Quan hệ ngoại giao giữa Mỹ và Việt Nam chính thức được thiết lậpvào ngày 12/7/1995. Mười ba năm chưa phải là dài, nhưng trong quãng thời gian đó, quan hệ hai nước ngày càng được cải thiện và có sự phát triển đáng khích lệ. Kết quả đạt được từ sự nỗ lực phấn đấu của hai bên trong thời gian qua có thể chưa đáp ứng được sự trông đợi của nhân dân hai nước, song nếu nhìn lại chặng đường đã đi thì 13 năm qua quả thật là một bước tiến dài có ý nghĩa trong quan hệ hai nước.
Tuy nhiên, trong quan hệ Mỹ - Việt Nam vẫn có một số khó khăn cần được tháo gỡ và giải quyết. Bởi vậy, nhằm đề xuất một số giải pháp để thoá gỡ, phát huy và gìn giữ những gì tốt đẹp nhất giữa hai nước, tôi quyết định lựa chọn đề tài này.
38 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 6136 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Mở đầu
Chương 1: Những nhân tố cơ bản tác động đến quan hệ Mỹ - Việt Nam
Tình hình thế giới
Khái quát về quan hệ Mỹ - Việt Nam trước năm 1995
Chính sách đối ngoại của hai nước
Chính sách đối ngoại của Mỹ sau Chiến tranh lạnh
Chính sách đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
Chương 2: Về thực tiễn quan hệ Mỹ - Việt Nam từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay
2.1 Trong lĩnh vực Chính trị - Ngoại giao
2.2 Trong lĩnh vực Kinh tế - Thương mại
2.3 Trong lĩnh vực khác
Chương 3: Triển vọng về quan hệ Mỹ - Việt Nam và một số kiến nghị
3.1 Một số nhận xét về quan hệ Mỹ - Việt Nam trong thời gian qua
(Từ tháng 7/1995 đến tháng 5/2008)
3.2 Triển vọng
Kết luận
Tài liệu tham khảo
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Quan hệ ngoại giao giữa Mỹ và Việt Nam chính thức được thiết lậpvào ngày 12/7/1995. Mười ba năm chưa phải là dài, nhưng trong quãng thời gian đó, quan hệ hai nước ngày càng được cải thiện và có sự phát triển đáng khích lệ. Kết quả đạt được từ sự nỗ lực phấn đấu của hai bên trong thời gian qua có thể chưa đáp ứng được sự trông đợi của nhân dân hai nước, song nếu nhìn lại chặng đường đã đi thì 13 năm qua quả thật là một bước tiến dài có ý nghĩa trong quan hệ hai nước.
Tuy nhiên, trong quan hệ Mỹ - Việt Nam vẫn có một số khó khăn cần được tháo gỡ và giải quyết. Bởi vậy, nhằm đề xuất một số giải pháp để thoá gỡ, phát huy và gìn giữ những gì tốt đẹp nhất giữa hai nước, tôi quyết định lựa chọn đề tài này.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề quan hệ giữa Việt Nam với các nước lớn trên thế giới nói chung, quan hệ với Mỹ nói riêng. Đây là mối quan hệ thu hút được rất nhiều sự quan tâm của các nhà lãnh đạo, các học giả, các doanh nghiệp, và nhân dân Mỹ cũng như Việt Nam nên có khá nhiều công trình nghiên cứu về đề tài này: “Đẩy mạnh quan hệ với khu vực Châu Mỹ”, trong tập kỷ yếu Hội thảo kỷ niệm 60 năm thành lập ngành Ngoại giao; “Ngoại giao Việt Nam (1945 – 2000)” của Bộ Ngoại giao; “Sự phát triển quan hệ Việt Nam - Mỹ 10 năm nhìn lại” của Lê Công Phụng; “Xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ - thực trạng và triển vọng” của Nguyễn Văn Bình.
Trên cơ sở thừa kế kết quả đã được công bố và góc độ nghiên cứu bộ môn quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại, tiểu luận “Quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay” (tháng 7/1995 – tháng 5/2008) xin đóng góp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu một số vấn đề nổi bật giữa Mỹ và Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay, nhằm tìm hiểu sâu về mối quan hệ này trên một số lĩnh vực nổi bật như: kinh tế, chính trị, văn hoá,... Để từ đó có một số đề xuất nhằm cải thiện, và phát huy mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để hoàn thành tiểu luận này, cần làm sáng tỏ ba nội dung chính:
Những nhân tố cơ bản tác động đến quan hệ Mỹ - Việt Nam
Thực tiễn mối quan hệ Mỹ - Việt Nam từ khi bình thường hoá quqn hệ đến nay
Nêu dự đoán về triển vọng quan hệ Mỹ - Việt Nam trong tương lai và đưa ra một số kiến nghị
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là mối quan hệ Mỹ - Việt Nam từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay.
Nhìn chung, mối quan hệ này bao gồm nhiều lĩnh vực, khía cạnh khác nhau nhưng tiểu luận chỉ xin nghiên cứu một số lĩnh vực nổi bật trong mối quan hệ này. Để từ đó nêu ra một số kiến nghị cũng như biện pháp giúp cải thiện mối quan hệ giữa hai nước.
Phạm vi nghiên cứu bao gồm chính sách đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ mới, chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ sau chiến tranh lạnh.
Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
- Vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử vào trong các luận điểm nghiên cứu , phân tích và chứng minh các khía cạnh khác nhau của đề tài.
- Đề tài vận dụng các nghị quyết và văn kiện của Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam qua các thời kỳ.
Thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cùng với cơ sở lý luận trên, tiểu luận còn dùng hai phương pháp chủ yếu là: phương pháp lôgíc và phương pháp lịch sử. Thêm vào đó, tiểu luận còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: tìm hiểu, tham khảo sách báo về thực tiễn quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam; chọn lọc, xử lý, phân loại thông tin đã tập hợp được kết hợp với các phương pháp so sánh, đố chiếu, quy nạp, diễn giải,...
Đóng góp của đề tài
- Tổng hợp những tài liệu có liên quan đến mối quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ.
- Hệ thống hoá về mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam trong chính sách của mỗi nước.
Ý nghĩa thực tiễn của tiểu luận
Việc nghiên cứu này góp phần tạo luận cứ hoạch định chính sách của Việt Nam và Mỹ dành cho nhau; bổ sung tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và học tập chuyên ngành Thông tin đối ngoại của sinh viên khoa Quan hệ quốc tế.
Kết cấu của tiểu luận
Tiểu luận gồm 3 chương:
- Chương 1: Những nhân tố cơ bản tác động đến quan hệ Mỹ - Việt Nam
- Chương 2: Về thực tiễn quan hệ Mỹ - Việt Nam từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay )
- Chương 3: Triển vọng về quan hệ Mỹ - Việt Nam và một số kiến nghị
Cùng với phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.
Tiểu luận này được thực thực hiện trong tháng 5 năm 2008.
CHƯƠNG 1
NHỮNG NHÂN TỐ CƠ BẢN TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ MỸ - VIỆT NAM
Tình hình thế giới
Tình hình thế giới sau chiến tranh lạnh ở trong trạng thái vận hành rất phức tạp. Có thể nói, thế giới đang ở trong một buổi giao thời đầy biến động, đầy bắt trắc và khó xác định. Song có thể khái quát tình hình đó dưới 6 đặc điểm và 5 xu thế như sau:
6 đặc điểm:
Đặc điểm thứ nhất: Chủ nghĩa xã hội hiện thực, Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đang ở thời kỳ thoái trào, nhưng những mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn tồn tại và phát triển dưới nhiều hình thức mới.
Đặc điểm thứ hai: Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại có bước phát triển nhảy vọt, đạt được những thành tựu to lớn. Các nước lớn và các nước nhỏ đều đứng trước nguy cơ thách thức, do đó đều phải điều chỉnh chiến lược vàquốc sách của mình.
Đặc điểm thứ ba: Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, xu thế này đang bị một số nước đang phát triển và các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh.
Đặc điểm thứ tư: Nguy cơ chiến tranh huỷ diệt bị đẩy lùi, song chiến tranh cục bộ, xung đột dân tộc, sắc tộc tôn giáo, chạy đua vũ trang vẫn xảy ra ở nhiều nơi làm tình hình ở một số khu vực trở nên rất căng thẳng.
Đặc điểm thứ năm: Quan hệ giữa các nước lớn – nhân tố ảnh hưởng to lớn đến quan hệ thế giới.
Đặc điểm thứ sáu: Nhân loại đang đứng trước những vấn đề toàn cầu hết sức bức xúc (ô nhiễm môi trường, bùng nổ dân số, nạn ma tuý, nạn khủng bố quốc tế, nạn đói và nạn bệnh tật, nhất là bệnh AIDS...) đòi hỏi phải có sự hợp tác chung của cộng đồng quốc tế để từng bước giải quyết.
Cùng với những đặc điểm chủ yếu trên, thế giới vận động theo nhiều xu thế đan xen phức tạp, trong đó nổi lên các xu thế cơ bảntrong quan hệ quốc tế sau:
Xu thế thứ nhất: Hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển là một xu thế lớn, phản ánh những đòi hỏi bức xúc của các dân tộc trên thế giới.
Xu thế thứ hai: Các quốc gia lớn, nhỏ ngày càng tham gia nhiều vào quá trình hợp tác, liên kết khu vực và quốc tế về kinh tế, chính trị, thương mại và nhiều lĩnh vực khác. Hợp tác ngày càng tăng nhưng cạnh tranh cũng rất gay gắt, quyết liệt.
Xu thế thứ ba: Các dân tộc nâng cao ý thức độc lập tự chủ, tự cường, đấu tranh chống can thiệp của nước ngoài, bảo vệ độc lập chủ quyền và nền văn hoá dân tộc, đồng thời mở rộng quan hệ quốc tế.
Xu thế thứ tư: Các nước Xã hội chủ nghĩa, các đảng cộng sản và công nhân, các lực lượng cách mạng, tiến bộ trên thế giới kiên quyết dấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Xu thế thứ năm: Các nước có thể chếchính trị khác nhau vừa hợp tác vừa đấu tranh trong cùng tồn tại hoà bình.
Những đặc điểm và xu thế trên đã quy định tính đa phương, đa dạng hoá quan hệ quốc tế trong chính sách đối ngoại của mỗi nước, trong đó có Mỹ và Việt Nam.
Đặc điểm quan trọng là tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trên thế giới ngày một gia tăng, trước hết là kinh tế, khi bất cứ nước nào hay nhóm nước nào cũng không thể tự giải quyết được những vấn đề chung của thế giới, đồng thời mối quan hệ qua lại giữa các quốc gia trên mọi lĩnh vực hoạt động trở thành xu thế tất yếu.
Những đặc điểm trên chi phối và tác động tới quan hệ Mỹ - Việt Nam ở chỗ:
Một là: Cả việt Nam và Hoa Kỳ đều phải chú ý đến bối cảnh và đặc điểm tình hình thế giới hiện thời để đưa ra chiến lược, chính sách đối nội và đối ngoại thích hợp.
Hai là: Quan hệ song phương Mỹ - Việt có liên quan chặt chẽ với mối quan hệ đa phương của cả hai bên với các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Quan hệ hợp tác và đấu tranh giữa hai bên tăng tiến theo chiều hướng nào cũng tuỳ thuộc rất nhiều vào quan hệ quốc tế nói chung và chính sách của mỗi nước nói riêng.
Ba là: Trong lịch sử, hai nước Việt Nam và Mỹ đã từng xảy ra đối đầu kịch liệt về quân sự. Thực tế cho thấy dư luận quốc tế có tác động, ảnh hưởng vô cùng quan trọng đối với iễn biến của cuộc chiến tranh này. Nay, cả hai nước đều cố gắng rút kinh nghiệm thực tế và phải tự điều chỉnh để xây dựng quan hệ với nhau trong thời kỳ lịch sử mới.
Khái quát về quan hệ Hoa Kỳ - Việt Nam trước khi bình thường hoá
(trước năm 1995)
Trước hết, quan hệ Mỹ - Việt là mối quan hệ bỏ lỡ nhiều cơ hội lịch sử
Quan hệ Hoa Kỳ - Việt Nam có nguồn gốc xa xưa và đã trải qua các bước thăng trầm lịch sử, điều mà có thể nhiều người trong số chúng ta, kể cả người Mỹ và người Việt ít biết đến. Mối quan hệ giữa hai nước Hoa Kỳ và việt Nam đã được mở đầu cách đây hơn hai thế kỷ, ngay từ năm 1858, khi thực dân Pháp nổ tiếng súng đầu tiên xâm lược Việt Nam, Vua Tự Đức phái Sứ thần Bùi Viện mang Quốc thư tới trình Tổng thống Hoa Kỳ lúc đó là Ulysses Grant để yêu cầu sự giúp đỡ của Hoa Kỳ ngăn chặn Pháp xâm lược Việt Nam.
Trong chiến tranh thế giới thứ II, năm 1941, thực hiện chủ trương hợp tác với Đồng minh chống phát xít Nhật, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã chủ động đặt quan hệ với Mỹ và phía Mỹ tỏ ra rất quan tâm. Đến những ngày Tổng khởi nghĩa tháng Tám, Hồ Chí Minh tiếp tục duy trì mối quan hệ giữa Việt minh với Đồng minh thông qua nhóm sĩ quan Mỹ hoạt động tại căn cứ Việt Bắc. Thực hiện sự thoả thuận giữa hai bên, phía Mỹ đã giúp Việt minh một số thuốc men, vũ khí và huấn luyện quân sự, điện đài. Việt minh giúp Đồng minh cứu các phi công bị Nhật bắn rơi và thông báo tình hình hoạt động quân sự của Nhật ở Đông Dương. Mặt khác, Hồ Chí Minh thông qua Mỹ để đặt vấn đề thương lượng với Pháp về việc hợp tác chống Nhật, khi Pháp đã bị Nhật hất cẳng khỏi Đông Dương.
Ngay sau khi tuyên bố độc lập (2/9/1945) Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần gửi công hàm, điện,... tới Tổng thống H. Truman, Chính phủ và Bộ ngoại giao Mỹ, đề nghị Mỹ công nhận nền độc của Việt Nam không được Chính phủ Mỹ phúc đáp, ngược lại, chính quyền Truman đã ủng hộ thực dân Pháp trở lại Đông Dương. Cơ hội quan hệ Mỹ - Việt một lần nữa bị bở lỡ.
Sau ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cử Bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch thay mặt Chính phủ Việt Nam sang Thái Lan gặp đại diện Chính phủ Mỹ để chuyển những đề nghị có tính thực tiễn của Chính phủ Việt Nam, nhưng Chính phủ Mỹ không tiếp ứng mà còn ủng hộ, giúp đỡ quân Pháp tiến hành chiến tranh ở Việt Nam. Cơ hội quan hệ Mỹ - Việt Nam không những tiếp tục bị bỏ qua, mà hố ngăn cách giữa hai nước ngày càng bị chính quyền Mỹ làm trầm trọng hơn.
Chiến thắng năm 1975 đánh dấu chấm hết cho cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam, nhiều cơ hội mới được mở ra cho quan hệ Mỹ - Việt Nam song những cơ hội đó đều bị bỏ lỡ, chủ yếu là do phía Mỹ không vượt qua được cơn “Hội chứng Việt Nam”.
Sau nhiều cơ hội để thiết lập và phát triển quan hệ hai nước bị bỏ lỡ, chỉ đến đầu những năm 90 của thế kỷ 20, quá trình bình thường hoá quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ mới được đẩy mạnh để năm 1995, hai nước chính thức lập quan hệ ngoại giao. Đây cũng là một quá trình khó khăn, đòi hỏi nhiều công sức và nỗ lực rất cao của Chính phủ và nhân dân hai nước.
Quan hệ Mỹ - Việt Nam là mối quan hệ giữa hai quốc gia đã từng đối đầu trực tiếp với nhau trong chiến tranh có tầm cỡ thời đại
Cuộc đụng đầu lịch sử giữa Việt Nam và Mỹ là sự phản ánh cao nhất của các mâu thuẫn dân tộc và đế quốc: chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, cách mạng và phản cách mạng, văn minh và bạo tàn,...
Mặc dù bản chất khác nhau, mục đích khác nhau, nhưng cái giá mà Mỹ và Việt Nam phải trả cho cuộc chiến tranh là rất lớn. Đối với Mỹ, đó là cái giá của một “sai lầm khủng khiếp” (R.Mắc Namara). Đối với Việt Nam, dó là cái giá cuộc chiến đấu bảo vệ những giá trị cao nhất của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Chiến tranh để lại quá nhiều vấn đề cần tháo gỡ, giải quyết cho cả hai phía Mỹ và Việt Nam, trong đó POW – MIA chỉ là phần nổi cho tảng băng trôi.
Quan hệ Mỹ - Việt vẫn chứa đựng đối kháng về ý thức hệ và về mục tiêu chiến lược. Đó là mối quan hệ của quốc gia xã hội chủ nghĩa với nhà dứng đầu phe Tư bản Chủ nghĩa
Sự kết thúc chiến tranh (4/1975), sự xoá bỏ lệnh cấm vận (2/1994) và sự bình thường hoá quan hệ (7/1995) hoàn toàn không nghĩa là đã kết thúc sự đối kháng về ý thứ hệ và về mục tiêu chiến lược giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Sự đối kháng này không những tiếp tục tồn tại mà có lúc còn mang tính chất gay gắt và quyết liệt hơn trước.
Trên thực tế, đối kháng trong quan hệ Mỹ - Việt được thể hiện tập trung nhất bởi ‘diễn biến hoà bình” và “chống diễn hoà bình” với tính cách là cuộc đấu tranh giai cấp trong bối cảnh mới. Rõ ràng, đối kháng về ý thức hệ và về mục tiêu chiến lược là một đặc thù của quan hệ Mỹ - Việt Nam hiện nay làm cho nó khác biệt về tính chất và tầm quan trọng so với những mối quan hệ quốc tế khác.
. Một số dấu mốc quan trọng trong quan hệ Mỹ - Việt Nam trước khi bình thường hoá quan hệ:
- Ngày 29/9/1990: Ngoại trưởng Mỹ J. Baker và Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch lần đầu tiên gặp nhau để bàn về quan hệ hai nước tại New York.
- Ngày 9/4/1991: Mỹ đưa ra "Bản lộ trình" 4 bước về bình thường hoá quan hệ với Việt Nam.
- Ngày 21/11/1991: Thứ trưởng ngoại giao Lê Mai và Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ về Đông Á-Thái Bình Dương R. Solomon đàm phán lần đầu tiên về bình thường hoá quan hệ hai nước tại New York.
- Ngày 3/2/1994: Tổng thống Mỹ W. Clinton tuyên bố bỏ hoàn toàn cấm vận và lập Cơ quan liên lạc giữa hai nước.
- Ngày 26/5/1994: Việt Nam và Mỹ đạt thoả thuận mở cơ quan liên lạc ở thủ đô hai nước.
Chính sách đối ngoại của hai nước
1.3.1 Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ sau Chiến tranh lạnh
Khái quát đặc điểm tự nhiên, xã hội
Tên chính thức: Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ (United States of America – USA), tên ngắn gọn: Hoa Kỳ hoặc Mỹ.
Ngày quốc khánh: 4 tháng 7 (năm 1776)- Ngày độc lập
Thủ đô: Washington, DC
Thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam: 12 tháng 7 năm 1995
Diện tích: 9.631.418 km2, trong đó diện tích đất 9.161.923 km2, mặt nước 469.495 km2 (chỉ tính 50 bang và Quận Columbia)
Dân số: 295.734.134 người (năm 2005)
Tiền tệ: Đôla. Ký hiệu: US dollar (USD)
Tổng thu nhập quốc dân (GDP) theo sức mua: 11.750 tỷ USD (2004). Tính theo đầu người 40.100 USD/người/năm (năm 2004)
Xuất khẩu: 795 tỷ USD (fob) (năm 2004)
Nhập khẩu: 1.476 tỷ USD (fob) (năm 2004)
So với toàn thế giới, Mỹ chiếm 7,2% về diện tích, 4,6% về dân số, 28,5% về GDP, 9,5% về kim ngạch xuất khẩu, gần 20% về kim ngạch nhập khẩu (2004). Mỹ đứng hàng đầu thế giới về khoa học - công nghệ, đứng thứ tư về diện tích (sau Liên bang Nga, Canada và Trung Quốc), đứng thứ ba dân số (sau CHND Trung Hoa, Ấn Độ), đứng thứ nhất về GDP, đứng thứ hai về xuất khẩu (sau Đức), đứng đầu về nhập khẩu, nhiều gấp 2,5 lần nước đứng thứ hai (Đức).
Những nhân tố chi phối chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ
Vị thế siêu cường thế giới duy nhất
Kể từ khi chiến tranh lạnh kết thúc đến nay, Mỹ vẫn duy trì được ưu thế vượt trội ở hầu như tất cả các lĩnh vực làm nên sức mạnh của một quốc gia.
Vế quân sự: Mỹ là siêu cường vượt xa tất cả các nước khác về tiềm lực, sức mạnh quân sự - quốc phòng. Mỹ có đội quân thường trực 1,4 triệu người, được triển khai ở 1.100 căn cứ quân sự trong nước và 270.000 quân trên 209 căn cứ quân sự ở 35 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Ngân sách quốc phòng của Mỹ chiếm trên 40% chi phí quốc phòng toàn cầu, lớn hơn chi phí quốc phòng của 11 nước đứng tiếp sau Mỹ cộng lại.
Về kinh tế: GDP của Mỹ chiếm 28,5% tổng GDP của toàn thế giới (2004). Mỹ cũng là nước đóng vai trò chủ đạo trong các thiết chế kinh tế, tài chính, thương mại chủ chốt của thế giới như IMF, WB, WTO...
Về khoa học – công nghệ: Mỹ đi đầu trong 20/29 lĩnh vực khoa học – công nghệ mũi nhọn của thếgiới, đặc biệt là công nghệ thông tin. Bằng phát minh khoa học của Mỹ chiếm 60% toàn bộ bằng phát minh khoa học của thế giới (từ năm 1901 đến năm 1995 trong tổng số 336 nhà khoa học được giải Nobel thì Mỹ có tới 179 người). Chi phí cho nghiên cứu và phát triển (R&D) của Mỹ chiếm 40,6% tổng chi phí cho R&D của thế giới.
Về chính trị - xã hội: tình hình chính trị - xã hội của Mỹ nhìn chung ổn định với sự thay nhau cầm quyền, điều hành đất nước của hai đảng tư sản lớn - Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hoà.
Tóm lại, vị thế siêu cường thế giới duy nhất chính là nhân tố đóng vai trò chi phối chiến lược và chính sách đối ngoại sau Chiến tranh lạnh của Mỹ.
Những biến động của môi trường an ninh thế giới sau Chiến tranh lạnh
Với tư cách là siêu cường thế giới duy nhất, trước mắt, Mỹ không gặp phải thách thức quân sự - an ninh từ bất cứ quốc gia nào. Nhưng Mỹ lại đang đứng trước những đe doạ an ninh mới, được coi là “ phi truyền thống, không cân xứng”. Đó là việc không ngăn được sự phổ biến của vũ khí giết người hàng loạt; sự gia tăng chủ nghĩa khủng bố quốc tế, tội phạm có tổ chức, xung đột lãnh thổ, sắc tộc tôn giáo...
Những xu hướng vận động khách quan của các mối quan hệ quốc tế hiện đại
Sau chiến tranh lạnh, các chủ thể quan hệ quốc tế cũng như hệ thống các quan hệ quốc tế có những thay đổi, biến chuyển rất lớn. Ý thức độc lập tự chủ, tự cường của các nước vừa và nhỏ, các nước đang phát triển trỗi dậy mạnh mẽ. Họ liên kết với nhau trong các tổ chức khu vực như ASEAN, MERCOSUR, EU, Phong trào không liên kết nhằm chống lại mưu toan chèn ép của các nước phát triển trong quan hệ quốc tế. Đồng thời, cùng với sự phát triển sâu rộng của xu thế toàn cầu hoá là sự gia tăng tính phụ thuộc lẫn nhau giữ các quốc gia dân tộc trong cộng đồng quốc tế. Lúc này, quan hệ quốc tế không còn là các quan hệ dựa trên yếu tố ý thức hệ là chính, mà dựa trên lợ ích quốc gia là chính.
Tất cả các nhân tố trên đã tác động, ảnh hưởng hoặc chi phối việc hoạch định, thực thi và điều chỉnh chính sách đối ngoại của Mỹ.
Mục tiêu và nội dung chính sách đối ngoại của Mỹ sau Chiến tranh lạnh
Mục tiêu chiến lược xuyên suốt, nhất quán, là xác lập vai trò bá quyền thế giới của Mỹ trong tất cả các lĩnh vực chính trị - tư tưởng, kinh tế - thương mại, quân sự - an ninh. Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn Tổng thống lại có sự điều chỉnh khác nhau. Chính quyền của Đảng Cộng hoà mang đậm tính chất cứng rắn và đơn phương hơn so với chính quyền của Đảng Dân chủ.
Ba mục tiêu trụ cột và ba nhóm lợi ích quốc gia
Để thực hiện mục tiêu chiến lược bao trùm trên, hính quyền Mỹ tập trung vào các mục tiêu được coi là trụ cột, là căn cứ, là cơ sở trong tổng thể chiến lược đối nội và đối ngoại của Mỹ như sau:
Một là: Củng cố và tăng cường an ninh cho Mỹ và đồng minh của Mỹ.
Hai là: Bảo đảm sự thịnh vượng kinh tế cho nước Mỹ.
Ba là: Thúc đẩy dân chủ và nhân quyền ở nước ngoài.
Chính quyền Mỹ có ba lợi ích quốc gia ở ba mức độ khác nhau như sau:
Thứ nhất: Các lợi ích quốc gia quan trọng sống còn.
Thứ hai: Các lợi ích quốc gia quan trọng.
Thứ ba: Các lợi ích ngoại vi hay các lợi ích nhân đạo và các