Xây dựng và phát triển sự nghiệp giáo dục- đào tạo ở cơ sở là một vấn đề có ý nghĩa lớn lao trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chiến lược phát triển đất nước khi bước vào thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá không thể hiện được nếu không chú ý đúng mức đến xậy dựng và phát triển sự nghiệp giáo dục ở cơ sở. Muốn phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo thì một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục. Nghị quyết đại hội Đảng X Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh nhiệm vụ của giáo dục đào tạo trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá : “ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và học. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và tăng cường cơ sở vật chất của nhà trường,phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ của học sinh,.”; thực hiện “chuẩn hoá”, “hiện đại hoá”, “xã hội hoá”.Để thực hiện nhiệm vụ này, kết luận của Hội nghị VI Ban chấp hành trung ương khoá IX “về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương II khoá VIII , phương hướng phát triển giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ từ nay đến 2005 và 2010” đã nhấn mạnh: “Tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục, trước hết là nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, thực hiện giáo dục toàn diện, đặc biệt là giáo dục tư tưởng, chính trị, nhân cách, đạo đức, lối sống cho người học”. Chăm lo xây dựng đội ngũ giáo viên và các nhà quản lí giáo dục, tạo động lực cho người dạy và người học. Bởi vì đội ngũ nhà giáo là nhân tố hàng đầu quyết định chất lượng giáo dục. Cần nâng cao chất lượng toàn diện của đội ngũ nhà giáo, nâng cao địa vị kinh tế - xã hội của giáo viên, thực hiện tiêu chuẩn hoá giáo viên và cán bộ quản lí giáo dục, loại bỏ những yếu kém về phẩm chất đạo đức và chuyên môn nghiệp vụ ra khỏi hệ thống giáo dục là yêu cầu khách quan để giáo dục phát triển.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đầu tư rất nhiều cho giáo dục và đào tạo, do vậy chất lượng và hiệu quả giáo dục hiện nay đã có bước phát triển đáng kể. Có được điều này là nhờ vào chất lượng giảng dạy ở các loại hình trường lớp đã có bước phát triển rõ rệt. Tuy nhiên,bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì giáo dục cũng vẫn còn nhiều tồn tại , yếu kém về chất lượng làm cho cả xã hội phải quan tâm.
Lịch sử của ngành giáo dục đã cho thấy: nơi nào có đội ngũ thầy cô giáo tốt thì nơi đó có chất lượng giáo dục tốt và ngược lại. Xác định tầm quan trọng của nguồn lực con người đối với việc xây dựng đất nước, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã đặt Giáo dục và Đào tạo ở vị trí là “Quốc sách hàng đầu” để đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ trở thành nguồn nhân lực thực sự có chất lượng, đáp ứng yêu cầu xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay.
25 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 5086 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên ở trường Tiểu học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A – MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Xây dựng và phát triển sự nghiệp giáo dục- đào tạo ở cơ sở là một vấn đề có ý nghĩa lớn lao trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chiến lược phát triển đất nước khi bước vào thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá không thể hiện được nếu không chú ý đúng mức đến xậy dựng và phát triển sự nghiệp giáo dục ở cơ sở. Muốn phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo thì một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục. Nghị quyết đại hội Đảng X Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh nhiệm vụ của giáo dục đào tạo trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá : “ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và học. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và tăng cường cơ sở vật chất của nhà trường,phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ của học sinh,...”; thực hiện “chuẩn hoá”, “hiện đại hoá”, “xã hội hoá”.Để thực hiện nhiệm vụ này, kết luận của Hội nghị VI Ban chấp hành trung ương khoá IX “về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương II khoá VIII , phương hướng phát triển giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ từ nay đến 2005 và 2010” đã nhấn mạnh: “Tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục, trước hết là nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, thực hiện giáo dục toàn diện, đặc biệt là giáo dục tư tưởng, chính trị, nhân cách, đạo đức, lối sống cho người học”. Chăm lo xây dựng đội ngũ giáo viên và các nhà quản lí giáo dục, tạo động lực cho người dạy và người học. Bởi vì đội ngũ nhà giáo là nhân tố hàng đầu quyết định chất lượng giáo dục. Cần nâng cao chất lượng toàn diện của đội ngũ nhà giáo, nâng cao địa vị kinh tế - xã hội của giáo viên, thực hiện tiêu chuẩn hoá giáo viên và cán bộ quản lí giáo dục, loại bỏ những yếu kém về phẩm chất đạo đức và chuyên môn nghiệp vụ ra khỏi hệ thống giáo dục là yêu cầu khách quan để giáo dục phát triển.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đầu tư rất nhiều cho giáo dục và đào tạo, do vậy chất lượng và hiệu quả giáo dục hiện nay đã có bước phát triển đáng kể. Có được điều này là nhờ vào chất lượng giảng dạy ở các loại hình trường lớp đã có bước phát triển rõ rệt. Tuy nhiên,bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì giáo dục cũng vẫn còn nhiều tồn tại , yếu kém về chất lượng làm cho cả xã hội phải quan tâm.
Lịch sử của ngành giáo dục đã cho thấy: nơi nào có đội ngũ thầy cô giáo tốt thì nơi đó có chất lượng giáo dục tốt và ngược lại. Xác định tầm quan trọng của nguồn lực con người đối với việc xây dựng đất nước, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã đặt Giáo dục và Đào tạo ở vị trí là “Quốc sách hàng đầu” để đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ trở thành nguồn nhân lực thực sự có chất lượng, đáp ứng yêu cầu xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, trong những năm qua, toàn ngành giáo dục đã nỗ lực phấn đấu vừa khắc phục tồn tại yếu kém vừa đổi mới công tác giảng dạy. Vì vậy chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao. Bên cạnh những thành tích to lớn mà toàn ngành đã làm được thì cũng còn nhiều tồn tại yếu kém đã và đang nảy sinh như: Chất lượng đạo đức học sinh, thầy cô giáo giảm sút; học sinh ngồi sai lớp, thầy cô ngồi sai chỗ; các kiến thức, kỹ năng tối thiểu không đạt... và nhiều vấn đề bức xúc khác nữa gây ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của đội ngũ thầy cô giáo và nhà trường, làm cả xã hội phải quan tâm, lo lắng. Để khắc phục vấn đề này, trước hết là mỗi thầy cô giáo ở từng bậc học, cấp học phải tự xem lại, tự tìm ra những nguyên nhân cơ bản mà trước hết là là ở chính đơn vị mình đang công tác để kịp thời điều chỉnh.
Mặc dù đã sớm tìm ra nguyên nhân. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp lớn để khắc phục tình trạng này, nhưng những tồn tại, yếu kém đó không dễ dàng khắc phục trong một sớm một chiều mà đòi hỏi phải có thời gian đồng thời tất cả các nhà trường, trước hết là các trường tiểu học (bậc học nền tảng) dưới sự chỉ đạo của của ngành giáo dục các cấp phải tìm ra giải pháp để nâng cao chất lượng giảng dạy và giáo dục của mình.
Cũng như các trường Tiểu học khác trong cả nước, trường Tiểu học Trần Bình Trọng huyện Krông Păc thuộc bậc tiểu học của hệ thống giáo dục Quốc dân. Vì vậy chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên nhà trường luôn là vấn đề mà chính quyền địa phương, ngành giáo dục Krông Pắc hết sức quan tâm. Ngoài việc góp phần đáp ứng yêu cầu chung của thời đại, của dân tộc, nhà trường còn phải phấn đấu đạt mức chất lượng tối thiểu giai đoạn I vào năm 2008 mà lãnh đạo ngành Giáo dục Krông Pắc đã giao (Theo Quyết định số 55/2007/QĐ- BGD&ĐT ngày 28/9/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành). Khắc phục tình hình nói trên,việc tìm kiếm giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên trường Tiểu học Trần Bình Trọng – huyện Krông Pắc là vấn đề cấp thiết hiện nay.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ:
a. Mục tiêu:
Trên cơ sở đánh giá đúng chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên trường tiểu học Trần Bình Trọng làm căn cứ cho việc tìm kiếm mô hình giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy ở trường cho những năm tới.
b. Nhiệm vụ:
Khảo sát và phân tích thực trạng về chất lượng giảng dạy của nhà trường từ năm 2006 đến 2009 để tìm ra những ưu điểm cần tiếp tục phát huy và những tồn tại, yếu kém cần khắc phục. Từ đó đưa ra những giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy của nhà trường trong những năm tiếp theo.
3. Phạm vi nghiên cứu:
a. Đối tượng nghiên cứu:
Về chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên trường tiểu học Trần Bình Trọng.
b. Địa điểm nghiên cứu:
- Trường tiểu học Trần Bình Trọng huyện Krông Pắc, tỉnh Đăk Lắk.
c. Thời gian thực hiện đề tài:
- Từ ngày 28 tháng 11 đến 18 tháng 02 năm 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu:
a. Phương pháp luận:
- Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng, Nhà nước và của ngành về vấn đề Giáo dục và đào tạo.
b. Phương pháp cụ thể:
- Khảo sát thống kê, điều tra xã hội học những số liệu về các đối tượng nghiên cứu về những vấn đề có liên quan đến đề tài.
- Tiến hành phân tích, tổng hợp, so sánh về các số liệu, các vấn đề có liên quan đến chất lượng giáo dục của nhà trường.
5. Bố cục đề tài:
Đề tài gồm ba phần: Phần mở đầu; Phần nội dung chính; Phần kết luận và kiến nghị.
B – NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
1. Cơ sở lý luận:
Đất nước càng phát triển , dân càng giàu, nước càng mạnh, xã hội ngày càng công bằng và văn minh thì mọi thành viên trong xã hội và các tổ chức của họ càng ý thức sâu sắc về tương lai của dân tộc và của chính mình. Do đó càng phải quan tâm đến sự nghiệp Giáo dục thế hệ trẻ bằng việc phát huy tối đa tiềm năng sẵn có của đất nước. Muốn vậy phải nhanh chóng tìm ra giải pháp tối ưu để nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên ở tất cả các trường học nói chung.
Lê-nin gọi Giáo dục là một phạm trù vĩnh cửu: giáo dục sinh ra cùng với loài người và tồn tại, phát triển cùng với loài người. Giáo dục là con đường đặc trưng cơ bản để loài người tồn tại và phát triển. Giáo dục chính là nơi gìn giữ, truyền thụ và phát huy hệ thống giá trị chung của loài người . Thế giới ngày nay coi giáo dục là con đường cơ bản nhất để gìn giữ và phát triển văn hoá, để khỏi tụt hậu, để tiến lên.Và vì vậy giáo dục ngày nay lại càng phát triển mạnh hơn bao giờ hết mà trước hết là nói đến chất lượng giáo dục ở tất cả các Quốc gia, các dân tộc nói chung và từng trường phổ thông nói riêng.
Hồ Chủ Tịch đã từng nói tại Hội nghị cán bộ Đảng trong ngành Giáo dục vào tháng 6 năm 1957: “ Giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần , còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình, để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn.Giáo dục trong nhà trường dù tốt đến mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội , thì kết quả cũng không hoàn thành” và Người còn nói: “ Một chương trình nhỏ mà được thực hành hẳn hoi còn hơn một trăm chương trình lớn mà không làm được”
Giáo dục trong nhà trường có những đặc trưng riêng của nó. Đó là một hoạt động có tổ chức, có hệ thống và mang tính mục đích rõ ràng. Nó đảm bảo truyền thụ và lĩnh hội vốn học vấn toàn diện nhằm phát triển toàn diện con người. Nhà trường là một thiết chế trong hệ thống giáo dục quốc dân, mục tiêu hoạt động của nhà trường là đào tạo những nhân cách – nhân cách văn hoá, hay là con người có văn hoá. Đó là “con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”.
Kế thừa và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn quan tâm đầu tư cho Giáo dục và Đào tạo. Đại hội lần thứ IX Ban chấp hành Trung ương Đảng và chỉ thị 40-CT/TW ngày 15/6/2004 của ban Bí thư Trung ương Đảng về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đã khẳng định: “Phát triển Giáo dục và Đào tạo là Quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là điều kiện để phát triển nguồn lực con người. đây là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, trong đó nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là lực lượng nòng cốt, có vai trò quan trọng”.
Tiếp tục quan điểm của Đại hội lần thứ IX, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn Quốc lần thứ X của Đảng nhấn mạnh: “Về Giáo dục và Đào tạo, chúng ta phấn đấu để lĩnh vực này cùng với khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, thông qua việc đổi mới toàn diện Giáo dục và Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chấn hưng nền Giáo dục Việt Nam...”, cũng trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn Quốc lần thứ X của Đảng ta định hướng: “Ưu tiên hàng đầu việc nâng cao chất lượng dạy và học. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và tăng cường cơ sở vật chất của nhà trường, phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ của học sinh, sinh viên...”.
Cụ thể hoá chủ trương của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk nhấn mạnh: “Tổng rà soát lại đội ngũ giáo viên ở từng cấp học, từng trường, từng địa phương để có kế hoạch chủ động bố trí, phân công hợp lý đội ngũ giáo viên có trình độ tương đối đồng đều nhằm nâng cao chất lượng dạy và học...”. để đạt mục tiêu đó trong giai đoạn hiện nay, nhất thiết phải nâng cao chất lượng giảng dạy ở từng nhà trường mà trước hết là các nhà trường thuộc bậc tiểu học – bậc học nền tảng của bậc học phổ thông, của hệ thống giáo dục Quốc dân.
Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà giáo ưu tú, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Đặng Huỳnh Mai đã đưa ra định hướng phát triển bền vững đối với Giáo dục tiểu học ở Việt Nam: “Nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập của từng trường tiểu học, thực hiện mức chất lượng tối thiểu và thực hiện các tiêu chuẩn để tạo niềm tin của nhân dân và địa phương đối với nhà trường...”
Mặc dù trong những năm qua, ngành Giáo dục và Đào tạo nói chung và Giáo dục tiểu học nói riêng đã có nhiều cố gắng và đạt được những thành tích đáng kể nhưng cũng còn bộc lộ nhiều yếu kém mà Đại hội đại biểu toàn Quốc lần thứ X của Đảng đã đánh giá: “Chất lượng Giáo dục còn nhiều yếu kém; khả năng chủ động, sáng tạo của học sinh, sinh viên ít được bồi dưỡng, năng lực thực hành của học sinh, sinh viên còn yếu ...” nhất là đối với bậc tiểu học.
Ở bậc tiểu học, do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh tiểu học nên nhìn chung phương pháp giảng dạy còn nặng về truyền thụ kiến thức một chiều dẫn đến việc học của học sinh còn thụ động, chưa phát huy hết tính tích cực chủ động, sáng tạo của các em. Bên cạnh đó, tỉ lệ giáo viên có trình độ tin học thực sự sử dụng được máy vi tính lại quá ít, hầu như chưa biết sử dụng nên việc áp dụng tin học vào công tác soạn giảng, chuẩn bị phiếu học tập, sử dụng máy chiếu ... gặp rất nhiều khó khăn.
Ngoài ra, trung thực, thẳng thắn nhìn nhận thì chất lượng đội ngũ giáo viên tiểu học hiện nay chưa đồng đều, nhiều giáo viên còn yếu về trình độ chuyên môn. Một bộ phận giáo viên do điều kiện kinh tế khó khăn nên chưa thật sự an tâm công tác, chưa có đầu tư thoả đáng cho công tác giảng dạy. Mặc dù có thuận lợi hơn so với một số huyện vùng sâu, vùng xa,vùng biên giới của tỉnh Đắk Lắk, song Krông Pắc vẫn còn là một trong các huyện về điều kiện cơ sở vật chất đầu tư cho dạy và học còn thiếu thốn, lạc hậu chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của thời đại. Tất cả những vấn đề trên đều có ảnh hưởng lớn,có vai trò quyết định đến chất lượng giảng dạy hiện nay của các nhà trường nói chung và trường tiểu học Trần Bình Trọng, Krông Pắc nói riêng.
Thực tế đặt ra một câu hỏi lớn: Làm thế nào để nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên trường Tiểu học Trần Bình Trọng ? Từ đó nhằm đưa nhà trường hoàn thành giai đoạn I mức chất lượng tối thiểu (Chuẩn Quốc gia giai đoạn I) là điều mà bản thân người cán bộ quản lý nói chung và cá nhân tôi nói riêng luôn trăn trở suy nghĩ để tìm ra giải pháp , định hướng phát triển bền vững cho nhà trường.
2. Thực trạng chất lượng giảng dạy ở trường tiểu học Trần Bình Trọng từ năm 2006 đến 2009
a. Một số nét về trường Tiểu học Trần Bình Trọng:
Trường tiểu học Trần Bình Trọng, từ trước năm 2009 tên cũ là trường Tiểu học Võ Thị Sáu được tách ra từ trường Phổ thông cơ sở Võ Thị Sáu (cấp I, II) năm 1989 do chủ trương tách cấp học ở các trường ghép của ngành. Trường thuộc hệ thống giáo dục công lập, chịu sự quản lý trực tiếp của phòng giáo dục Krông Pắc tỉnh Đắk Lắk.
Trường có diện tích 6.087m2 , nằm trên địa bàn của thôn Tân Thành, xã Hoà An, huyện Krông Pắc.
Xã Hoà An được thành lập từ ngay sau giải phóng 1975, khi mới thành lập, địa bàn xã rất rộng bao gồm cả địa bàn Thị trấn Phước An và xã EaYông hiện nay. Sau đó, xã Hoà An thu nhỏ lại do thành lập Thị trấn Phước An và xã EaYông được tách ra. Xã hiện có diện tích tự nhiên là khoảng 2.369.000 ha, trong đó đất nông nghiệp khoảng 1.233.000 ha. Đến nay, toàn xã có 18 thôn gồm có 2.686 hộ gia đình với khoảng 11.758 nhân khẩu.
Học sinh trong địa bàn nhà trường tuyển sinh là con em của nhân dân ở các thôn: Tân Thành, Tân Tiến, Tân Lập, Tân Lập A, Thôn 2, Thôn 3, Thôn 4. Dân cư chủ yếu là người kinh thuộc vùng Thăng Bình – Quảng Nam vào làm ăn, sinh sống (địa bàn trường phụ trách không có dân tộc tại chỗ). Qua điều tra có tới 95% hộ gia đình làm nông nghiệp, nhìn chung có trình độ học vấn thấp, điều kiện, hoàn cảnh kinh tế còn khó khăn. Thực tế, trong địa bàn một bộ phận hộ có kinh tế khá giả, thì tập trung gần mặt đường giao thông, con em họ thường chọn học trường có điều kiện vật chất khá hơn (trường chuẩn Quốc gia) để theo học. Theo thống kê, hàng năm, số học sinh thuộc địa bàn trường phụ trách, chọn trường khác học vào khoảng 30 đến 35 học sinh. Bởi vậy, số học sinh học đúng tuyến ở trường thường là gia đình có điều kiện kinh tế khó khăn hơn. Số hộ thuộc diện nghèo vẫn còn khá đông. Những năm học gần đây, số học sinh thuộc diện nghèo, khó khăn đột xuất phải nhận trợ cấp của Dự án PEDC (Dự án dành cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn) là khoảng 25%. Nhiều gia đình cả vợ chồng phải đi làm nương rẫy cà phê cách nhà rất xa, khoảng 10 đến 15 cây số, phải ở lại rẫy hàng tuần mới về nhà, nhất là trong các đợt vào mùa. Vì vậy việc quan tâm chăm sóc con cái học hành, việc tiếp cận thông tin và nhận thức về giáo dục còn nhiều hạn chế.
Mặt khác, cán bộ chính quyền địa phương và các đoàn thể mặc dù đã có nhiều quan tâm chỉ đạo công tác giáo dục của địa phương, song cũng mới chỉ tập trung quan tâm về xây dựng cơ sở vật chất. Kinh nghiệm chỉ đạo, lãnh đạo về giáo dục tại địa phương còn hạn chế nhất định như công tác điều tra, vận động phối hợp với gia đình để giáo dục học sinh ... Tất cả vấn đề nêu trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả giáo dục của nhà trường.
Những năm học từ 1998 đến 2003, trường số lớp vào khoảng 18- 20 lớp hàng năm. Những năm sau đó số lớp giảm dần do nguồn trẻ giảm, đến năm học 2009-2010 số lớp chỉ còn 15. Kéo theo là đội ngũ giáo viên dôi dư, mặc dù đã được kiến nghị giải quyết song mỗi năm vẫn dôi dư từ một đến hai người. Vì vậy giải quyết phân phối việc làm và quản lý số giáo viên dôi dư là việc làm gây khó khăn thêm cho đội ngũ quản lý.
* Về tình hình học sinh:
Theo sự phân công nguồn tuyển sinh, năm học 2009-2010 nhà trường tuyển sinh mới vào lớp 1 và số học sinh cũ từ lớp 2 đến lớp 5 là 394 học sinh, được chia ra 15 lớp. Cụ thể như sau:
Khối lớp 1
Khối lớp 2
Khối lớp 3
Khối lớp 4
Khối lớp 5
Số lớp
Số HS
Số lớp
Số HS
Số lớp
Số HS
Số lớp
Số HS
Số lớp
Số HS
3
67
3
65
3
93
3
88
3
81
Nhìn chung các em học sinh đều ngoan, chăm học, biết vâng lời thầy cô giáo. Tuy nhiên do phần đông các em đều thuộc gia đình làm nông nghiệp, điều kiện gia đình khó khăn, thiếu sự quan tâm của gia đình về việc học tập. Một số học sinh còn phải có nhiệm vụ trông nhà, trông em, lo các công việc gia đình để bố mẹ đi làm rẫy nên các em không có thời gian, không có điều kiện để học tập,sinh hoạt theo chương trình học 2 buổi/ngày của nhà trường. Số các em này thường chỉ theo học một buổi sáng, buổi chiều thường nghỉ học để phụ giúp gia đình. Những khó khăn, trở ngại đó đã gây ảnh hưởng nhiều đến việc nâng cao chất lượng giáo dục của trường.
b. Về tình hình đội ngũ CB-GV-NV nhà trường:
* Biên chế số lượng:
Theo biên chế của ngành, năm học 2009-2010, tống số CB-GV-NV của trường có 31 người, đều là dân tộc Kinh, được phân công chức danh và nhiệm vụ như sau:
Chức danh
Số lượng
Trong số lượng chia ra
Nữ
Đảng viên
Hiệu trưởng
1
1
Phó hiệu trưởng
1
1
1
TPT Đội TNTP
1
1
1
Giáo viên
23
22
6
Kế toán
1
1
Văn thư
1
1
Thư viện
1
1
Thiết bị
1
1
Bảo vệ
1
TỔNG
31
28
9
* Về độ tuổi và các điều kiện khác:
Theo bảng số liệu trên, hiện nay nhà trường có 23 giáo viên được phân công tham gia trực tiếp giảng dạy ở các khối lớp. Tính đến năm học 2009-2010, giáo viên của trường có độ tuổi cao nhất là 45 tuổi, thấp nhất là 23 tuổi, tuổi đời bình quân của CB-GV trong nhà trường là 33 tuổi (không tính tuổi của nhân viên).
+ Cụ thể về độ tuổi của giáo viên: - Dưới 30: 02 ( nữ 02 )
- Từ 31 – 45 : 21 (nữ 20)
Với độ tuổi bình quân như vậy, xét về mặt tâm lý lứa tuổi của học sinh tiểu học thì các em ít hứng thú học hơn so với những thầy cô giáo còn trẻ. Ngoài ra còn phải kể đến giọng nói, hình thức và các yếu tố khác của mỗi thầy cô giáo cũng có những ảnh hưởng không nhỏ đến việc ham thích đi học, chú ý học tập của học sinh tiểu học.
Đội ngũ giáo viên của trường phần đông đều công tác tại trường đã lâu, đều đã lập gia đình nhưng hầu hết lại không cư trú tại địa phương nơi trường đóng. Ngoài ra, phần đông giáo viên của trường là người miền Bắc (vùng Nghệ An, Hà Tĩnh và một số ở Thái Bình, Hà Nam...). Bởi vậy việc am hiểu phong tục tập quán của các em học sinh người địa phương có những hạn chế nhất định, ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy (nhất là môn Tiếng Việt) của nhà trường.
Mặt khác, với cơ cấu biên chế số lượng theo quy định của Thông tư liên tịch số 35 liên Bộ Giáo dục & Đào tạo, Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính như vậy nên có những công tác nhà trường không có chuyên trách mà chỉ làm kiêm nhiệm (công đoàn, khối trưởng, khối phó, thanh tra nhân dân) vì vậy hiệu quả công tác chưa cao.
c. Về chất lượng đội ngũ:
Chức danh
Số lượng
Trình độ đào tạo
Trình độ tay nghề
Đại học
Cao đẳng
Trung cấp
Giỏi tỉnh
Giỏi huyện
Hiệu trưởng
1
1
Phó hiệu trưởng
1
1
TPT Đội TNTP
1
1
Giáo viên
23
11
7
5
1
4
Kế toán
1
1
Văn thư
1
1
Thư viện
1
1
Thiết bị
1
1
TỔNG
30
14
7
9
1
4
Qua khảo sát, tuổi nghề của đội ngũ giáo viên tương đối cao, bìn