy mẫu ở hệ kín cao hơn 
so với hệ hở (bảng 3.1). 
Tuy nhiên ưu điểm của hệ chiết kín là thao tác thí nghiệm đơn 
giản và cho phép tiến hành chiết nhiều mẫu trong cùng một khoảng 
thời gian, không cần sục khí N2 và điều chỉnh pH trong suốt quá trình 
làm thí nghiệm. Do vậy hệ kín phù hợp khi áp dụng với cỡ mẫu lớn và 
được chúng tôi lựa chọn. 
Bảng 3.1. Hàm lƣợng As chiết ra và giá trị pH trong hệ hở và hệ kín 
3.1.3. Đánh giá độ lặp 
Bảng 3.2 thể hiện độ lặp của từng tác nhân chiết khi chúng tôi khi 
tiến hành lặp thí nghiệm ba lần. 
Bảng 3.2. Kết quả đánh giá độ lặp của 5 tác nhân chiết 
Kết quả cho thấy ở tất cả các bước chiết, độ lệch chuẩn tương đối 
đều nhỏ hơn 10%. Điều này chứng tỏ quy trình chiết có tính ổn định 
tốt và có thể ứng dụng vào chiết mẫu trầm tích. 
 11 
 Như vậy, lựa chọn được 5 tác nhân chiết: NaHCO3; HCOOH; Axit 
ascorbic; hỗn hợp NH4 – oxalate + axit ascorbic; HNO3 tương ứng với 5 
pha phân bố của As: pha hấp phụ trên bề mặt trầm tích; pha khoáng dễ 
hòa tan; pha khoáng sắt (III) hoạt động; pha khoáng sắt tinh thể; pha 
khoáng sắt pyrit. Với 4 bước chiết đầu, thời gian chiết tối ưu là 6 giờ và 
thực hiện với hệ kín. Quy trình này có độ lặp tốt với độ lệch chuẩn tương 
đối nhỏ hơn 10% (hình 3.4 và hình 3.5). 
Hình 3.4. Quy trình chiết áp dụng cho pha chiết I, II, III, IV 
Hình 3.5. Quy trình chiết cho pha chiết V 
 12 
3.1.2. Kết quả khảo sát điều kiện thực hiện thí nghiệm hấp phụ và 
giải hấp phụ của As trong điều kiện yếm khí 
Luận án đã tiến hành khảo sát các yếu tố để tiến hành thí nghiệm hấp 
phụ và giải hấp phụ As như: điều kiện yếm khí nghiêm ngặt, dung dịch 
nền và thời gian hấp phụ đạt cân bằng. Và sau đây các kết quả thu được. 
3.1.2.1.Khảo sát điều kiện yếm khí trong glove box 
Để tạo ra điều kiện yếm 
khí, toàn bộ thí nghiệm được 
thực hiện trong glove box. 
Điều kiện hiếm khí trong 
glove box được tạo ra bởi hai 
hệ: Hệ 1: N2: H2 =97:3, xúc 
tác Pd; Hệ 2: N2: H2 =97:3, 
xúc tác Pd, Fe(II). Kết quả 
trong hình 3.6 cho thấy, sự 
hấp phụ của As(III) trong hệ 1 
cao hơn so với hệ 2, đồng 
thời quá trình giải hấp phụ 
của As(III) ở hệ 1 là kém 
thuận nghịch so với hệ 2. 
Điều này chứng tỏ, điều kiện yếm khí tạo ra ở hệ 1 chưa nghiêm 
ngặt, vẫn còn tồn tại một lượng nhỏ oxi, dẫn đến sự hấp phụ của 
As(III) trong hệ 1 cao hơn so với ở hệ 2 và sự giải hấp phụ của As(III) 
ở hệ 1 là kém thuận nghịch hơn so với hệ 2 như chúng ta quan sát 
được. Do vậy luận án lựa chọn hệ 2 để điều kiện tạo yếm khí trong 
glove box. 
3.1.2.2. Khảo sát dung dịch nền 
Hình 3.7 thể hiện kết quả sự hấp phụ của As(III) và As(V) trong 
nền NaHCO310mM, pH 7 và nền PIPES 10mM, pH 7. Kết quả cho 
thấy sự hấp phụ và giải hấp phụ của