Trung Quốc là một nước lớn nằm ở miền Trung và miền Đông Châu Á, phía Đông giáp với Thái Bình Dương, diện tích 9,6 triệu km2, dân số hơn 1,2 tỷ người. Trung Quốc là một nước được hình thành sớm, là một trong những chiếc nôi của nền văn minh nhân loại. Từ khi nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời năm 1949, trải qua hơn 50 năm xây dựng, Trung Quốc đã giành được vị trí hết sức quan trọng trên trường quốc tế. Đặc biệt sau hơn 20 năm cải cách mở cửa (1978) nền kinh tế Trung Quốc đã có những bước phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy nhằm thực hiện mục tiêu đưa Trung Quốc thành một cường quốc khu vực và thế giới. Cùng với sức mạnh về kinh tế, lại với vai trò là một trong năm nước thường trực của Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc, Trung Quốc là nước chủ trương xây dựng một thế giới đa cực nhằm chống lại xu thế một cực theo sự áp đặt của Mỹ
Bước vào những năm cuối thập kỷ 70 đầu thập kỷ 80 quan hệ Việt Nam – Trung Quốc đã gặp phải nhiều sóng gió, trắc trở song cũng như dòng chảy của lịch sử, mối quan hệ này không thể thụt lùi mà phải tiến lên phía trước.
Trước những biến đổi to lớn của tình hình thế giới cuối thập kỷ 80 đầu thập kỷ 90, trước xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển, quan hệ Việt Nam – Trung Quốc đã có nhiều nét đổi mới. Mối quan hệ này đã góp phần quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng an ninh của hai nước, xây đắp tình đoàn kết quốc tế vô sản và cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập và phát triển. Trong 50 năm đấu tranh giành độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, nhân dân hai nước đã phấn đấu để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, góp phần củng cố hoà bình,ổn định và thúc đẩy sự nghiệp cách mạng thế giới. Tuy nhiên mối quan hệ này không phải lúc nào cũng “ thuận buồm xuôi gió” mà nó đã trải qua nhiều thử thách đôi khi nghiệt ngã do những vấn đề tồn tại của lịch sử và bất đồng quan điểm, lợi ích quốc gia của hai nước. Việt Nam – Trung Quốc đã và đang tiến hành công cuộc cải cách mở cửa và đổi mới đưa đất nước đi lên CNXH.
Vì những lý do như vậy tôi chọn đề tài : “Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc sau chiến tranh lạnh. Thực trạng và triển vọng” nhằm làm sáng tỏ những gì đã và đang diễn ra về quan hệ hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam – Trung Quốc.
44 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2994 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc sau chiến tranh lạnh, thực trạng và triển vọng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trung Quốc là một nước lớn nằm ở miền Trung và miền Đông Châu Á, phía Đông giáp với Thái Bình Dương, diện tích 9,6 triệu km2, dân số hơn 1,2 tỷ người. Trung Quốc là một nước được hình thành sớm, là một trong những chiếc nôi của nền văn minh nhân loại. Từ khi nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời năm 1949, trải qua hơn 50 năm xây dựng, Trung Quốc đã giành được vị trí hết sức quan trọng trên trường quốc tế. Đặc biệt sau hơn 20 năm cải cách mở cửa (1978) nền kinh tế Trung Quốc đã có những bước phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy nhằm thực hiện mục tiêu đưa Trung Quốc thành một cường quốc khu vực và thế giới. Cùng với sức mạnh về kinh tế, lại với vai trò là một trong năm nước thường trực của Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc, Trung Quốc là nước chủ trương xây dựng một thế giới đa cực nhằm chống lại xu thế một cực theo sự áp đặt của Mỹ
Bước vào những năm cuối thập kỷ 70 đầu thập kỷ 80 quan hệ Việt Nam – Trung Quốc đã gặp phải nhiều sóng gió, trắc trở song cũng như dòng chảy của lịch sử, mối quan hệ này không thể thụt lùi mà phải tiến lên phía trước.
Trước những biến đổi to lớn của tình hình thế giới cuối thập kỷ 80 đầu thập kỷ 90, trước xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển, quan hệ Việt Nam – Trung Quốc đã có nhiều nét đổi mới. Mối quan hệ này đã góp phần quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng an ninh của hai nước, xây đắp tình đoàn kết quốc tế vô sản và cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập và phát triển. Trong 50 năm đấu tranh giành độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, nhân dân hai nước đã phấn đấu để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, góp phần củng cố hoà bình,ổn định và thúc đẩy sự nghiệp cách mạng thế giới. Tuy nhiên mối quan hệ này không phải lúc nào cũng “ thuận buồm xuôi gió” mà nó đã trải qua nhiều thử thách đôi khi nghiệt ngã do những vấn đề tồn tại của lịch sử và bất đồng quan điểm, lợi ích quốc gia của hai nước. Việt Nam – Trung Quốc đã và đang tiến hành công cuộc cải cách mở cửa và đổi mới đưa đất nước đi lên CNXH.
Vì những lý do như vậy tôi chọn đề tài : “Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc sau chiến tranh lạnh. Thực trạng và triển vọng” nhằm làm sáng tỏ những gì đã và đang diễn ra về quan hệ hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam – Trung Quốc.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn đi sâu phân tích một số nội dung sau:
Chương 1: Những nhân tố tác động đến quan hệ Việt Nam – Trung Quốc sau chiến tranh lạnh
Chương 2: Thực trạng và triển vọng quan hệ Việt Nam – Trung Quốc
Trong khi thực hiện đề tài này tôi đã rất cố gắng nhưng vì quan hệ Việt – Trung là quan hệ khá phức tạp và có những vấn đề khó tiếp cận, do vậy, chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô giáo và các bạn để luận văn có sức thuyết phục hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn tới các thầy, cô trong khoa Quan hệ Quốc tế Trường Đai học Dân lập Đông Đô và viện Quan hệ Quốc tế – Học viện Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh, đặc biệt là thầy Vũ Quang Vinh đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận văn này.
Chương 1
Những nhân tố tác động đến quan hệ Việt Nam – Trung Quốc sau chiến tranh lạnh.
1.1 Bối cảnh quốc tế và khu vực
Bối cảnh quốc tế
Những năm cuối thập kỷ 80 đã chứng kiến nhiều biến động dữ dội, thậm chí những đảo lộn rất to lớn, không những làm thay đổi sâu sắc các quan hệ quốc tế mà còn tác động mạnh mẽ lâu dài đến các nước kể cả Việt Nam
Chưa bao giờ sự phân công lao động quốc tế lại diễn ra mạnh mẽ và sâu sắc đến thế. Nền kinh tế thế giới đang vận động trong mối quan hệ đan xen và phụ thuộc lẫn nhau, tác động qua lại. Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, những hình thức chuyên môn hoá cao gắn liền với các hình thức hợp tác đa dạng nhiều tầng nấc đã vượt ra khỏi phạm vi của một nước. Trong điều kiện đó, sự hợp tác giữa các quốc gia để phát triển là cần thiết đòi hỏi các nước phải quan tâm nhiều hơn đến vấn đề này.
Với sự phát triển cách mạng khoa học công nghệ, cách mạng thông tin diễn ra cuối thế kỷ XX đã đưa nhân loại quá độ từ thời đại công nghiệp lên thời đại trí tụê, từ kinh tế công nghiệp lên kinh tế tri thức. Cách mạng khoa học – công nghệ tạo ra những động lực mạnh mẽ thúc đẩy toàn cầu hoá, khu vực hoá phát triển không ngừng và nhanh chóng. Nó làm cho nền kinh tế của các nước ngày càng thâm nhập và đan xen nhau, tăng thêm sự phụ thuộc vào nhau điều chỉnh chính sách cải cách mở cửa đã trở thành ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nhiều quốc gia. Chính vì vậy mà các nước, đặc biệt là các nước lớn tự cuối những năm 80 về sau đã chuyển từ căng thẳng đối đầu trong quan hệ với nhau sang đối thoại, hoà hoãn, giảm căng thẳng, vừa hợp tác vừa đấu tranh và từ chạy đua vũ trang sang chạy đua về kinh tế
Thời kỳ sau Việt Nam, các nước Mỹ, Xô, Trung chuyển hướng hoặc điều chỉnh chiến lược mạnh mẽ với mục tiêu tập trung phát triển sức sản xuất như nguồn gốc tạo ra của cải vật chất cần thiết, làm thay đổi bộ mặt xã hội trong nước và bộ mặt chủ yếu nhằm tăng cường và nâng cao vị thế quốc tế có lợi cho họ trên diễn đàn thế giới. Bên trong họ tích cực đẩy mạnh các chương trình “ chấn hưng kinh tế”, “cải tổ”, “ cải cách mở cửa”, “bốn hiện đại hoá”. Bên ngoài họ đi vào hoà hoãn, cải thiện quan hệ từng đôi một, vừa hợp tác vừa đấu tranh kiềm chế lẫn nhau, giảm mạnh cuộc chạy đua vũ trang, tiến hành rút quân và rút khỏi các căn cứ quân sự của họ ở nước ngoài, cắt giảm hoặc chấm dứt viện trợ kinh tế, quân sự cho các đồng minh bầu bạn của họ trên thế giới. Mỹ – Xô tiến xa hơn trong thoả thuận Bush – Goocbachốp tháng 12/1989 tại Malta tuyên bố chấm dứt trạng thái chiến tranh lạnh kéo dài hơn 40 năm giữa hai nước. Quan hệ Xô - Trung cũng chính thức bình thường hoá hoàn toàn. Tháng 1/1990 Hội nghị các đầu não an ninh Châu Âu đã tuyên bố “ kết thúc chiến tranh lạnh” tạo thêm cơ hội cho các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau cùng tồn tại trong hoà bình. Trong những năm cuối của thế kỷ XX các nước Mỹ – Trung, Nga – Trung đã được thoả thuận về “đối tác xây dựng” và “ đối tác chiến lược” hướng tới thế kỷ XXI nhằm xây dựng khuôn khổ quan hệ lâu dài giữa các nước trong đó tình hình thế giới có nhiều thay đổi.
Năm 1989 các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu lần lượt sụp đổ và tháng 12/1991 Liên Xô xã hội chủ nghĩa dưới thời Goocbachốp cũng tan rã, khối quân sự Vacsava do Liên Xô đứng đầu đối trọng với khối quân sự NATO do Mỹ chỉ huy chấm dứt sự tồn tại của nó trong hơn 4 thập kỷ. Chủ nghĩa xã hội và phong trào cách mạng thế giới tạm thời lâm vào tình trạng thoái trào. So sánh lực lượng trên thế giới từ chỗ cân bằng tương đối giữa hai hệ thống chính xã hội đối lập tạm thời nghiêng về phía có lợi cho Mỹ và các nước tư bản Phương Tây. Trật tự hai cực Mỹ – Xô kết thúc nhường chỗ cho trật tự thế giới mới đang trong quá trình hình thành. Mỹ trở thành siêu cường duy nhất có sức mạnh lớn nhất chi phối nhiều lĩnh vực trong đời sống quan hệ quốc tế, NATO được tăng cường mở rộng và có lợi thế hơn các đối thủ mới và đồng minh về chính trị, kinh tế, khoa học công nghệ và một vài lĩnh vực khác.
1.1.2 Bối cảnh khu vực
Ở Châu Á - Thái Bình Dương việc chấm dứt chiến tranh lạnh và sự sụp đổ của trật tự thế giới hai cực Xô - Mỹ đã không dẫn đến những hậu quả dữ dội như ở Châu Âu hay những châu lục khác.
Lần đầu tiên trong lịch sử sau Chiến tranh lạnh, Châu Á - Thái Bình Dương có hoà bình ổn định tương đối . Các nước trong khu vực đã trở thành các quốc gia độc lập đều có chung nguyện vọng là cùng tồn tại hoà bình hữu nghị hợp tác để phát triển. Nơi đây đã và đang diễn ra sự hợp tác nhiều tầng. Vì mục đích cùng phồn vinh phát triển họ có lợi ích muốn mở rộng thị trường phối hợp các nguồn nhân lực, tài lực, kết cấu hạ tầng và các nguồn tài nguyên trong khả năng sẵn có và điều kiện của từng quốc gia từng vùng lãnh thổ cho phép. Các nước đều điều chỉnh chiến lược phát triển kinh tế xã hội và chiến lược đối ngoại của họ cho phù hợp với xu thế lớn đang diễn ra mạnh mẽ trong khu vực và trên thế giới. Quan hệ các nước lớn trong khu vực này tuy có nhiều trục trặc song nhìn chung vẫn nằm trong khuôn khổ hợp tác vừa đấu tranh kiềm chế lẫn nhau, tránh đổ vỡ đi đến đối đầu căng thẳng.
Lần đầu tiên trong lịch sử sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, Đông Nam Á tự hào trải qua một thập niên sôi động trong cuộc hành trình vào thiên niên kỷ mới và những bước tiến đầy hứa hẹn. Với việc Việt Nam ký kết Hiệp định Pari về Campuchia 10/1991, quan hệ giữa các nước ASEAN và Đông Dương bắt đầu có sự biến đổi về chất, chuyển từ trạng thái căng thẳng đối đầu sang trạng thái hoà bình, hợp tác và hữu nghị. Và nó đã trở thành dòng chảy chính của Đông Nam Á sau chiến tranh. Đông Nam Á không còn tồn tại căn cứ quân sự của nước ngoài, không còn sự cách biệt giữa các trận tuyến đối lập nhau hoặc hàng rào về ý thức hệ không cản trở các nước trong khu vực xích lại gần nhau. Họ có chung ý tưởng biến Đông Nam Á thành khu vực phi vũ khí hạt nhân, thống nhất trong đa dạng, hoà bình, ổn định và phát triển đồng đều, có quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước ngoài khu vực vì một thế giới tương lai hoà bình, hữu nghị, bình đẳng, phồn vinh tiến bộ.
Mặc dù những năm cuối của thập kỷ 90 Châu Á - Thái Bình Dương đặc biệt là các nước Đông Nam Á và Đông Á rơi vào cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, kéo theo khủng hoảng kinh tế xã hội nghiêm trọng, để lại nhiều hậu quả nặng nề gây nhiều bất lợi cho các nước trong khu vực trứơc thềm thiên niên kỷ mới, song đây là khu vực rộng lớn tập trung những nước đông dân nhất trên thế giới tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, nằm trên trục đường giao thông quan trọng bậc nhất trên thế giới. Nơi đây một thời là cái nôi của nền văn minh nhân loại.
Khu vực này được coi là khu vực đầy tiềm năng, sống động lớn mạnh không ngừng và có tốc độ phát triển kinh tế cao hơn các khu vực khác. Ở đây có những nền kinh tế hùng mạnh như Nhật Bản, các nền kinh tế công nghiệp hoá mới như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, nhiều nước có nền kinh tế phát triển nhanh hoặc có nền kinh tế lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, Malaixia, Philippin, Thái Lan… Các nước trong khu vực bị khủng hoảng vừa qua, sau hơn hai năm vật lộn với cơn bão táp tiền tệ tài chính và những khó khăn kinh tế xã hội trong nước đã vượt qua được giai đoạn nan giải nhất và đang trong quá trình hồi phục, dần dần lấy lại uy tín, vị thế và ảnh hưởng của mình và do đo góp phần làm tăng thêm vai trò ngày càng to lớn và quan trọng khu vực trong thế kỷ XXI.
Tuy thế, môi trường hoà bình, ổn định phát triển trong khu vực chưa thật vững chắc chắn. Vẫn còn nhiều nhân tố bất trắc tiềm ẩn có thể gây mất ổn định. Chẳng hạn chế độ chính trị xã hội khác nhau, hoàn cảnh lịch sử địa lý khác nhau, vấn đề Đài Loan, vấn đề tên lửa Bắc Triều Tiên, vấn đề Nam Á trình độ phát triển chênh lệch nhau và lợi ích khác nhau. Trong nội bộ của mỗi nước và giữa các nước còn tồn tại không ít mâu thuẫn xung đột trên các vấn đề chính trị, sắc tộc, tôn giáo, kinh tế xã hội biên giới trên đất liền hải đảo và các cuộc tranh chấp biên giới. Những mâu thuẫn về lợi ích giữa các nước, nhất là các nước lớn trong khu vực và mọi tính toán hoạt động của họ trong khu vực cũng có thể gây nên không ít phức tạp.
1.2 Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại Trung Quốc
Nếu trước năm 1978, chính sách đối ngoại của Trung Quốc thay đổi theo sự biến đổi theo khuôn khổ thế giới hai cực, thì từ khi tiến hành cải cách, mở cửa, nước này lại theo đuổi chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, không liên kết, chống bá quyền và bảo vệ hoà bình thế giới.
Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, sự ráo riết chạy đua vũ trang của hai siêu cường – Liên Xô và Mỹ dẫn tới nguy cơ chiến tranh thế giới, nhất là chiến tranh hạt nhân treo lơ lửng trên đầu nhân loại. Đến cuối thập niên 70 của thế kỷ 20 thì tình hình đã đổi khác. Nhận thức được rằng trong một thời gian tương đối dài không xảy ra chiến tranh thế giới với quy mô lớn, có khả năng gìn giữ được hoà bình thế giới, hoà bình và phát triển là chủ lưu của thời đại, nên Trung Quốc đã chuyển từ việc lấy “đấu tranh giai cấp là giềng mối” sang kiên trì xây dựng kinh tế là trung tâm. Trung Quốc chuyển dần từ chiến lược “một chiều” sang chiến lược đa phương hoá trong quan hệ quốc tế. Đặng Tiểu Bình khẳng định: “ Chính sách đối ngoại của Trung Quốc là độc lập tự chủ, là không liên kết thực sự. Phản đối chủ nghĩa bá quyền, gìn giữ hoà bình thế giới, ai chủ trương hoà bình thì chúng ta ủng hộ, ai gây chiến tranh và bá quyền thì chúng ta phản đối”.(1)
Hoạt động ngoại giao của Trung Quốc tiếp tục đi theo thuyết ba thế giới của Mao Trạch Đông. Do tác động của tình hình thế giới và yêu cầu thực hiện 4 hiện đại hoá, Trung Quốc thực hiện chiến lược “một chiều” ngả về phía Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản. Với chủ trương đó, Trung Quốc và Mỹ đã thiết lập quan hệ ngoại giao, mở ra cục diện mới cho nền ngoại giao Trung Quốc. Do mở cửa quan hệ với Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản, Trung Quốc đã được các nước này cho vay tiền để thực hiện 4 hiện đại hoá, các nước phương tây trở thành bạn hàng chủ yếu của Trung Quốc về kinh tế, tài chính và khoa học kỹ thuật. Sau khi bình thường hoá quan hệ với Mỹ, trên thực tế lúc này Mỹ trở thành đồng minh tạm thời của Trung Quốc trong việc chống Liên Xô và Việt Nam về vấn đề Ápganixtan và Campuchia. Mặc dù vậy, sự liên minh này rất lỏng lẻo và có điều kiện, vì quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc mới được khởi động và Mỹ không bao giờ muốn Trung Quốc giàu mạnh lên đến mức trở thành đối trọng với Mỹ. Trong thời kỳ này, Trung Quốc đã vấp phải nhiều khó khăn như mâu thuẫn với Mỹ trong hàng loạt vấn đề quốc tế, đặc biệt là vấn đề Đài Loan, thống nhất Triều Tiên và thái độ với các nước thuộc ASEAN.
Trung Quốc nhấn mạnh chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, không tham gia khối nào, không liên minh chiến lược với bất cứ nước nào, mở cửa với cả ba phía: phương Tây, các nước XHCN, thế giới thứ ba. Để thực hiện tư tưởng chiến lược mới, bước sang những năm 80, Trung Quốc từng bước điều chỉnh chiến lược với Mỹ và Liên Xô, đồng thời tiếp tục cải thiện quan hệ với Mỹ, Nhật, Châu Âu và Liên Xô. Tháng 5/1989, Tổng thống Liên Xô Goócbachốp sang thăm Trung Quốc, Liên Xô và Trung Quốc đã bình thường hoá quan hệ. Quan hệ giữa Trung Quốc và các nước XHCN Đông Âu cũng được khôi phục và phát triển. Trung Quốc phát triển quan hệ với các nước láng giềng và các nước đang phát triển. Việc giải quyết tranh chấp lãnh thổ, vùng biển với các nước kế cận được giải quyết theo chủ trương “ chủ quyền thuộc về ta, gác lại tranh chấp, cùng nhau khai thác”. Đây thực sự la ý tưởng mang đặc sắc Trung Quốc, vì có vẻ nó làm dịu quan hệ của Trung Quốc với các nước có tranh chấp lãnh thổ. Trung Quốc còn chú ý mở rộng hợp tác và giao lưu kinh tế – thương mại với các nước đang phát triển. Chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, không liên kết thực sự, chống bá quyền, bảo vệ hoà bình thế giới được Trung Quốc tiếp tục thực hiện trong tình hình mới.
Bước vào thập niên 90, với sự sụp đổ của các nước XHCN Đông Âu và sự tan rã của Liên Xô, chiến tranh lạnh kết thúc, cục diện hai cực tan rã, thế giới đang phát triển theo hướng đa cực. Toàn cầu hoá về kinh tế và sự phát triển của kinh tế tri thức, sự cạnh tranh sức mạnh tổng hợp giữa các quốc gia trên thế giới tác động mẽ đến cục diện thế giới. Hoà bình và phát triển là chủ lưu của thời đại, nhưng vẫn bị đe doạ bởi chủ nghĩa bá quyền và chính trị cường quyền. Trước tình hình đó, Trung Quốc kiên trì chính sách ngoại giao hoà bình, độc lập, tự chủ, đa phương hoá trên cơ sở năm nguyên tắc chung sống hoà bình, thúc đẩy việc thiết lập trật tự chính trị, kinh tế thế giới mới trên cơ sở chính sách đối nội lấy xây dựng kinh tế làm trọng tâm, không ngừng tăng cường quốc lực tổng hợp để xây dựng thành công CNXH mang đặc sắc Trung Quốc.Từ đại hội XV Đảng Cộng sản Trung Quốc (9-1997) đến năm 2000, chính sách đối ngoại của Trung Quốc thể hiện tập trung ở một số nội dung lớn: giữ gìn độc lập chủ quyền, thống nhất và sự tôn nghiêm của đất nước, tăng cường hợp tác với các nước đang phát triển, tích cực thiết lập trật tự quốc tế mới, xây dựng khung quan hệ với các nước lớn, tích cực tham gia ngoại giao đa phương, phát huy vai trò trong các tổ chức quốc tế. Kịp thời điều chỉnh chính sách đối ngoại phù hợp với tình hình Trung Quốc và thế giới, hoạt động ngoại giao Trung Quốc đã góp phần phá thế bao vây, cô lập, cấm vận của các thế lực đối địch. Hiện Trung Quốc có quan hệ với 161 nước, quan hệ hiệu quả với 77 quốc gia, có vai trò quan trọng trong nhiều tổ chức quốc tế và khu vực. Mặc dù phải đối mặt với cơ hội và những thách thức mới, bước sang đầu thế kỷ XXI, với mục tiêu phát triển, an ninh và trách nhiệm quốc tế, hoạt động ngoại giao Trung Quốc phải giải quyết một loạt vấn đề như: làm sao phải tạo được ưu thế ngoại giao tham gia toàn diện và cải tạo được hệ thống quốc tế, thúc đẩy đa cực hoá, tăng cường quốc lực tổng hợp, tiến hành ngoại giao với các nước láng giềng, ngoại giao đa phương hài hoà trong giải quyết vấn đề Đài Loan. Sau hơn 20 năm tiến hành cải cách, mở cửa, Trung Quốc kiên trì theo đuổi mục tiêu đối ngoại do Hội nghị Trung ương 3 khoá XI đề ra. Nhưng, do biến động của thế giới và địa vị của Trung Quốc trên trường quốc tế, nên ngoại giao Trung Quốc đã có sự điều chỉnh cho phù hợp với tình hình mới. Đó vẫn là chiến lược thuận theo xu thế thời đại, thúc đẩy hoà bình và ổn định, tạo môi trường quốc tế có lợi cho sự phát triển kinh tế-xã hội để thực hiện thắng lợi 4 hiện đại hoá, xây dựng thành công CNXH mang đặc sắc Trung Quốc.
Đảng Cộng sản Trung Quốc tiến hành Đại hội XVI trong bối cảnh quốc tế đang diễn ra những thay đổi sâu sắc. Xu thế đa cực hoá thế giới và toàn cầu hoá kinh tế đang phát triển trong tình hình phức tạp, khoa học – kỹ thuật ngày càng tiến bộ, cuộc cạnh tranh sức mạnh tổng hợp quốc gia ngày càng gay gắt, tình hình thúc ép, không tiến lên chắc chắn sẽ bị tụt hậu.
Sau Đại hội XVI Đảng Cộng Sản Trung Quốc, tình hình thế giới có những biến động lớn, nổi bật là cuộc chiến tranh Irăc và cuộc khủng hoảng hạt nhân ở Bắc Triều Tiên. Tình hình thế giới thể hiện tập trung ở một số điểm chính:
Một là, Mỹ khai triển chiến lược toàn cầu nhằm lãnh đạo thế giới theo chiều hướng đơn phương. Sự tan rã của Liên Xô mặc nhiên tạo dựng vị thế siêu cường duy nhất cho Mỹ và Mỹ đang ráo riết củng cố vị trí đó. Chủ nghĩa đơn phương không phải là mới với Mỹ, coi thường Liên Hợp Quốc không phải là mới. Bush (cha) phế truất Tổng thống Noriêga ở Panama hoàn toàn từ quyết định đơn phương. Bill Clintơn tấn công Xécbi mà không có sự chấp thuận hoặc ủng hộ của Liên Hợp Quốc. Vị thế siêu cường duy nhất của Mỹ càng có điều kiện giải quyết các vấn đề quốc tế theo chiều hướng đơn phương. Vị trí này của Mỹ sẽ tồn tại lâu dài nếu các nước lớn không hình thành nổi Liên minh chống Mỹ bền vững. Sự tồn tại của siêu cường duy nhất với những quyết định đơn phương trong thời gian vừa qua khiến các nước lớn đều phải điều chỉnh chiến lược đối ngoại, dựa trên lợi ích quốc gia để hoạch định chiến lựơc đối ngoại. Quan hệ giữa các nước lớn đã phát triển sang giai đoạn “ cạnh tranh – hợp tác “ chủ yếu là phối hợp và hiệp thương.
Hai là, sau chiến tranh lạnh, việc điều chỉnh quan hệ nước lớn đã có chiều hướng tích cực, xoá bỏ lợi ích đối lập tuyệt đối, tăng cường hợp tác. Tuy vậy, tư duy chiến tranh lạnh vẫn tồn tại, lợi ích nhà nước chưa hoàn toàn dung hoà, nhân tố địa - chính trị truyền thống vẫn đóng vai trò quan trọng. Chiến tranh lạnh kết thúc nhưng cơ cấu quốc tế hợp lý, công bằng chưa xuất hiện trong khi Mỹ ráo riết củng cố địa vị bá quyền. Giữa các nước lớn tự nhiên hình thành quan hệ cạnh tranh lâu dài. Các nước lớn có xu thế liên minh chống Mỹ và Mỹ tìm mọi cách chống lại, nhưng xu thế các nước lớn chủ yếu hợp tác với nhau trong các vấn đề chính trị cũng như kinh tế quốc tế sẽ tồn tại trong một thời gian đáng kể. Việc Pháp, Đức, Nga chống lại Mỹ trong chiến tranh Irăc, nay lại hoà dịu với Mỹ trong việc tái thiết Irăc sau chiến tranh và gìn giữ hoà bình ở Trung Đông tác động không nhỏ đến Trung Quốc.
Ba là, so sánh lực lượng giữa các nước phát triển và