Tài Chính là một phạm trù của kinh tế hàng hoá, một trong những yếu tố cơ bản để sản xuất và lưu thông hàng hoá. Do đó, bất cứ một doanh nghiệp nào muốn ra đời tồn tại và phát triển thì một trong những vấn đề cơ bản nhất phải quan tâm là tạo lập, quản lý và sử dụng nguồn tài chính sao cho có hiệu quả nhằm đạt mục tiêu lơị nhuận và tối đa hoá lợi nhuận trong khuôn khổ pháp luật.
67 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1433 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích thực trạng quản lý và sử dụng nguồn tài chính tại công ty May Đáp Cầu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Tài Chính là một phạm trù của kinh tế hàng hoá, một trong những yếu tố cơ bản để sản xuất và lưu thông hàng hoá. Do đó, bất cứ một doanh nghiệp nào muốn ra đời tồn tại và phát triển thì một trong những vấn đề cơ bản nhất phải quan tâm là tạo lập, quản lý và sử dụng nguồn tài chính sao cho có hiệu quả nhằm đạt mục tiêu lơị nhuận và tối đa hoá lợi nhuận trong khuôn khổ pháp luật.
Phân tích, quản lý và sử dụng nguồn tài chính có tác động rất lớn đến sự tăng hay giảm chi phí sản xuất kinh doanh, giá thành sản phẩm, lơị nhuận của doanh nghiệp. Trong cơ chế bao cấp, các doanh nghiệp quốc doanh được nhà nước cấp phát vốn, bao cấp về giá, sản xuất kinh doanh theo theo chỉ tiêu pháp lệnh của nhà nước. Do vậy, các doanh nghiệp hầu như không quan tâm đến hiệu quả sử dụng tài chính. Thực trạng tài chính của nhiều doanh nghiệp thời kỳ đó không những thấp mà còn không bảo toàn được nguồn tài chính. Tình trạng lãi giả lỗ thật xảy ra phổ biến trong các doanh nghiệp nhà nước .
Thực hiện đường lối do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, trong thời gian qua, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọn, đã từng bước vững chắc chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý vĩ mô của nhà nước với nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại. Các doanh nghiệp giờ đây phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt không còn được bao cấp như trước nữa. Vì vậy, doanh nghiệp nào làm ăn có hiệu quả sẽ đứng vững trong nền kinh tế mới, ngược lại doanh nghiệp nào làm ăn kém hiệu quả tất yếu sẽ bị giải thể, phá sản .
Nghị quyết Đaị Hội lần thứ VI BCH TW Đảng CSVN (năm 1988) chỉ rõ: “Xí nghiệp quốc doanh không còn được bao cấp về vốn và giá phải chủ động kinh doanh với quyền tự chủ đầy đủ, đảm bảo tự bù đắp chi phí đầy đủ và có lãi”. Theo tinh thần đó, các doanh nghiệp phải luôn chủ động bám thị trường điều hành sản xuất kinh doanh và tự chủ về nguồn tài chính. Nhà nước tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động nhưng cũng tạo áp lực cho các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển trong kinh tế thị trường phải đặt vấn đề quản lý và sử dụng nguồn tài chính sao cho có hiệu quả nhất lên hàng đầu. Đây là vấn đề bức xúc khiến các nhà quản trị phải suy nghĩ, đồng thời cũng thu hút sự chú ý của các nhà kinh tế trong lĩnh vực tài chính doanh nghiệp.
Sau gần ba tháng thực tập tại công ty May Đáp Cầu, được sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô giáo hướng dẫn cùng phòng kế toán công ty, em đã từng bước làm quen với thực tiễn vận dụng lý luận vào thực tế, xuất phát từ nhận thức của bản thân về ý nghĩa và tầm quan trọng của việc quản lý và sử dụng nguồn tài chính kinh doanh, em đã mạnh dạn đi sâu vào nghiên cứu và hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp với đề tài :
“Phân tích thực trạng quản lý và sử dụng nguồn tài chính tại công ty May Đáp Cầu ”
Ngoài phần mở dầu và phần kết luận, nội dung chính của chuyên đề được chia làm 3 phần :
PhầnI: Những vấn đề lý luận chung về phân tích quản lý và sử dụng nguồn tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường .
PhầnII: Phân tích thực trạng quản lý và sử dụng nguồn tài chính của công ty May Đáp Cầu trong thời gian từ 2001-2003.
PhầnIII: Một số nhận xét , đánh giá và kiến nghị đối với công tác quản lý, sử dụng nguồn tài chính của công ty May Đáp Cầu.
Mặc dù đã có cố gắng song do hạn chế về trình độ và thời gian, chuyên đề không tránh khỏi những hạn chế và sai sót, em xin chân thành mong được sự chỉ bảo góp ý của các thầy cô, các cô chú và anh chị phòng kế toán công ty May Đáp Cầu cùng các bạn đọc.
Qua bài viết này, em xin chân thành cảm ơn cô giáo Kim Thị Hạnh, BGH, các khoa, các phòng ban, cùng các thầy cô giáo trong trường, ban giám đốc, các cô chú phòng kế toán của công ty May Đáp Cầu đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề của mình .
Sinh viên
Nguyễn Thị Thu Trang
Phần I
Những vấn đề lý luận chung về phân tích, quản lý và sử dụng nguồn Tài Chính Doanh Nghiệp trong nền Kinh Tế Thị Trường .
I. Những vấn đề chung về Tài Chính Doanh Nghiệp
1. Đặc điểm và vai trò của tài chính doanh nghiệp
Đặc điểm
Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường có thể được hiểu là một tổ chức kinh doanh nhằm mục đích kiếm lời có mức vốn không thấp hơn vốn pháp định, do nhà nước quy định cho từng loại hình doanh nghiệp có từ một chủ sở hữu trở lên và chủ sở hữu phải đảm bảo trước pháp luật bằng toàn bộ tài sản của mình .
Trong nền kinh tế thị trường, do các quan hệ cung cầu về hàng hoá, dịch vụ, sức lao động, vốn, được phát triển rất mạnh, nên các loại hình doanh nghiệp cũng trở nên hết sức phong phú. Tuy nhiên, cho dù là loại hình doanh nghiệp nào trước khi đi vào hoạt động cũng đều phải sử dụng một công cụ chung nhất là tài chính doanh nghiệp.
Khi nền kinh tế thị trường càng phát triển, sự vận động và chuyển hoá qua lại giữa các nguồn tài chính, nơi hình thành nên sức mua tài chính, thị trường vốn càng trở nên sôi động thì quan hệ tài chính doanh nghiệp cũng trở nên phong phú và đa dạng. Vì vậy tài chính doanh nghiệp có các quan hệ sau :
a.1) Xét trên phạm vi hoat động thì tài chính doanh nghiệp gồm:
Quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp với nhà nước
Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với thị trường
Quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp
a.2) Xét về mặt kinh tế, tài chính doanh nghiệp bao gồm:
Các quan hệ tài chính nhằm mục đích khai thác, thu hút vốn
Các quan hệ tài chính về đầu tư, sử dụng vốn kinh doanh
Các quan hệ về tài chính phân phối, thu nhập và lợi nhuận
Cho dù có những cách phânloại khác nhau nhưng quan hệ tài chính được diễn ra trên các phạm vi gắn với địa chỉ khác nhau, chứa đựng những nội dung kinh tế khác nhau. Song tất cả các mối quan hệ đều có những đặc điểm chung giống nhau đó là :
+ Phản ánh những luồng chuyển dịch giá trị, sự vận động của các nguồn tài chính nảy sinh và gắn liền với hoạt động SXKD của doanh nghiệp
+Sự vận động, chuyển hoá các nguồn lực trong kinh doanh không phải là hỗn loạn mà được điều chỉnh bằng hệ thống các quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị thông qua việc tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ, các loại vốn kinh doanh nhất định của doanh nghiệp.
Mục tiêu cuối cùng của mọi quá trình kinh doanh là nhằm thu được lợi nhuận, vì thế bên cạnh khả năng phân phối để thoả mãn cung cầu về vốn kinh doanh, tài chính doanh nghiệp còn có một số khả năng khác để giám sát, dự báo tính hiệu quả của quá trình phân phối.
b) Vai trò
Vai trò của tài chính doanh nghiệp sẽ trở nên tích cực hay thụ động thậm chí có thể là tiêu cực đối với kinh doanh trước hết phụ thuộc vào khả năng, trình độ của người quản lý, sau đó nó còn phụ thuộc vào cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô, sự can thiệp và phương thức can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế.
Song song với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhà nước đã có hàng loạt chính sách đổi mới nhằm xoá bỏ cơ chế quan liêu bao cấp xác lập một cơ chế quản lý năng động. Trong điều kiện đó, vai trò của tài chính doanh nghiệp ngày càng được đề cao đối với hoạt động SXKD của doanh nghiệp và nó có những vai trò chủ yếu sau:
Một là, TCDN là một công cụ khai thác, thu hút các nguồn tài chính nhằm đảm bảo nhu cầu đầu tư phát triển của doanh nghiệp.
Hai là, TCDN có vai trò trong việc sử dụng vốn một cách tiết kiệm và hiệu quả .
Ba là, TCDN có vai trò đòn bẩy kích thích và điều tiết SXKD
Bốn là ,TCDN là công cụ quan trọng để kiểm tra các hoạt động SXKD của doanh nghiệp.
2. Những nguyên tắc tổ chức tài chính doanh nghiệp
Để sử dụng tốt công cụ tài chính, phát huy vai trò tích cực của chúng trong SXKD, cần thiết phải tổ chức tài chính. Tổ chức tài chính và việc hoạch định chiến lược về sử dụng tài chính và hệ thống các biện pháp để thực hiện chiến lược đó nhằm đạt được các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Tổ chức tài chính doanh nghiệp phải dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất, nguyên tắc tôn trọng pháp luật.
Thứ hai, tổ chức tài chính doanh nghiệp phải tôn trọng nguyên tắc hạch toán kinh doanh.
Thứ ba, công tác tổ chức tài chính doanh nghiệp phải luôn luôn giữ chữ tín.
Thứ tư, công tác tổ chức tài chính doanh nghiệp cần phải giữ nguyên tắc an toàn, phòng ngừa những rủi ro bất trắc .
3. Một số phạm trù về tài chính doanh nghiệp và các khái niệm liên quan đến TCDN
Căn cứ vào đặc điểm hình thành và sử dụng các nguồn lực gắn liền với các hoạt động, về cơ bản ở nước ta hiện nay có các hệ thống về tài chính như sau:
a.1) Tài chính nhà nước
Bao gồm ngân sách nhà nước, tín dụng nhà nước và các quỹ ngoài ngân sách, những quỹ này được hình thành có liên quan đến chức năng của nhà nước .
Nguồn hình thành tài chính doanh nghiệp là huy động các khâu tài chính khác và nhận việm trợ, vay của nước ngoài .
Tài chính nhà nước sử dụng để đáp ứng nhu cầu của bộ máy hành chính nhà nước, chi cho an ninh quốc phòng, thực hiện chức năng quản lý kinh tế –xã hội .
Tài chính nhà nước có vai trò rất quan trọng là khâu tài chính mang tính chất chỉ đạo và tổ chức của toàn bộ hệ thống tài chính.
Về hoạt động thu chi của tài chính nhà nước chủ yếu dựa trên cơ sở quyền lực chính trị của mình, vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế –xã hội.
a.2) Tài chính của các tổ chức tài chính
Là tổ chức tài chính của các doanh nghiệp với chức năng là sản xuất và kinh doanh tạo ra sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Đây là những tụ điểm tài chính quan trọng tích tụ và tập trung các nguồn tài chính gắn liền với quá trình SXKD của các doanh nghiệp.
- Hoạt động tài chính đóng vai trò như những thiết bị có khả năng tái tạo cho các nguồn tài chính.
- Tài chính doanh nghiệp có quan hệ hữu cơ với các khâu tài chính khác, nó thể hiện ở việc nộp thuế, nộp ngân sách, trả lãi, …
a.3) Tài chính của các tổ chức phi tài chính
Còn gọi là tổ chức tài chính của các tổ chức tài chính trung gian bao gồm: các ngân hàng thương mại, các quỹ tín dụng, các công ty bảo hiểm .
Hoạt động của các tổ chức này gắn liền với các hoạt động môi giới, nhằm biến nguồn tài chính nhàn rỗi trong xã hội thành những nguồn vốn cho các chủ thể kinh tế.
a.4) Tài chính của các tổ chức xã hội (tín dụng )
Là tụ điểm vốn gắn liền với hoạt động của các tổ chức xã hội .
- Nguồn thu của khâu tài chính này chủ yếu là kinh phí đóng góp của các hội viên, do quyên góp, ủng hộ và ngân sách hỗ trợ .
- Quỹ tiền tệ được sử dụng trong mục đích chi tiêu trong những hoạt động của tổ chức đó.
a.5)Tài chính của các hộ gia đình
Tài chính của các hộ gia đình cũng là một tụ điểm vốn rất quan trọng , nó không chỉ đáp ứng vào việc góp vốn đầu tư kinh doanh , nó còn là một trong những yếu tố thực hiện các chính sách định hướng và tích luỹ, tiêu dùng của nhà nước.
Tài chính hộ gia đình thường có quy mô nhỏ nhưng đối với xã hội thì đây là một khâu tài chính rất quan trọng của đất nước .
Các khái niệm liên quan đến tình hình tài chính doanh nghiệp
- Khái niệm về tài chính doanh nghiệp : TCDN là hệ thống những quan hệ kinh tế biểu hiện dưới hình thức giá trị phát sinh trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp. Đó là các quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với nhà nước, với các khâu tài chính trung gian trong hệ thống tài chính, với các doanh nghiệp khác và các tổ chức kinh tế, với các đơn vị nội bộ doanh nghiệp,…. để phục vụ cho nhu cầu SXKD của doanh nghiệp, và các nhu cầu chung của xã hội .
- Khái niệm về hoạt động tài chính doanh nghiệp: hoạt động TCDN là một trong những nội dung cơ bản thuộc hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhằm giải quyết các mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ.
Nói cách khác, hoạt động tài chính doanh nghiệp là tất cả các hoạt động liên quan đến việc tạo lập hoạt động tài chính doanh nghiệp là đối tượng của quản trị TCDN, hoạt động này nhằm thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp đó là tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá trị của doanh nghiệp, mục tiêu về tăng trưởng và phát triển. Đặc biệt hoạt động tài chính doanh nghiệp cần phải tập trung trả lời được những câu hỏi sau:
+ Doanh nghiệp huy động vốn ở đâu? Vào thời điểm nào? Và như thế nào?
+ Doanh nghiệp đầu tư vốn vào đâu ? Thời điểm nào? Như thế nào ?
+ Lợi nhuận của doanh nghiệp được sử dụng ra sao ?
- Khái niệm về phân tích tài chính doanh nghiệp : phân tích TCDN là việc thu thập và xử lý các thông tin trong quản lý doanh nghiệp nói chung và quản lý TCND nói riêng nhằm để xem xét kiểm tra, đối chiếu, đánh giá tình hình tài chính, khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp cũng như quá trình hoạt động SXKD, giúp cho các nhà quản lý đưa ra các quyết định phù hợp.
Phân tích TCDN mà trọng tâm là phântích các báo cáo tài chính doanh nghiệp, các chỉ tiêu tài chính đặc trưng thông qua một hệ thống các phương pháp và công cụ phân tích giúp người sử dụng thông tin từ nhiều góc độ khác nhau. Đánh giá một cách tổng hợp, toàn diện vừa khái quát vừa chi tiết toàn bộ thực trạng tài chính doanh nghiệp .
4. Cách phân biệt nguồn tài chính doanh nghiệp
Nguồn tài chính doanh nghiệp là toàn bộ tất cả những gì bao trùm lên DN, kể từ khi bắt đầu thành lập. Vì vậy chỉ có một cách duy nhất để phân biệt và đánh giá nguồn TCDN đó là căn cứ vào các chỉ tiêu cụ thể trong hệ thống báo cáo tài chính của doanh nghiệp gồm các chỉ tiêu trong :
Bảng cân đối kế toán.
Bảng kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Bảng báo cáo lưu chuyển tiền tệ .
Bảng thuyết minh các báo cáo tài chính .
II. Những nội dung cơ bản của Tài Chính Doanh Nghiệp
Trong nền tinh tế thị trường, hoạt động tài chính doanh nghiệp có một vị trí quan trọng đặc biệt, chi phối tất cả các khâu trong quá trình kinh doanh của một doanh nghiệp .
Tuỳ loại hình doanh nghiệp mà có những nội dung hoạt động tài chính khác nhau. Sau đây là những nội dung chủ yếu của hoạt động tài chính trong doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp SXKD.
1.Quản lý và sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp
Trong nội dung hoạt động của tài chính doanh nghiệp, quản lý sử dụng vốn kinh doanh là khâu quan trọng nhất, có tính chất quyết định tới mức độ tăng trưởng hoặc suy thoái của doanh nghiệp. Quản lý sử dụng vốn bao gồm nhiều khâu như: xác định nhu cầu vốn kinh doanh, khai thác tạo lập vốn kinh doanh, đầu tư, sử dụng và bảo toàn vốn kinh doanh. Trước khi đi vào những nội dung cụ thể thì ta cần phải hiểu về vốn kinh doanh và những đặc trưng của nó trong quá trình vận động .
Vốn kinh doanh và những đặc trưng của nó
Để tiến hành bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào cũng cần phải có vốn, trong nền kinh tế thị trường, vốn là điều kiện tiên quyết có ý nghĩa quyết định tới các bước tiếp theo của quá trình kinh doanh.Vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp là một laọi quỹ tiền tệ đặc biệt, mục tiêu của quỹ là phục vụ SXKD, tức là mục đích tích luỹ. Muốn có vốn thì phải có tiền, tiền được gọi là vốn khi thoả mãn các điều kiện sau:
Một là, tiền phải được đại diện cho một lượng hàng hoá nhất định, hay nói cách khác tiền phải được đảm bảo bằng một lượng hàng hoá có thực.
Hai là, tiền phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định.
Ba là, khi đã có đủ số lượng, tiền phải được vận động nhằm mục đích sinh lời .
Trên góc độ kinh tế thị trường, giá trị thực của một doanh nghiệp không phải chỉ là phép cộng đơn giản của các loại vốn cố định và vốn lưu động hiện có mà điều quan trọng hơn còn là giá trị cuả những tài sản khác và khả năng sinh lời của doanh nghiệp ta có thể gọi chung là những tài sản vô hình .
Đầu tư vốn kinh doanh
Theo quan nịêm truyền thống “vốn đầu tư” được quan niệm là số vốn được dùng vào việc mua sắm TSCĐ, hoặc xây lắp các công trình để tạo ra TSCĐ cho doanh nghiệp. Từ đó “đầu tư vốn ” cũng được quan niệm là việc bỏ vốn vào lĩnh vực xây dựng cơ bản, nó là một khoản đầu tư lớn nhưng với mục đích kinh doanh của doanh nghiệp thì đó không phải là tất cả. Vì vậy, trong nền kinh tế thị trường, thì “vốn đầu tư”và “đầu tư vốn” phải được quan niệm trên một bình diện rộng .
Căn cứ vào mục đích kinh doanh của doanh nghiệp, “vốn đầu tư” được đồng nghĩa với vốn kinh doanh. Đó là số vốn được dùng vào kinh doanh trong một lĩnh vực nhất định nhằm mục đích sinh lời, còn “đầu tư vốn” là hoạt động chủ quan có cân nhắc của người quản lý trong việc bỏ vốn vào mục tiêu kinh doanh nào đó với hy vọng là sẽ đưa lại hiệu quả kinh tế cao trong trong tương lai .
Đối với các doanh nghiệp sản xuất, thông thường có hai hướng đầu tư chủ yếu là đầu tư vào bên trong và đầu tư ra bên ngoài. Nó có thể là dài hạn hay ngắn hạn.
Đầu tư bên trong: là những khoản đầu tư vốn để mua sắm các yếu tố của quá trình sản xuất khi bắt đầu thành lập doanh nghiệp như: xây dựng, mua sắm TSCĐ, nguyên vật liệu, tiền thuê mướn nhân công, các chi phí về thủ tục kinh doanh…..
Đầu tư ra bên ngoài (hay còn gọi là đầu tư tài chính ): thường được tiến hành dưới các hình thức góp vốn cùng liên doanh với một doanh nghiệp khác, đầu tư mua cổ phiếu, trái phiếu. Trong nền kinh tế thị trường, việc các doanh nghiệp đầu tư ra bên ngoài không chỉ nhằm mục đích là thu lợi mà còn nhằm mục đích đảm bảo an toàn của vốn, để từ đó có thể san sẻ trách nhiệm rủi ro (nếu có) cho các đơn vị khác cùng gánh chịu .
Dù là đầu tư bên trong hay bên ngoài, người quản lý doanh nghiệp luôn phải quan tâm đến vấn đề “tiếp thị” tức là phải thăm dò, phân tích lựa chọn các phương án đầu tư để đi đến các quyết định tài chính, khi đề ra một quyết định tài chính, người quản lý phải lưu ý các yếu tố sau:
Khả năng doanh lợi có thể đạt được và thời gian thu hồi vốn .
Dự kiến chủng loại và số lượng sản phẩm sẽ sản xuất và khả năng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường .
Khả năng cung cấp nguyên vật liệu cho sản xuất .
Lựa chọn công nghệ thích hợp .
Lựa chọn ngân hàng giao dịch.
Cuối cùng tổng hợp nhu cầu vốn cần được đầu tư. Căn cứ vào các quyết định tài chính trên, nhà quản lý có thể đưa ra các phương án đầu tư, hướng đầu tư cụ thể cho doanh nghiệp mình một cách hiệu quả nhất .
Nguồn vốn kinh doanh và giải pháp huy động
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp có thể được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Tuy nhiên, mỗi loại hình doanh nghiệp cũng chỉ có thể khai thác, huy động vốn trên một số nguồn nhất định. Vì thế, người ta có thể căn cứ vào nguồn hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp để nhận biết doanh nghiệp đó thuộc loại nào. Nhưng với bất kỳ một doanh nghiệp thuộc loại hình nào thì vốn kinh doanh của chúng cũng được huy động, khai thác từ những nguồn sau :
* Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước : Nguồn vốn này được cấp phát cho các doanh nghiệp công-doanh nghiệp nhà nước, nó được hình thành từ quỹ tích luỹ của ngân sách và được dùng vào mục đích chỉ phát triển kinh tế.
Trong thời kỳ bao cấp, hầu như toàn bộ vốn kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước là do ngân sách nhà nước cấp, do nguyên nhân đó đã gây tâm lý ỷ lại, trông chờ. Từ đó, làm suy giảm tính năng động của các doanh nghiệp trong việc chủ động khai thác các nguồn vốn cũng như tìm kiếm các giải pháp để bảo toàn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả .
Ngày nay, khi kinh tế thị trường mở cửa, khuyến khích các thành phần kinh tế tư nhân, nhà nước có chính sách thu hẹp phạm vi hỗ trợ vốn và quy mô cổ phần hoá hầu hết các doanh nghiệp quốc doanh. Vì thế, nguồn cấp phát của ngân sách nhà nước có xu hướng giảm. Các doanh nghiệp chủ động bổ sung phần thiếu hụt bằng các nguồn tài trợ khác.
* Nguồn vốn tự có: Là nguồn vốn do cá nhân chủ doanh nghiệp tự bỏ ra để đầu tư kinh doanh. Nó có thể được huy động từ bạn bè, những gì để dành, tiết kiệm trong ngân sách gia đình …..hoặc cổ phần bằng hình thức phát hành cổ phiếu. Theo luật kinh doanh, để được kinh doanh trong một lĩnh vực nhất định, số vốn tự có của doanh nghiệp phải đạt đến một mức độ tối thiểu, nhưng nó cũng không nên ở mức độ quá lớn vì như thế sẽ là mạo hiểm nếu kinh doanh gặp rủi ro .
* Nguồn vốn liên doanh: Là nguồn vốn đóng góp theo tỷ lệ của các chủ đầu tư để cùng kinh doanh và cùng hưởng lợi nhuận trên phần vốn góp của mình. Khi doanh nghiệp kinh doanh có lãi và ngược lại cũng phải chịu rủi ro chung khi doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ .
* Các nguồn vốn tín dụng : Là các khoản vốn mà doanh nghiệp có thể