Hiện nay,nuôi cấy mô sẹo phôi hoá (ký hiệu EC -embryogenic callus) là một kỹ thuật cơ bản trong tạo giống citrus. Callus phôi hoá đã được sử dụng trong nhiều nghiên cứu khác nhau như tạo giống sạch bệnh, nghiên cứu phát sinh hình thái phôi vô tính, nhân sinh khốitế bào dịch lỏng, nuôi cấy và dung hợp tế bào trần để tạo giống lai tứ bội thể (Grosser et al, 2000), nghiên cứu chuyển gen và bảo quản nguồn gen (Kunitake and Mu, 1995).
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 22 trang
22 trang | 
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1875 | Lượt tải: 5 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu tạo mô sẹo phôi hoá và phôi vô tính từ nuôi cấy noãn ở một số giống cây ăn quả có múi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIÊN CỨU TẠO MÔ SẸO PHÔI HOÁ VÀ PHÔI 
VÔ TÍNH TỪ NUÔI CẤY NOÃN Ở MỘT SỐ GIỐNG 
CÂY ĂN QUẢ CÓ MÚI 
Hà Thị Thuý1, Trần Thị Hạnh1,Nguyễn Hồng Chiên1, 
Đỗ Năng Vịnh1, Vũ Văn Vụ2 
1 Viện di truyền nông nghiệp, 2 Đại học Quốc gia Hà Nội 
I. Đặt vấn đề: 
Hiện nay, nuôi cấy mô sẹo phôi hoá (ký hiệu EC - 
embryogenic callus) là một kỹ thuật cơ bản trong tạo giống 
citrus. Callus phôi hoá đã được sử dụng trong nhiều nghiên 
cứu khác nhau như tạo giống sạch bệnh, nghiên cứu phát 
sinh hình thái phôi vô tính, nhân sinh khối tế bào dịch lỏng, 
nuôi cấy và dung hợp tế bào trần để tạo giống lai tứ bội thể 
(Grosser et al, 2000), nghiên cứu chuyển gen và bảo quản 
nguồn gen (Kunitake and Mu, 1995).Tái sinh cây từ mô sẹo 
phôi hoá ở các giống cam, Grosser và cộng sự đã tạo ra 
nhiều dạng đột biến ổn định, như chín sớm hoặc muộn hơn, 
không hạt, chất lượng được nâng cao (Grosser et al., 2000). 
Để tạo callus phôi hoá có nguồn gốc từ phôi tâm 
(Nucellar) in vitro ở citrus người ta có thể nuôi cấy noãn 
đã thụ tinh hoặc chưa thụ tinh. Callus phôi hoá còn được 
tạo ra khi nuôi cấy các hạt lép của quả chín từ 8 đến 15 
tháng tuổi kể từ khi hoa tung phấn (Starrantino and Russo, 
1980). Ngoài ra callus phôi hoá đã được tạo ra từ nuôi cấy 
mô hoặc cơ quan khác như từ bao phấn (Hidaka and 
Omura, 1989), từ chân nhuỵ cái (Style) ở chanh tây 
(Limon). Carimi và cộng sự đã nghiên cứu nuôi cấy đầu 
nhuỵ cái (Stigma) và chân nhị cái (Style) của nhiều giống 
citrus khác nhau để tạo callus phôi hoá và tái sinh cây 
(Carimi et al., 1995; De Pasquale et al. 1994). Kết quả cho 
thấy các loài C.limon, C.medica và Cam ngọt cho kết quả 
tạo callus và tái sinh phôi tốt nhất. 
Mục tiêu nghiên cứu của chúng tôi là xây dựng quy trình 
tạo nguồn mô sẹo phôi hoá, từ đó tạo phôi vô tính và tái 
sinh cây phục vụ cho nghiên cứu chọn tạo giống không hạt 
và vật liệu cho nghiên cứu chuyển gen trong tương lai. 
 II. Nguyên liệu và phương pháp: 
a/ Nguyên liệu: 
Các giống cây ăn quả có múi địa phương và nhập nội khác 
nhau như: Bưởi Phúc Trạch (Citrus grandis), Cam Vân Du, 
Olinda Valencia, Navel, Cam Sành (C. nobilis), Quýt 
Chum, Quýt Đường canh (C. reticulata) và quýt lai 
Murcott đã được sử dụng trong nghiên cứu. 
Mẫu nuôi cấy: noãn trước và sau thụ phấn ở các độ tuổi 
khác nhau (từ 1 đến 8 tuần tuổi). Cách làm như sau: Bầu 
nhuỵ lấy nuôi cấy một ngày trước khi hoa nở. Sau khi hoa 
được thụ phấn, nhuỵ cái rụng, bầu nhuỵ phát triển thành 
quả non. Quả non của các giống trên được thu hái ở 1, 2, 3, 
đến 8 tuần tuổi kể từ sau khi hoa tung phấn. Từ bầu nhuỵ 
cái và quả non đã được khử trùng, tách lấy noãn (noãn sau 
thụ phấn phát triển thành hạt non) để nuôi cấy trên các môi 
trường khác nhau. 
Noãn được nuôi cấy trên đĩa Petri, mỗi đĩa chứa 16 noãn. 
Mỗi lô thí nghiệm với 60 quả hoặc bầu nhuỵ. Riêng với quả 
non có độ tuổi 6, 7, 8 tuần, chúng tôi tiến hành tách bỏ vỏ 
lụa ở bên ngoài của hạt non, sau đó tách loại bỏ phôi non 
rồi mới cấy vào đĩa môi trường. Tất cả các thao tác trên 
được thực hiện dưới kính hiển vi soi nổi. 
b/ Môi trường và điều kiện nuôi cấy nuôi cấy: 
Theo kết quả nghiên cứu nuôi cấy bầu nhuỵ và noãn ở quả 
non của một số giống citrus thì môi trường MT (Murashige 
& Tucker) là môi trường thích hợp nhất cho tạo callus phôi 
hoá (Đỗ Năng Vịnh, 2002). Vì vậy chúng tôi tiến hành thí 
nghiệm nuôi cấy noãn và hạt non trên nền môi trường này. 
+Môi trường tạo callus phôi hoá: 
- MT + các nồng độ khác nhau của Kinetine: 0,25; 0,5; 
0,75; 1,0; 1,25; 1,5; 1,75; 2,0 ( mg/l) + 500mg/l Malt 
extract + 50g/l đường + 5,0g/l thạch. 
- MT + các nồng độ khác nhau của BAP: 0,25; 0,5; 0,75; 
1,0; 1,25; 1,5; 1,75; 2,0 (mg/l) + 500mg/l Malt extract + 
50g/l đường + 5,0g/l thạch. 
+ Môi trường lỏng lắc nhân sinh khối callus phôi hoá: MT 
+ BAP (0,5; 1,0; 1,5; 2,0 mg/l) + 30g/l đường + 500mg/l 
Malt extract + 1,0g/l glutamin 
+ Môi trường tạo phôi: 
• G1: MT + 1,0mg/l GA3 + 30g/l đường + 5,0g/l thạch 
• G2: MT + 1,5mg/l GA3 + 30g/l đường + 5,0g/l thạch 
• BG: MT + 1,0mg/l GA3 + 0,2mg/l BAP + 5,0g/l thạch 
+ Môi trường nẩy mầm phôi vô tính: MS hoặc MT + 30g/l 
đường, không có chất điều hoà sinh trưởng. 
Môi trường được chỉnh đến pH= 5,8. Noãn được nuôi trên 
đĩa petri (15mm dày x 60mm đường kính) chứa 12 ml môi 
trường thạch, để trong tối. 
Nhân mô sẹo phôi hoá: mô sẹo được nhân trên môi trường 
đặc (thời gian 1tháng), sau đó chuyển sang môi trường lỏng 
( 2 tuần ) rồi lại nhân tiếp trên môi trường đặc. Nhân mô 
sẹo trong tối ở nhiệt độ (25 - 27oC). Quá trình phôi hoá của 
mô sẹo và nảy mầm của phôi xảy ra trong điều kiện có 
chiếu sáng 2400 Lx và thời gian chiếu sáng là 8 h/ngày. 
III. Kết quả và thảo luận 
1.Tạo vật liệu nuôi cấy vô trùng 
Để tạo vật liệu nuôi cấy vô trùng, chúng tôi tiến hành khử 
trùng quả non với hai loại hoá chất Ca(ClO)2 ở nồng độ 6% 
và HgCl2 ở nồng độ 0,01%. Kết quả cho thấy với các chất 
khử trùng khác nhau và trong khoảng thời gian khác nhau 
thì tỉ lệ tạo mẫu sạch là khác nhau. 
Khử trùng bằng Ca(ClO)2 ở nồng độ 6% trong thời gian 10 
và 15 phút cho tỉ lệ mẫu sạch tương ứng là 62,4% và 
87,8%. Khử trùng bằng HgCl2 nồng độ 0,01% trong thời 
gian 5 và 10 phút, tỉ lệ tạo mẫu sạch tương ứng là 65,5% và 
93%. Như vậy, khử trùng bằng HgCl2 cho tỉ lệ mẫu sạch rất 
cao nhưng sau đó mẫu nhanh chóng bị thâm đen. Hiện 
tượng này không thấy xuất hiện khi khử trùng bằng 
Ca(ClO)2. Vì vậy chúng tôi đã chọn chất khử trùng thích 
hợp cho quả non là Hypoclorit canxi - Ca(ClO)2 ở nồng độ 
6% trong thời gian 15 phút. 
2. Nghiên cứu ảnh hưởng của tuổi noãn bầu nhuỵ trước 
và sau thụ phấn lên khả năng tạo callus phôi hoá(EC). 
Trước khi hoa nở 1-2 ngày (trước khi thụ phấn) noãn được 
tách ra để nuôi cấy. Sau khi hoa được thụ phấn, cánh hoa 
và nhuỵ cái rụng, bầu nhuỵ phát triển thành quả non. Kích 
thước của noãn tăng dần, sự tăng kích thước là kết quả của 
quá trình phân bào xảy ra ở các mô khác nhau, trong đó có 
lớp tế bào phôi tâm (nucellar), phôi hữu tính nhị bội và nội 
nhũ tam bội thể. Kết quả noãn phát triển thành hạt non. 
Sau khoảng 2-5 tháng nuôi cấy, chúng tôi quan sát phản 
ứng tạo callus phôi hoá từ noãn và hạt non ở các giống 
khác nhau. Đối với nuôi cấy noãn trước thụ phấn, chúng tôi 
chỉ thu được callus dạng cứng, màu vàng mà không thu 
được callus phôi hoá ở tất cả các giống. Đối với hạt non (từ 
quả non) có độ tuổi từ 1-8 tuần tuổi, chúng tôi đã thu được 
callus phôi hoá ở các giống cam Vân du, cam Sành, quýt 
Đường canh và quýt Chum. Riêng với giống bưởi Phúc 
Trạch, chúng tôi chưa thành công trong việc tạo callus phôi 
hoá mà chỉ thu được dạng callus cứng, màu vàng trắng. 
Mô sẹo phôi hoá tạo được từ noãn (hoặc noãn đã được 
phân hoá thành hạt non) đã được nhiều tác giả khẳng định 
là có nguồn gốc từ mô phôi tâm (Buttton and 
Bornman,1971; Gmitter and Moore,1986). Trong một số 
trường hợp, mô sẹo phôi hoá đã được tạo ra từ nội nhũ,tuy 
nhiên tỷ lệ cây tái sinh từ nội nhũ hạt non rất thấp (Gmitter 
et al.,1991). 
Sau 3 lần lặp lại thí nghiệm ở các giống khác nhau, kết quả 
thu được được thể hiện ở bảng 1, Biểu đồ 1. 
Bảng 1. Ảnh hưởng của tuổi mô nuôi cấy lên sự phát sinh 
callus phôi hoá 
Biểu đồ 1: Ảnh hưởng của tuổi mô nuôi cấy lên sự phát 
sinh callus 
 Hình ảnh các dạng mô sẹo nhận được từ nuôi cấy mô noãn 
sau thụ phấn từ 1-8 tuần tuổi 
Với kết quả trên chúng tôi nhận thấy rằng tỉ lệ tạo callus 
phôi hoá đạt cao nhất ở tuổi 6 đối với cam Vân Du (12,5%) 
và rất thấp ở các độ tuổi 3 (0,9%), tuổi 1 (1,3%), tuổi 2 
(1,7%), tuổi 4 (1,35%) và tuổi 5 (1,46) ; Với Cam Sành tỉ lệ 
tạo mô sẹo phôi hoá đạt cao nhất ở tuổi 2 (35,5%) và thấp 
nhất ở tuổi 3, 4 (tương ứng là 3,6%; 4,2%); ở quýt Chum tỉ 
lệ tạo callus phôi hoá đạt cao nhất ở tuổi 1 (58,2%) và thấp 
nhất ở tuổi 8 (5,6%); Cũng giống như quýt Chum, ở quýt 
Đường Canh tỉ lệ tạo callus phôi hoá đạt cao nhất ở tuổi 1 
(63,5%), tỉ lệ này cũng khá cao ở tuổi 7 và tuổi 8 (56,7% và 
59,5%). 
 3. Vai trò của các chất điều hoà sinh trưởng đối với tạo 
callus phôi hoá ở một số giống citrus. 
Môi trường MT được nhiều tác giả sử dụng trong nghiên 
cứu nuôi cấy mô ở cây ăn quả có múi (Murashige and 
Tucker, 1969; Gmitter et al.,1990; Kunitake and Mu,1995). 
Chúng tôi đã tiến hành thí nghiệm với hai loại 
phytohormon khác nhau là Kinetine và BAP ở các nồng độ 
khác nhau để tìm ra chủng loại và nồng độ phytohormon 
thích hợp nhất cho việc tạo callus phôi hoá ở các giống 
khác nhau. Kết quả thí nghiệm được trình bày ở biểu đồ 2 
và 3. 
Kết quả cho thấy Kinetine có hiệu quả tương đối thấp lên 
quá trình tạo callus phôi hoá ở cả 4 giống trên. Tỉ lệ tạo 
callus phôi hoá đạt cao nhất mới là 15,3% (nồng độ 2,0mg/l 
K) ở giống quýt Đường canh. Với các giống còn lại tỉ lệ 
này còn thấp hơn: cam Vân du 9,5% (nồng độ 1,25mg/l K), 
cam Sành 10,8% (0,75mg/l K), quýt Chum 13,1% 
(0,25mg/l K). Trong khi đó, BAP cho tỉ lệ tạo callus phôi 
hoá cao hơn so với Kinetine ở cả 4 giống trên. Tỉ lệ tạo 
callus phôi hoá cao nhất là ở giống quýt Đường canh 33,2% 
(ở nồng độ 0,5mg/l BAP); tiếp đó là các giống cam Vân du 
31,9% (2,0mg/l BAP), cam Sành 29,3% (2,0mg/l BAP), 
quýt Chum 27,6% (1,0mg/l BAP). Điều này cho thấy BAP 
là loại phytohormon thích hợp cho việc tạo callus phôi hoá 
ở một số giống citrus. Các giống cam Vân du và cam Sành 
tỏ ra thích hợp với BAP ở nồng độ cao (2mg/l), tuy nhiên, 
quýt Chum và quýt Đường canh lại thích hợp ở nồng độ 
thấp hơn. 
Biểu đồ 2: Ảnh hưởng của Kinetine đến tỉ lệ tạo callus phôi 
hoá ở các giống khác nhau 
Biểu đồ 3: Ảnh hưởng của BAP đến tỉ lệ tạo callus phôi 
hoá ở các giống khác nhau 
4. Nghiên cứu quy trình nhân sinh khối callus phôi hoá 
bằng nuôi cấy lỏng lắc 
Mô sẹo thường có biểu hiện lão hoá khá nhanh khi nuôi cấy 
trên môi trường thạch trong thời gian dài. Biểu hiện của lão 
hoá là tế bào chuyển màu vàng nhạt sang vàng đậm, tiếp 
theo là nâu hoá. Tốc độ tăng sinh khối của callus trên môi 
trường đặc chậm. Tế bào có thể có biểu hiện khác là phân 
hoá thành các dạng khác nhau về cấu trúc và hình thái. 
Tính đồng nhất của quần thể tế bào do vậy bị giảm. Để 
khắc phục tình trạng này chúng tôi nghiên cứu nhân sinh 
khối mô sẹo phôi hoá theo phương thức luân chuyển như 
sau: ban đầu sinh khối được nhân trên môi trường đặc,tiếp 
sau môi trường lỏng lắc,tiếp theo EC lại được cấy chuyển 
để nhân trên môi trường đặc.Như vậy, EC sẽ được nhân 
theo chu kỳ đặc,lỏng kế tiếp nhau. 
Sau khi thu được sinh khối EC ban đầu từ các giống địa 
phương cam Vân du, Cam Sành, Quýt Chum, Quýt Đường 
canh và một số giống nhập ngoại: Murcott, Olinda 
Valencia, Navel N14-10 trên MT thạch. Chúng tôi tiến 
hành thí nghiệm nhân callus phôi hoá trên môi trường lỏng 
lắc nhằm mục đích tạo ra dạng callus phôi hoá đồng đều về 
kích thước và độ tuổi. Thời gian nuôi cấy callus phôi hoá 
trên môi trường lỏng lắc từ 14-20 ngày. Qua theo dõi chúng 
tôi nhận thấy rằng sau nuôi cấy14-20 ngày sinh khối callus 
đạt được cao, có màu trắng, mịn, gồm các tế bào đơn hoặc 
các cụm tế bào nhỏ tách rời, tương đối đồng đều về mặt 
kích thước và hình dạng.Kết quả nuôi cấy theo chu kỳ này 
cho phép tạo ra khối lượng lớn sinh khối mô sẹo phôi hoá 
đồng nhất trong thời gian ngắn.Nuôi cấy trên môi trường 
lỏng lắc cho thấy Môi trường MT bổ sung Malt extract 
500mg/l, đường 3%, và BAP thích hợp với nhân nhanh 
sinh khối mô sẹo phôi hoá.Tuy nhiên các giống khác nhau 
thích hợp với các nồng độ khác nhau của BAP. 
4. Nghiên cứu tạo phôi vô tính từ callus phôi hoá ở các 
giống khác nhau. 
Callus phôi hoá thu nhận từ nuôi cấy trên môi trường đặc 
và môi trường lỏng của các giống đã được chuyển vào môi 
trường tạo phôi. Sau khoảng 2 tháng chúng tôi nhận được 
phôi vô tính có lá mầm phát triển. Một số phôi có cấu trúc 
tương tự như phôi 2 lá mầm của hạt hữu tính .Với hai giống 
cam Vân du và N14-N10, môi trường tạo phôi thích hợp 
nhất là môi trường G1. ở môi trường này, phôi vô tính thu 
được có dạng hai lá mầm hoàn chỉnh, đơn nhất, kích thước 
tương đối đồng đều (Ảnh 7). Trên môi trường G2 và BG, 
phôi vô tính thu được có dạng cụm phôi, nhiều lá mầm và 
phát sinh nhiều dạng hình thái phôi không rõ ràng (Ảnh 8). 
Việc nghiên cứu tạo ra tính đồng nhất của mô sẹo phôi hoá 
và những điều kiện môi trường tối ưu để tạo hàng loạt phôi 
vô tính có độ đồng đều cao từ các giống citrus khác nhau 
cần được tiếp tục nghiên cứu. 
6. Nghiên cứu sự nảy mầm của phôi vô tính. 
Phôi vô tính thu được từ hai giống cam Vân du và N14-10 
được cấy trên hai loại môi trường cơ bản MS và MT không 
có phytohormon để phôi nảy mầm thành cây con. Sau 15 
ngày, chúng tôi thu được kết quả như sau: trên môi trường 
MT phôi có tạo rễ nhưng rễ vẫn còn ngắn và có dạng cụm 
rễ. Với dạng rễ như thế, ở cam quýt, cây sẽ khó sống khi 
đem ra trồng ở vườn ươm. Ngược lại, trên môi trường MS 
phôi ra rễ rất nhanh và sớm tạo cây con hoàn chỉnh,khoẻ 
mạnh,chỉ có một rễ ở mỗi phôi (ảnh 9 và 10).Cây con ra 
vườn ươm đạt tỷ lệ sống trên 90 %. 
IV. Kết luận: 
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu ở trên chúng tôi rút ra 
một số kết luận sau: 
1. Tỷ lệ tạo callus phôi hoá từ nuôi cấy noãn và hạt non 
phụ thuộc vào tuổi quả. Cam Vân Du ở 6 tuần tuổi, cam 
Sành 2 tuần tuổi, quýt Chum và quýt Đường Canh ở tuần 
tuổi 1,7 và 8 cho tỷ lệ tạo callus phôi hoá cao nhất. Đối với 
noãn chưa qua thụ phấn chúng tôi chưa thu được dạng 
callus phôi hoá. 
2. Môi trường thích hợp cho tạo callus phôi hoá là môi 
trường MT bổ sung Malt extract 500mg/l, đường 5%, thạch 
5g/l và BAP với nồng độ khác nhau ở các giống khác nhau. 
Với cam Vân du tỉ lệ tạo callus phôi hoá đạt cao nhất ở 
nồng độ 2,0mg/l; cam Sành 2,0mg/l; quýt Chum 1,0mg/l và 
quýt Đường canh 0,5mg/l. 
3. Nuôi cấy trên môi trường lỏng lắc cho thấy Môi 
trường MT bổ sung Malt extract 500mg/l, đường 3%, và 
BAP thích hợp với nhân nhanh sinh khối mô sẹo phôi 
hoá.Tuy nhiên các giống khác nhau thích hợp với các nồng 
độ khác nhau của BAP. 
4. Callus phôi hoá có xu hướng tạo phôi vô tính trên môi 
trường có hàm lượng BAP thấp. Trên môi trường có BAP 
nồng độ cao hơn các phôi có xu hướng phát triển không 
bình thường. 
5. Phôi vô tính với lá mầm phát triển đã nảy mầm thành 
cây con khoẻ mạnh khi được nuôi cấy trên môi trường MS 
không có chất điều hoà sinh trưởng. 
Summary: 
 Induction of somatic embryogenic callus and somatic 
embryos derived from ovule cultures of local citrus 
cultivars 
Ha Thi Thuy 1, Tran Thi Hanh 1,Nguyen Hong Chien, 
Do Nang Vinh 1 ,Vu Van Vu2 
Institute of Agricultural Genetics 1, Hanoi National 
University 2 
Somatic embryogenic callus derived from nucellar cells 
have been induced by ovule culture of local Citrus cultivars 
including orange Van du (C.sinensis), mandarins Quyt 
Chum,Duong Canh( C. reticulata) and Cam Sanh ( Citrus 
nobilis).Ovaries and immature fruits (1-8 weeks after 
anthesis) are surface disinfected and cut open under 
aseptical condition.The ovules are excised and cultured on 
the MT culture media with different concentrations of 
Kinetine and BAP.The embryogenic callus (EC) induction 
rates are quite different and depending both on genotypes 
and cultured media.The induced callus have been 
propagated by periodically cultures on solid and liquid 
media.The suitable media for EC induction and propagation 
have been developed for each studied 
cultivars.Embryogenic callus were profusely developed 
into well-formulated somatic embryos which are developed 
into microplants in MT medium without growth 
regulator.The percentage of plants survive after transfered 
to the soil is very high. 
Embryogenic callus is currently used in our laboratory for 
different researches: embryogenesis in bioreactor,tetraploid 
induction in vitro by colchicine treatement,development of 
disease-free materials and for study on obtaining seedless 
somaclones derived from local cultivars. 
Tài liệu tham khảo: 
1. Đỗ Năng Vịnh (2002). "Công nghệ sinh học cây trồng 
" Nhà xuất bản NN 
2. Button J., Bornman C.H. (1971). Development of 
nucelar plantsfrom unpollinated and unfertilised ovules of 
Washington Navel orange in vitro, J. South Afric. Bot., 37: 
127-134. 
3. Cameron. J.W and Reuther. H.B. (1968). Genetics, 
Breeding, and nucellar Embryony. In "The Citrus Industry" 
H.B. Reuther Edited: 325 - 370. 
4. Carimi. F, De Pasquale and Grescimanno F. G. 
(1995). Somatic embryo- genesis in citrus from styles 
culture. Plant sciences. 105, 81- 86 
5. De Pasquale F, F. Carimi and Grescimanno F. G. 
(1994). Somatic embryo genesis from styler of different 
cultivars of Citrus limon (L.) Burm. Aust. J. Bot.42.587-
594 
6. Gmitter. F.G.Fr and G.A.Moore (1986). Plant 
regeneration from undeveloped ovules, and embryonic calli 
of citrus- Embryo production germination, and plant 
survival, J. Plant celltissue organ cultrue, 6, 139- 147 
7. Gmitter F.G., Ling X.B., Deng X.X. (1991). Induction 
of triploid Citrus plants from endosperm calli in vitro. 
Theor. Applied Genet(In press). 
8. Grosser J.W, Ollitrault P. and Olivares-Fuster O., 
(2000). Somatic hybridization in Citrus: An effective tool 
to facilitate variety improvement. In Vitro Cell. Dev. Biol-
Plant 36: 434 - 449. November - December 2000, Society 
for in vitro Biology. 
9. Hidaka T, Omura M (1989). Control of embryogenesis 
in Citrus cell culture. Regeneration from protoplasts and 
attempts to establish a callus bank. Bull fruit tree Ré Stn 
Ser B ( Okitsssu) 16: 1-17 ( in Japanese) 
10. Kuntake H., Mu M. (1995). Somatic embryogenesis 
in Citrus Species. Biotechnology in Argiculture and 
forestry, vol. 30. 
11. Murashige. T and D.P. H. Tucker, 1969. Growth 
factor requirements of citrus tissue cullture, Proc. 1ST Int. 
Citrus symp. 3, 1155 -1161 
12. . Symposium sur Mandarines - 5 au 11 mars, Corse, 
France - INRA: 19. 
13. Starrantino. A and F. Russo.1980. Seedling from 
undeveloped ovules of ripe fruit of polyembryonic citrus 
cultivars. Horst. Science.15. 296- 297 
Người thẩm định nội dung khoa học: Ts. Đoàn Duy Thanh