Lịch sử ra đời và phát triển của Ngân hàng thương mại gắn liền với quá trình phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá, trước hết nó đáp ứng các nhu cầu về vốn của các cá nhân và tập thể, muốn phát triển sản xuất kinh doanh nhưng lại thiếu vốn, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các Ngân hàng thương mại ngày càng xâm nhập sâu sắc hơn vào mọi hoạt động của nền kinh tế, trở thành một trung gian tài chính quan trọng bậc nhất của mọi nền kinh tế.
Trong các hoạt động của Ngân hàng thì tín dụng đóng vai trò quan trọng. Tín dụng là tài sản chiếm tỷ trọng cao nhất, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động mang lại rủi ro nhất. Vì thế, đảm bảo và nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng vừa là mục tiêu vừa là nhân tố quan trọng để cạnh tranh và phát triển của mỗi Ngân hàng thương mại. Trước mỗi quyết định tài trợ, Ngân hàng luôn phải cân nhắc kỹ lưỡng, ước lượng khả năng rủi ro và sinh lời dựa trên phân tích các khía cạnh tài chính, phi tài chính theo một quy trình nghiệp vụ nghiêm ngặt, mang tính khoa học cao, phân tích tài chính khách hàng là một trong những nội dung đó.
Như vậy, quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và khách hàng (đặc biệt là các Doanh nghiệp) ngày càng gắn bó, tương tác lẫn nhau. Khách hàng không trả được nợ đến hạn, doanh thu của Ngân hàng giảm, ảnh hưởng đến việc cho khách hàng vay vốn, ảnh hưởng đến sự tồn tại của Ngân hàng. Để tránh được những rủi ro tín dụng này, trong quá trình thẩm định cho vay, Ngân hàng cần nâng cao chất lượng khâu phân tích đánh giá tình hình tài chính đối với khách hàng-khâu quyết định xem khách hàng có đủ điều khiện để vay vốn của Ngân hàng không.
Đối với các Ngân hàng thương mại Việt Nam, hoạt động cho vay luôn chiếm tỷ trọng từ 85%-95% doanh thu, tuy nhiên công tác phân tích tín dụng, trong đó có phân tích tình hình tài chính của khách hàng vẫn còn nhiều bất cập dẫn đến hiệu quả cho vay chưa cao, tỷ lệ nợ quá hạn còn cao
Đặc biệt như Ngân hàng thương mại Cổ phần Quân Đội, mặc dù đi vào hoạt động được hơn 10 năm song cán bộ tín dụng là các cán bộ trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm, lại hoạt động trong một nền kinh tế khá phức tạp đang trong quá trình hội nhập. Do vậy, qua thời gian thực tập tại Ngân hàng thương mại Cổ phần Quân Đội, cùng với sự hướng dẫn của thầy giáo Nguyễn Xuân Quang tôi đã chọn đề tài “Phân tích tình hình tài chính Doanh nghiệp phục vụ cho công tác Tín Dụng tại Ngân hàng thương mại Cổ phần Quân Đội ”.
77 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1190 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích tình hình tài chính Doanh nghiệp phục vụ cho công tác Tín Dụng tại Ngân hàng thương mại Cổ phần Quân Đội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử ra đời và phát triển của Ngân hàng thương mại gắn liền với quá trình phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá, trước hết nó đáp ứng các nhu cầu về vốn của các cá nhân và tập thể, muốn phát triển sản xuất kinh doanh nhưng lại thiếu vốn, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các Ngân hàng thương mại ngày càng xâm nhập sâu sắc hơn vào mọi hoạt động của nền kinh tế, trở thành một trung gian tài chính quan trọng bậc nhất của mọi nền kinh tế.
Trong các hoạt động của Ngân hàng thì tín dụng đóng vai trò quan trọng. Tín dụng là tài sản chiếm tỷ trọng cao nhất, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động mang lại rủi ro nhất. Vì thế, đảm bảo và nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng vừa là mục tiêu vừa là nhân tố quan trọng để cạnh tranh và phát triển của mỗi Ngân hàng thương mại. Trước mỗi quyết định tài trợ, Ngân hàng luôn phải cân nhắc kỹ lưỡng, ước lượng khả năng rủi ro và sinh lời dựa trên phân tích các khía cạnh tài chính, phi tài chính theo một quy trình nghiệp vụ nghiêm ngặt, mang tính khoa học cao, phân tích tài chính khách hàng là một trong những nội dung đó.
Như vậy, quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và khách hàng (đặc biệt là các Doanh nghiệp) ngày càng gắn bó, tương tác lẫn nhau. Khách hàng không trả được nợ đến hạn, doanh thu của Ngân hàng giảm, ảnh hưởng đến việc cho khách hàng vay vốn, ảnh hưởng đến sự tồn tại của Ngân hàng. Để tránh được những rủi ro tín dụng này, trong quá trình thẩm định cho vay, Ngân hàng cần nâng cao chất lượng khâu phân tích đánh giá tình hình tài chính đối với khách hàng-khâu quyết định xem khách hàng có đủ điều khiện để vay vốn của Ngân hàng không.
Đối với các Ngân hàng thương mại Việt Nam, hoạt động cho vay luôn chiếm tỷ trọng từ 85%-95% doanh thu, tuy nhiên công tác phân tích tín dụng, trong đó có phân tích tình hình tài chính của khách hàng vẫn còn nhiều bất cập dẫn đến hiệu quả cho vay chưa cao, tỷ lệ nợ quá hạn còn cao…
Đặc biệt như Ngân hàng thương mại Cổ phần Quân Đội, mặc dù đi vào hoạt động được hơn 10 năm song cán bộ tín dụng là các cán bộ trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm, lại hoạt động trong một nền kinh tế khá phức tạp đang trong quá trình hội nhập. Do vậy, qua thời gian thực tập tại Ngân hàng thương mại Cổ phần Quân Đội, cùng với sự hướng dẫn của thầy giáo Nguyễn Xuân Quang tôi đã chọn đề tài “Phân tích tình hình tài chính Doanh nghiệp phục vụ cho công tác Tín Dụng tại Ngân hàng thương mại Cổ phần Quân Đội ”.
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
VÀ HOẠT ĐỘNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH KHÁCH HÀNG
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1.1. Khái niệm, đặc trưng, vai trò của tín dụng Ngân hàng
* Khái niệm
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng, sau một thời gian nhất định quay về với một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu.
Lịch sử phát triển cho thấy, tín dụng là một phạm trù kinh tế và cũng là sản phẩm hàng hoá. Nhưng chính nó lại là động lực quan trọng thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển lên giai đoạn cao hơn. Tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế-xã hội. Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau nhưng đều thể hiện hai nội dung sau:
Thứ nhất: Người sở hữu một số tiền hoặc hàng hoá chuyển giao cho người khác sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định.
Thứ hai: Người sử dụng cam kết hoàn trả số tiền hoặc hàng hoá đó cho người sở hữu với giá trị lớn hơn, phần chênh lệch lớn hơn đó gọi là lợi tức hay tiền lãi.
Quá trình vận động đó được biểu diễn trên sơ đồ sau đây:
Người sử hữu
Người sử dụng
Người cho vay
Người đi vay
Những hành vi tín dụng có thể được diễn ra trực tiếp giữa người thừa vốn cần đầu tư với người cần vốn để sử dụng. Nhưng thực tế hai người này khó có thể phù hợp được với nhau về quy mô, về thời gian nhàn rỗi và thời gian sử dụng vốn, hoặc cũng có thể phù hợp được thì phải tốn kém chi phí tìm kiếm. Nên để thoả mãn được nhu cầu của cả hai người thì cần thiết phải có một người thứ ba đứng ra tập trung được tất cả số vốn của những người tạm thời thừa cần đầu tư lấy lãi, trên cơ sở số vốn tập trung được phân phối cho những người cần vốn để sử dụng dưới hình thức cho vay. Người đó không là ai khác chính là các tổ chức tín dụng, trong đó chủ yếu là các Ngân hàng thương mại, người môi giới tài chính trên thị trường tài chính. Việc các Ngân hàng thương mại tập trung vốn dưới hình thức huy động và phân phối vốn dưới hình thức cho vay được gọi là tín dụng ngân hàng.
* Đặc trưng của tín dụng
Tín dụng là sự cung cấp một lượng giá trị trên cơ sở lòng tin. ở đây người cho vay tin tưởng người đi vay sử dụng vốn vay có hiệu quả sau một thời gian nhất định và do đó có khả năng hoàn trả được cả gốc và lãi đúng thời hạn.
Tín dụng là sự chuyển nhượng một lượng giá trị có thời hạn. Để đảm bảo thu hồi nợ đúng hạn, người cho vay thường xác định rõ thời gian cho vay. Việc xác định thời hạn đó dựa vào:
+ Quá trình luân chuyển vốn của đối tượng vay. Có nghĩa là thời hạn
cho vay phải phù hợp với chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay thì lúc đó người vay mới có điều kiện để trả nợ.
Nếu thời hạn cho vay nhỏ hơn chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay thì khi đến hạn khách hàng chưa có nguồn để trả nợ, sẽ gây khó khăn cho khách hàng. Ngược lại, nếu thời hạn cho vay lớn hơn chu kỳ luân chuyển vốn sẽ tạo điều kiện cho khách hàng sử dụng vốn không đúng mục đích và không có nguồn để trả nợ, nhưng nếu có nguồn thu nhập khác ngoài nguồn thu chính thì có thể trả nợ từ nguồn đó. Vì vậy, thời hạn cho vay không chỉ dựa vào chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay mà còn phải dựa vào tính chất vốn của người cho vay: Nếu vốn của người cho vay ổn định thì thời hạn cho vay có thể dài hơn và ngược lại thì thời hạn cho vay phải ngắn hơn để đảm bảo khả năng thanh toán của Ngân hàng.
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị trên nguyên tắc phải hoàn trả gốc và lãi. Đây là thuộc tính riêng của tín dụng. Vì vốn cho vay của Ngân hàng là vốn huy động của những người tạm thời thừa nên sau một thời gian nhất định Ngân hàng phải trả lại cho người ký thác. Mặt khác, Ngân hàng cần phải có nguồn để bù đắp chi phí hoạt động như: Khấu hao tài sản cố định, trả lương cán bộ công nhân viên, chí phí văn phòng phẩm…nên người vay vốn ngoài việc trả nợ gốc còn phải trả lãi cho Ngân hàng.
* Vai trò của tín dụng Ngân hàng
Trong xã hội luôn có một số người thừa vốn cần đầu tư và một số người thiếu vốn muốn đi vậy. Song những người này khó có thể trực tiếp gặp nhau để cho nhau vay hoặc có thể gặp nhau thì chi phí rất cao và không kịp thời, nên tín dụng Ngân hàng là cầu nối giữa người có vốn cà người cần vốn để giải quyết nhu cầu thoả đáng trong mối quan hệ này.
Nghĩa là tín dụng Ngân hàng thu hút tập trung mọi nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế, dân cư để đầu tư cho quá trình mở rộng sản xuất, tăng trưởng kinh tế, đáp ứng đầy đủ nhu cầu về vốn, thúc đẩy lưu thông hàng hóa, tăng tốc độ chu chuyển vốn cho xã hội, góp phần thúc đẩy tái sản xuất mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển bền vững.
Thông qua tín dụng Ngân hàng, có thể kiểm soát được khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Thực hiện yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ. Mặt khác, tín dụng Ngân hàng còn thúc đẩy các Doanh nghiệp tăng cường chế độ hạch toán kinh doanh, giúp cho các Doanh nghiệp khai thác có hiệu quả tiềm năng kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng thời tín dụng Ngân hàng còn tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài, la cầu nối cho việc giao lưu kinh tế và là phương tiện để thắt chặt mối quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới.
1.1.2. Rủi ro trong hoạt động tín dụng Ngân hàng
Mới được hình thành từ những năm cuối của thập niên. Hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam hoạt động với các nghiệp vụ truyền thống là chủ yếu trong đó tín dụng là hoạt động mang lại thu nhập chủ yếu nhất cho các Ngân hàng. Tuy nhiên, đây cũng là hoạt động rất dễ xảy ra rủi ro và nếu rủi ro xảy ra thường gây những thiệt hại nghiêm trọng đối với Ngân hàng, gây ảnh hưởng tới sự an toàn hoạt động của bản thân Ngân hàng và cả hệ thống Ngân hàng. Qua con số về tỷ lệ nợ quá hạn, tỷ lệ nợ kê đọng lại các Ngân hàng Thương mại trong thời gian qua chứng tỏ rủi ro tín dụng là vấn đề đang cần được quan tâm.
Mặc dù trong thời gian gần đây, tỷ lệ nợ quá hạn và nợ kê đọng của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam đang có xu hướng giảm đáng kể do thực hiện những biện pháp như kiểm soát chặt chẽ chất lượng cho vay, xử lý tài sản bảo đảm tiền vay đối với nợ đọng, trích lập và sử dụng dự hòng rủi ro, … nhưng trong thực tiễn, tiềm ẩn rủi ro đang vẫn lớn do tốc độ gia tăng tín dụng, những biến động phức tạp của giá cả một số loại nguyên nhiên vật liệu đầu vào, xu hướng đầu tư vốn lớn vào thị trường bất động sản, tình trạng ứ đọng trong xây dựng cơ bản…Điều này đã buộc Ngân hàng Nhà nước cũng như các tổ chức tín dụng phải hết sức quan tâm đến chất lượng tín dụng nhằm hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất có thể.
* Khái niệm
Rủi ro tín dụng là những nguy cơ dẫn đến những tổn thất tiềm tàng mà Ngân hàng phải gánh chịu.
Rủi ro tín dụng xảy ra khi người cho vay không trả hoặc không hoàn trả đúng hạn hoặc không trả đầy đủ gốc và lãi cho Ngân hàng.
Như vậy rủi ro tín dụng liên quan đến khả năng trả nợ của khách hàng.
Có hai thể hiện đó là rủi ro mất vốn và rủi ro sai lệch:
+ Với rủi ro mất vốn: coi như Ngân hàng đã bị thiệt hại và làm giảm hiệu quả kinh doanh của mình.
+ Với rủi ro sai lệch: đây cũng được coi là rủi ro vì khi đến hạn khách hàng không trả được nợ cho Ngân hàng dẫn đến xác suất xảy ra khả năng mất vốn la rất cao. Mặt khác, Ngân hàng phải mất thêm những chi phí nhất định đó là chi phí tăng cường, giám sát, tư vấn, đòi nợ hay mất đi những cơ hội đầu tư vào những khoản vay mới, tìm kiếm lợi nhuận mới.
* Nguyên nhân dẫn đến rủi ro
Như vậy rủi ro là luôn luôn đồng hành với hoạt động tín dụng Ngân hàng. Để hạn chế được nó ta phải xem xét các nguyên nhân dẫn đến rủi ro.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro nhưng nhìn chung có những nguyên nhân chính sau:
a) Nguyên nhân chung
Do nền kinh tế suy thoái, sự thiếu nợ đồng bộ, thiếu hợp lý trong chính sách của Nhà nước, những biến động, khủng hoảng Chính trị trong nước và trong khu vực, hoặc do những điều kiện tự nhiên: Khí hậu, bão, lũ lụt….
b) Nguyên nhân từ phía khách hàng
+Đối với khách hàng là cá nhân:
Do sự suy giảm thu nhập làm ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của Doanh nghiệp bao gồm: Thu nhập chu kỳ, thu nhập cơ cấu, công ty phá sản, sức khoẻ giảm, năng lực trình độ kém bị sa thải…hoặc do người vay bị gặp sự cố bất thường trong cuộc sống: tai nạn, ốm đau, li dị hoặc chết.
Rủi ro cũng có thể đến với Ngân hàng khi họ hoạch định ngân quỹ không chính xác, không có sự nhất quán trong việc sử dụng chi tiêu hay cố ý bỏ chốn, lừa đảo Ngân hàng.
+ Đối với khách hàng là Doanh nghiệp:
· Doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh bị thua lỗ, kém hiệu quả.
· Doanh nghiệp sử dụng vốn vay sai mục đích.
· Năng lực quản lý điều hành của Ban lãnh đạo thấp kém, lựa chọn hướng đi chưa phù hợp, sử dụng vốn kém hiệu quả và không có khả năng chống đỡ khi có sự biến động của thị trường.
· Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực, ngành nghề có xu hướng suy thoái. Những doanh nghiệp có chi phí cố định cao sẽ chịu rủi ro cao hoặc Doanh nghiệp vay nợ quá nhiều trong quá khứ. Sự suy giảm này làm giảm lợi nhuận và khả năng trả nợ cho những khoản vay mới là khó khăn.
· Doanh nghiệp gặp rủi ro tài chính: là khả năng của Doanh nghiệp không đối phó được với việc trả nợ do sử dụng vay nợ đầu tư cho tài sản cố định hoặc bị chiếm dụng vốn trong một thời gian dài.
· Doanh nghiệp cố tình lừa dối Ngân hàng: Có những hợp đồng giả mạo, đi mượn tài sản cố định nhằm quảng bá Doanh nghiệp …
c) Nguyên nhân từ phía Ngân hàng
+Do chính sách tín dụng chưa hợp lý: Quá nhiều mục tiêu lợi nhuận, mở rộng quá mức doanh số cho vay; quy chế cho vay, điều khoản cho vay chưa hợp lý; không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ việc phân tích, đánh giá khách hàng trước khi cho vay, trong khi cho vay hoặc sau khi cho vay.
+Thực hiện không tốt công giám sát tín dụng, do thông tin không thu thập đầy đủ hoặc sự sai lệch thông tin.
+Có sơ hở trong việc lập và ký kết các hợp đồng tín dụng. Việc xác định mức cho vay và thời hạn cho vay không hợp lý.
+ Công tác tuyển dụng nhân sự chưa tốt từ khâu tuyển dụng, bố trí sắp xếp, đào tạo dẫn đến trình độ cán bộ yếu kém cả về kỹ năng nghiệp vụ, tầm hiểu biết…
+ Cán bộ Ngân hàng vi phạm đạo đức nghề nghiệp.
+ Ngân hàng không thực hiện tốt các bảo đảm tín dụng, không tuân thủ các quy định pháp lý về tài sản bảo đảm.
d) Nguyên nhân từ bảo đảm tín dụng
+ Với bảo đảm bằng đối vật: do giá trị tài sản bảo đảm giảm giá trị (giảm giá trị thị trường hoặc hao mòn do sử dụng). Ngân hàng có thể gặp rủi ro trong việc tiếp cận, nắm giữ tài sản bảo đảm…
+ Với bảo đảm bằng đối nhân (bảo lãnh): Người bảo lãnh từ chối, không thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
Vậy nguyên nhân đến với Ngân hàng chủ yếu là do các nhóm trên. Song tựu chung lại, dù nguyên nhân đến với Ngân hàng từ phía nào thì chủ yếu cũng do công tác hoạch định chiến lược, kiểm soát của Ban lãnh đạo Ngân hàng cũng như trình độ yếu kém cả về năng lực và đạo đức của cán bộ tín dụng, việc thẩm định đánh giá khách hàng không tốt. Nên để giảm thiểu rủi ro tín dụng, những vấn đề trên thường xuyên được khắc phục, củng cố và nâng cao hiệu quả của hoạt động tín dụng.
1.2 PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VAY VỐN TAỊ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.2.1. Khái niệm và vai trò
* Khái niệm
- Có thể hiểu phân tích tài chính khách hàng đối với NHTM là một tập hợp các khái niệm, phương pháp và công cụ cho phép thu thập xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác nhằm đánh giá tình hình tài chính khả nămg và tiềm lực của khách hàng giúp Ngân hàng đa ra quyết định tài trợ.
- Phân tích tình hình tài chính khách hàng tại các NHTM nhằm xác định đợc các mục tiêu sau:
+ Xác định rõ hiện trạng tài chính của khách hàng : giá trị tài sản, tình hình nợ, nhu cầu tài trợ, khả năng thành toán…
+ Dự báo về tài chính trong tơng lai của khách hàng: khả năng hoạt động kinh doanh, khả năng sinh lời, khả năng hoàn trả nợ vay….
+ Dự đoán được những trờng hợp xấu có thể xảy ra làm giảm khả năng trả nợ của khách hàng.
* Vai trò của hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp.
Đứng trước thực trang cho vay là nghiệp vụ chủ yếu mang lại lợi nhuận cao nhất cho Ngân hàng mà rủi ro tín dụng thì luôn thường trực, hơn nữa lại diễn ra hết sức phức tạp khó phòng tránh nên việc cho vay đối với các Ngân hàng Thương mại luôn phải được thực hiện theo một quy trình chặt chẽ với những bước phân tích tỉ mỉ về các mặt tài chính, phi tài chính của khách hàng. Kết quả của những phân tích này cho thấy khả năng sinh lời, mức độ rủi ro của phương án hay dự án sử dụng vốn vay, có ảnh hưởng trực tiếp tới quyết định cho vay hay không của Ngân hàng. Do đó, việc phân tích tài chính khách hàng có vai trò rất quan trọng.
Mặt khác, trên thực tế việc xác định các nhân tố: năng lực pháp lý của khách hàng, uy tín của người vay vốn, đánh giá năng lực điều hành sản xuất kinh doanh của ban lãnh đạo Doanh nghiệp, triển vọng của Doanh nghiệp… là rất phức tạp, nó mang tính chất định tính. Vì vậy, những thông tin tài chính định lượng là rất quan trọng đối với ngân hàng trong đánh giá, lựa chọn khách hàng. Phân tích tình hình tài chính của khách hàng cho Ngân hàng quyết định có cho khách hàng vay vốn hay không, nếu có thì xác định các yếu tố về lượng của nhu cầu vay vốn tín dụng, xác định thời hạn hợp lý của khoản vay, xác định các kỳ hạn trả nợ…đối với từng khách hàng. Như vậy phân tích tài chính khách hàng không chỉ là nhu cầu mà còn là đòi hỏi bắt buộc đối với mỗi Ngân hàng Thương mại.
1.2.2 Các thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp
Có rất nhiều nguồn thông tin để phân tích, đánh giá tình hình tài chính DN. Nếu thông tin càng đầy đủ, chính xác thì kết quả phân tích mới đáng tin cậy.
Nguồn thông tin bao gồm:
A). Thông tin từ bên trong DN: Thông tin từ bên trong doanh nghiệp chủ yếu là các báo cáo tài chính mà doanh nghiệp gửi lên cho Ngân hàng vào cuối mỗi kỳ kinh doanh, hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp được cụ thể hoá qua các chỉ tiêu tài chính
Các thông tin đó là:
1. Bảng cân đối kế toán (BCĐKT)
Là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát toàn bộ giá trị tài sản hiện có và nguồn hình thành nên tài sản đó của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định.
Kết cấu của bảng cân đối kế toán gồm 2 phần:
- Phần tài sản: Phản ánh toàn bộ giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp, bào gồm: Tài sản ngắn hạn (loại A) và tài sản dài hạn ( loại B). Mỗi loại đó lại bao gồm nhiều chỉ tiêu khác nhau được sắp xếp theo một trình tự phù hợp với yêu cầu của công tác quản lý trong từng giai đoạn. Xét về mặt kinh tế, các chỉ tiêu ở phần này phản ánh số tài sản hiện có của doanh nghiệp ở thời điểm lập báo cáo, còn xét về mặt pháp lý nó phản ánh vốn thuộc quyển sở hữu và quyền quản lý lâu dài của doanh nghiệp.
- Phần nguồn vốn: Phản ánh nguồn hình thành nên các tài sản, bao gồm: Nợ phải trả (loại A) và vốn chủ sở hữu (loại B). Mỗi loại A và B lại bao gồm các chỉ tiêu khác nhau và cũng được sắp xếp theo một trình tự thích hợp với yêu cầu của công tác quản lý. Xét về mặt kinh tế, các chỉ tiêu thuộc phần nguồn vốn phản ánh các nguồn hình thành nên tài sản có của Doanh nghiệp; Còn xét về phương diện pháp lý, các chỉ tiêu này phản ánh trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp đối với các đối tượng đầu tư vốn (Nhà nước, ngân hàng, cổ đông), cũng như với khách hàng thông qua công nợ phảI trả.
Bảng cân đối kế toán có những đặc điểm như sau:
+) Các chỉ tiêu trong bảng cân đối kế toán được phản ánh dưới hình tháI giá trị. Cho nên, ta có thể tổng hợp được toàn bộ tài sản của doanh nghiệp tại một thời điểm. Từ đó, cho phép ta đánh giá kháI quát tình hình tài chính qua các chỉ tiêu trên.
+) Các chỉ tiêu trong bảng cân đối kế toán được phản ánh tại một thời điểm nhất định, thời điểm đó thường là vào ngày cuối cùng của kỳ hạch toán. Căn cứ vào hai số liệu ở hai thời điểm đầu năm và cuối kỳ cho phép ta đánh giá những biến động của tài sản và nguồn vốn giữa các kỳ kế toán.
+) Bảng cân đối kế toán có kết cấu 2 phần, thực chất là phản ánh tính hai mặt của một lượng tài sản, cho nên tổng tài sản luôn bằng tổng nguồn vốn, tức là:
Tài sản = Nguồn vốn
Hay: Tài sản = Nợ phải trả + Vốn chủ sở hữu
Hoặc: Vốn chủ sở hữu = Tài sản – Nợ phải trả.
Như vậy, thông qua bảng cân đối kế toán, ta có thể biết được toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp, hình tháI vật chất, cơ cấu của tài sản, nguồn vốn và cơ cấu nguồn vốn. Do đó, bảng cân đối kế toán là một tài liệu quan trọng để nghiên cứu đánh giá một cách tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh, trình độ sử dụng vốn và những triển vọng kinh tế, tài chính của doanh nghiệp.
(Bảng cân đối kế toán (biểu B01-DN) hình 1- phần phụ lục)
2. Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh:
Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh là báo cáo tổng hợp cho biết tình hình tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh của khách hàng tại những thời kì nhất định. nó cung cấp các thông tin tổng hợp về tình hình tài chính và kết quả sử dụng các tiềm năng về sử dụng vốn, lao động, kĩ thuật và trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của khách hàng. đồng thời nó cũng giúp phân tích so sánh được doanh thu và số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng, dịch vụ với tổng chi phí phát sinh và số tiền thực xuất quỹ để thực hiện kinh doanh. Ngoài ra theo quy định của Việt Nam, báo cáo thu nhập còn có thêm phần kê khai tình hình thực hiện nghĩa vụ của khách hàng đối với ngân sách nhà nước và tình hình thực hiện thuế giá trị gia tăng-VAT.
Hạn chế của báo cáo thu nhập là kết quả thu nhập sẽ lệ thuộc rất nhiều vào quan điểm của kế toán trong quà trình hạch toán. Đồng thời cũng do nguyên tắc kế toán về ghi nhận doanh thu, theo đó doanh thu đợc ghi nhận khi nghiệp vụ mua bán hoàn thành tức là khi sở hữu hàng hoá có thể xảy ra vào một thời điểm khác, nhược điểm này dẫn đến sự cần thiết của báo cáo lưu chuyển tiền t