Thế kỉ 21 là thế kỉ của toàn cầu hoá, thế kỉ của sự giao lưu và hội nhập quốc tế. Việt Nam cũng hoà trong xu thế hội nhập của thế giới đồng thời với quá trình đổi mới toàn diện đất nước.Một nét nổi bật trong quá trình đổi mới là Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với cơ chế thị trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ trương đó đã tạo ra nhiều chuyển biến tích cực. Cùng với sự phát triển của nhiều lĩnh vực khác, chúng ta đang có những tiền đề để đưa đất nước chuyển sang thời kì mới, thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá, từng bước hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Chúng ta đang sống trong thời đại mà sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và nhu cầu thương mại, hợp tác quốc tế đang làm cho sự nhất thể hoá toàn cầu có nhiều khả năng trở thành hiện thực.Trong bối cảnh thời đại đó, mọi quốc gia trên thế giới đều phải quan tâm tới mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ-những chủ nhân tương lai , người sẽ quyết định sự phát triển kinh tế –xã hội ở mỗi quốc gia.
Khi đưa ra nhữnh tiêu chuẩn về giáo dục cho thế hệ trẻ đến năm 2000, các nhà giáo dục Mĩ và Tây Âu cho rằng một trong những điều kiện không thể thiếu là các cá nhân phải thông thạo ít nhất một ngoại ngữ. Điều này quả thực rất hợp lý bởi nếu không có ngoại ngữ làm phương tiện giao tiếp thì không thể nói đến chuyện giao lưu, học hỏi và hội nhập quốc tế.
Đối với sinh viên, ở tầm vĩ mô, sự quan trọng của ngoại ngữ đối với họ cũng chính là đối với xã hội, bởi sinh viên chính là những người trong tương lai sẽ sử dụng ngoại ngữ như một phương tiện để giao lưu, học hỏi, hội nhập và phát triển xã hội. Ở tầm vi mô, ngoại ngữ chính là vốn kiến thức quan trọng của mỗi cá nhân, là yếu tố không thể thiếu trong hành trang gia nhập thị trường việc làm.
Đối với sinh viên Xã hội học nói riêng, ngoại ngữ còn là yếu tố quan trọng cần cho sự xâm nhập thực tế, vốn là một đòi hỏi đặc trưng của chuyên ngành này, đồng thời là phương tiện để mở mang kiến thức qua nguồn tài liệu nước ngoài vì tài liệu tiếng Việt còn ít. Hơn nữa trong thế kỉ 21 này , khi Xã hội học sẽ thực sự trở thành một ngành khoa học mũi nhọn tại Việt Nam, ngoại ngữ sẽ trở thành điều kiện quan trọng giúp các nhà Xã hội học trao đổi, học hỏi, mở mang tri thức từ những nền Xã hội học phát triển trên thế giới. Và ngay lúc này, khi sự thăng hoa của Xã hội học Việt Nam chưa trở thành hiện thực thì ngoại ngữ vẫn là một yếu tố không thể thiếu, thúc đẩy thời điểm ấy tiến lại gần hơn.
Nhận thức được tầm quan trọng lớn lao của ngoại ngữ , các sinh viên Xã hội học đã quan tâm tới việc trau dồi trình độ ngoại ngữ của mình. Họ không chỉ tham gia học trong chương trình chính khoá của nhà trường mà còn đi học thêm nhằm củng cố và nâng cao trình độ . Tuy nhiên, liệu hoạt động học thêm ấy có thực sự đem lại hiệu quả mong muốn cho mọi sinh viên hay không ? Để đánh giá vấn đề này, tôi lựa chọn đề tài “Sinh viên Xã hội học với việc học thêm ngoại ngữ ”để nghiên cứu, nhằm mục đích tìm hiểu thực trạng của hoạt động này, trên cơ sở đó tìm ra những giải pháp giúp sinh viên định hướng tốt hơn trong việc sử dụng thời gian, công sức , tiền bạc để đạt được hiệu quả cao hơn.
80 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1944 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sinh viên Xã hội học với việc học thêm ngoại ngữ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Thế kỉ 21 là thế kỉ của toàn cầu hoá, thế kỉ của sự giao lưu và hội nhập quốc tế. Việt Nam cũng hoà trong xu thế hội nhập của thế giới đồng thời với quá trình đổi mới toàn diện đất nước.Một nét nổi bật trong quá trình đổi mới là Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với cơ chế thị trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ trương đó đã tạo ra nhiều chuyển biến tích cực. Cùng với sự phát triển của nhiều lĩnh vực khác, chúng ta đang có những tiền đề để đưa đất nước chuyển sang thời kì mới, thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá, từng bước hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Chúng ta đang sống trong thời đại mà sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và nhu cầu thương mại, hợp tác quốc tế đang làm cho sự nhất thể hoá toàn cầu có nhiều khả năng trở thành hiện thực.Trong bối cảnh thời đại đó, mọi quốc gia trên thế giới đều phải quan tâm tới mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ-những chủ nhân tương lai , người sẽ quyết định sự phát triển kinh tế –xã hội ở mỗi quốc gia.
Khi đưa ra nhữnh tiêu chuẩn về giáo dục cho thế hệ trẻ đến năm 2000, các nhà giáo dục Mĩ và Tây Âu cho rằng một trong những điều kiện không thể thiếu là các cá nhân phải thông thạo ít nhất một ngoại ngữ. Điều này quả thực rất hợp lý bởi nếu không có ngoại ngữ làm phương tiện giao tiếp thì không thể nói đến chuyện giao lưu, học hỏi và hội nhập quốc tế.
Đối với sinh viên, ở tầm vĩ mô, sự quan trọng của ngoại ngữ đối với họ cũng chính là đối với xã hội, bởi sinh viên chính là những người trong tương lai sẽ sử dụng ngoại ngữ như một phương tiện để giao lưu, học hỏi, hội nhập và phát triển xã hội. Ở tầm vi mô, ngoại ngữ chính là vốn kiến thức quan trọng của mỗi cá nhân, là yếu tố không thể thiếu trong hành trang gia nhập thị trường việc làm.
Đối với sinh viên Xã hội học nói riêng, ngoại ngữ còn là yếu tố quan trọng cần cho sự xâm nhập thực tế, vốn là một đòi hỏi đặc trưng của chuyên ngành này, đồng thời là phương tiện để mở mang kiến thức qua nguồn tài liệu nước ngoài vì tài liệu tiếng Việt còn ít. Hơn nữa trong thế kỉ 21 này , khi Xã hội học sẽ thực sự trở thành một ngành khoa học mũi nhọn tại Việt Nam, ngoại ngữ sẽ trở thành điều kiện quan trọng giúp các nhà Xã hội học trao đổi, học hỏi, mở mang tri thức từ những nền Xã hội học phát triển trên thế giới. Và ngay lúc này, khi sự thăng hoa của Xã hội học Việt Nam chưa trở thành hiện thực thì ngoại ngữ vẫn là một yếu tố không thể thiếu, thúc đẩy thời điểm ấy tiến lại gần hơn.
Nhận thức được tầm quan trọng lớn lao của ngoại ngữ , các sinh viên Xã hội học đã quan tâm tới việc trau dồi trình độ ngoại ngữ của mình. Họ không chỉ tham gia học trong chương trình chính khoá của nhà trường mà còn đi học thêm nhằm củng cố và nâng cao trình độ . Tuy nhiên, liệu hoạt động học thêm ấy có thực sự đem lại hiệu quả mong muốn cho mọi sinh viên hay không ? Để đánh giá vấn đề này, tôi lựa chọn đề tài “Sinh viên Xã hội học với việc học thêm ngoại ngữ ”để nghiên cứu, nhằm mục đích tìm hiểu thực trạng của hoạt động này, trên cơ sở đó tìm ra những giải pháp giúp sinh viên định hướng tốt hơn trong việc sử dụng thời gian, công sức , tiền bạc để đạt được hiệu quả cao hơn.
Trong phạm vi đề tài này, tôi không có điều kiện nghiên cứu toàn bộ sinh viên Xã hội học trên địa bàn Hà Nội mà chỉ có thể tập trung khảo sát sinh viên Xã hội học tại trường Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn.
2.MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.1 Tìm hiểu thực trạng hoạt động học thêm ngoại ngữ của sinh viên
Xã hội học.
2.2 Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động học thêm ngoại ngữ.
2.3 Tìm hiểu định hướng nghề nghiệp của sinh viên Xã hội học và tác động của nó đối với hoạt động học thêm ngoại ngữ trong sinh viên.
3.ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tượng nghiên cứu:
Việc học thêm ngoại ngữ của sinh viên Xã hội học
3.2 Khách thể nghiên cứu:
Sinh viên năm thứ nhất đến năm thứ tư, khoa Xã hội học, ĐHKHXH&NV
4.PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1 Giới hạn phạm vi không gian , thời gian:
- Thời gian : tháng 3/4 năm 2001
Không gian: khoa Xã hội học , ĐH KHXH&NV
4.2 Giới hạn lĩnh vực nghiên cứu:
Mô tả thực trạng hoạt động học thêm ngoại ngữ của sinh viên Xã hội học. Đánh giá sự ảnh hưởng của các yếu tố giới, năm học, hộ khẩu thường trú và định hướng nghề nghiệp đối với hoạt động này.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1 Phương pháp chọn mẫu
Mẫu được chọn bao gồm 100 đơn vị mẫu là sinh viên từ năm I đến năm IV
khoa Xã hội học, ĐH KHXH&NV với cơ cấu mẫu như sau:
Nguyên tắc chọn mẫu :
-Mẫu được chọn theo năm học với tỉ lệ 40% năm thứ I-II và 60% năm thứ III-IV ( tương ứng với tỉ lệ này trong tổng cơ cấu mẫu)
-Tỉ lệ nam nữ tồn tại ngẫu nhiên theo đơn vị lớp.
-Tỉ lệ sinh viên có hộ khẩu thường trú tại đô thị và nông thôn tồn tại ngẫu nhiên theo đơn vị lớp.( hộ khẩu thường trú ở đây hiểu là nơi sinh viên cư trú trước khi vào đại học)
Bảng 1 : Cơ cấu mẫu điều tra
STT
TIÊU CHÍ
SỐ LƯỢNG
%
1
Giới tính
1.Nam
36
36%
2. Nữ
64
64%
2
Năm học
1.Năm I-II
40
40%
2.Năm III-IV
60
60%
3
Hộ khẩu thường trú
1.Đô thị
47
47%
2.Nông thôn
53
53%
Ngoài ra, để phục vụ cho việc so sánh giữa sinh viên Xã hội học và những sinh viên khác, đề tài đã tiến hành nghiên cứu 100 mẫu là sinh viên các khoa Lịch sử, Ngôn ngữ, Văn học và Lưu trữ, cơ cấu mẫu như sau
STT
TIÊU CHÍ
SỐ LƯỢNG
%
1
Giới tính
1.Nam
34
34%
2. Nữ
66
66%
2
Năm học
1.Năm I-II
40
40%
2.Năm III-IV
60
60%
3
Hộ khẩu thường trú
1.Đô thị
34
34%
2.Nông thôn
66
66%
5.2 Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi
Bảng hỏi được xây dựng với 12 câu hỏi nhằm làm rõ những thông tin cơ bản sau:
Đặc điểm cá nhân
Định hướng nghề nghiệp
Kết quả học ngoại ngữ
Động cơ học thêm ngoại ngữ
Chi phí về thời gian, tài chính cho hoạt động học thêm
Bảng hỏi dành cho các sinh viên không thuộc khoa Xã hội học gồm 10 câu hỏi với những nội dung cơ bản như trên.
Bảng hỏi được tiến hành điều tra thử để rút ra và khắc phục những sai sót, hạn chế trong kĩ thuật xây dựng cũng như nội dung của bảng hỏi để thu được những dữ liệu cần thiết, đồng thời đảm bảo tính chính xác, khách quan của thông tin.
5.3 Phương pháp phỏng vấn sâu
Phương pháp thu thập thông tin bằng bảng hỏi nêu trên có thể đem lại những thông tin định lượng mang tính bao quát. Để có được những thông tin đinh tính chi tiết và sâu sắc hơn, tôi đã tiến hành phỏng vấn sâu một số sinh viên nhằm hiểu rõ hơn bản chất của vấn đề và nhằm tìm hiểu, phát hiện những khía cạnh mới mẻ, sâu sắc trong những ý kiến của họ về vấn đề nghiên cứu.
5.4 Phương pháp phân tích tài liệu
Do không đủ điều kiện thu thập thông tin về định hướng nghề nghiệp của sinh viên nói chung nhằm phục vụ cho việc so sánh với định hướng của sinh viên Xã hội học, tôi đã sử dụng và phân tích số liệu thứ cấp từ đề tài “ Định hướng giá trị của sinh viên – con em cán bộ khoa học “ trong cuốn sách cùng tên của TS. Vũ Hào Quang.
6.GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Học thêm ngoại ngữ là một hoạt động phổ biến trong sinh viên Xã hội học hiện nay. Sinh viên học thêm ngoại ngữ nhằm nâng cao trình độ để phục vụ cho công việc sau này, do đó sự khác biệt trong kết quả học ngoại ngữ của sinh viên là do sự khác biệt về định hướng nghề nghiệp sau khi ra trường của họ.
PHẦN CƠ SỞ LÝ LUẬN
Hệ khái niệm
Khái niệm sinh viên
Theo từ gốc La tinh, sinh viên –“student”-là người làm việc, học tập, tìm hiểu, khai thác tri thức.
Theo nghĩa thông thường, sinh viên là người học tập ở bậc trung cấp, cao đẳng và đại học.
Khái niệm ngoại ngữ
Đó là ngôn ngữ của một quốc gia khác, khác với tiếng mẹ đẻ.
1.3 Khái niệm học thêm
Học thêm là mọi hoạt động học ngoài chương trình chính khoá của nhà trường.
Khái niệm động cơ
Động cơ tâm lý(phân biệt với động cơ vật lý) là cái thúc đẩy con người hoạt động nhằm thoả mãn nhu cầu hoặc đạt tới một mục đích nào đó. Là nội dung bản chất của hành vi, hành động và hoạt động, tạo nên tính tích cực của chủ thể, quy định nhu cầu, hứng thú, ý hướng, cảm xúc, tâm thế và lý tưởng. Có nhiều quan niệm khác nhau về động cơ tâm lý: theo chủ nghĩa hành vi, bất kì kích thích nào(bên ngoài và bên trong) có khả năng thúc đẩy hành vi con người đều là động cơ; Phân tâm học mô tả động cơ như những bản năng và ý tưởng sự vật có sẵn trong con người; Tâm lý học hoạt động hiểu động cơ tâm lý là hình ảnh phản ánh đối tượng trong hiện thực, đáp ứng nhu cầu, thúc đẩy và diều khiển hoạt động của con người.
(Từ điển Bách khoa Việt nam –Tập 1)
Khái niệm định hướng nghề nghiệp
Định hướng nghề nghiệp là việc hình thành trong con người một hứng thú đối với loại hoạt động lao động nhất định. Việc lựa chọn cho con người một nghề nghiệp thích hợp nhất, có chú ý tới những đặc điểm tâm, sinh lý, lợi ích, khả năng của người đó và cả nhu cầu của nền kinh tế quốc dân về sức lao động thuộc những ngành nghề tương ứng, việc định hướng nghề nghiệp được thực hiện bằng cách giới thiệu cho mọi người, đặc biệt là thanh niên, học sinh, các lĩnh vực và các loại hoạt động, các nghề nghiệp, các xí nghiệp, xem xét điều kiện và dạng công việc trong phạm vi đó.
(Từ điển Bách khoa Việt Nam – Tập 1)
2. Các hướng tiếp cận lý thuyết
2.1 Lý thuyết hệ thống
Tiếp cận hệ thống là một nguyên lí hoạt động của khoa học Điều khiển học được nhiều ngành khoa học ứng dụng. Dưới góc độ Xã hội học, lý thuyết hệ thống của T.Parsons được hầu hết các nhà nghiên cứu sử dụng làm cơ sở cho việc nghiên cứu đời sống xã hội.Theo Parsons :
- Xã hội là một hệ thống tương đối khép kín, có phần đồng bộ của những hành động.
- Hệ thống tổng thể cũng giống như một cá thể, luôn tự bảo tồn.
- Nó hướng tới một trạng thái cân bằng.
Như vậy "hệ thống xã hội được hình thành nhờ những trạng thái và quá trình tương tác mang tính xã hội của những cá nhân hành động", dồng thời được dựa trên bốn hệ thống phân hệ hành động của con người (cơ thể, hệ thống nhân sự, hệ thống xã hội và hệ thống văn hoá ) và mỗi hệ thống này mang lại hiệu suất, chức năng khác nhau phù hợp với bốn phân hệ trên, đó là :
- Chức năng phù hợp (Adaptation) : giải quyết những nhu cầu về môi trường và tài nguyên thiên nhiên sẵn có - chức năng thuộc lĩnh vực lao động và kinh tế.
- Chức năng hướng đích ( Goal attainment ) - chức năng chính trị
- Chức năng hoà nhập ( Integration ) - chức năng pháp luật
- Chức năng bảo toàn cấu trúc ( Latency ) - chức năng giáo dục
Nội dung của lý thuyết này có thể được khái quát như sau : xã hội ở tầm vĩ mô hay vi mô đều luôn tồn tại với tư cách một hệ thống toàn vẹn, mọi bộ phận cấu thành hệ thống đều phụ thuộc lẫn nhau một cách chặt chẽ, mỗi yếu tố riêng lẻ chỉ có ý nghĩa khi đặt nó trong tổng thể, các mối tương tác, cơ cấu và trạng thái cũng phải được đặt trong tổng thể nếu muốn hiểu rõ về chúng.
Trên cơ sở đó, khi xem xét hoạt động học thêm ngoại ngữ của sinh viên Xã hội học, ta phải đặt nó trong mối quan hệ biên chứng và thống nhất với những quá trình, những hoạt động khác của sinh viên, đồng thời đặt nó vào bối cảnh kinh tế- xã hội để có được cái nhìn đa diện và biện chứng.
2.2 Lý thuyết hành động xã hội
Các lý thuyết Xã hội học về hành động xã hội có nguồn gốc từ Pareto, Weber, Znaniecki, Mead, Parsons. Các lý thuyết này đều coi hành động xã hội là cốt lõi của mối quan hệ giữa con người và xã hội, đồng thời là cơ sở của đời sống xã hội. Trong Xã hội học, hành động xã hội được hiểu một cách cụ thể và thường gắn với các chủ thể hành động là các cá nhân. Định nghĩa của Weber được coi là định nghĩa hoàn chỉnh nhất về hành động xã hội. Ông cho rằng hành động xã hội là hành vi mà chủ thể gắn cho nó một ý nghĩa chủ quan nhất định, trên cơ sở đó chủ thể định hướng vào hành vi của những chủ thể khác. Không chỉ Weber mà cả những tác giả khác của lý thuyết hành động xã hội đều quan tâm đến một vấn đề cơ bản của hành động xã hội, đó là sự tham gia của yếu tố ý thức, Weber thì gọi đó là ý nghĩa chủ quan và sự định hướng mục đích, Mead thì xem đó là tâm thế xã hội của các cá nhân.
Hành động xã hội luôn gắn với tính tích cực cá nhân. Tính tích cực này lại bị quy định bởi hàng loạt những yếu tố như nhu cầu, lợi ích, định hướng giá trị của chủ thể hành động. Tất cả những yếu tố và quá trình đó là phương thức tồn tại của chủ thể .
Xem xét hoạt động học thêm ngoại ngữ của sinh viên Xã hội học dưới góc độ của lý thuyết hành động xã hội sẽ thấy được thực trạng của hoạt động này được quy định bởi những yếu tố như nhu cầu, lợi ích, định hướng giá trị của chính chủ thể sinh viên. Từ đó thấy được mối liên hệ biện chứng giữa động cơ và thực trạng hoạt động học thêm ngoại ngữ trong sinh viên Xã hội học hiện nay
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tổng quan tình hình học ngoại ngữ của sinh viên Xã hội học
Khoa Xã hội học trường ĐH KHXH&NV thuộc ĐHQG Hà Nội được chính thức thành lập, tách ra khỏi khoa Tâm lý học xã hội vào năm 1996. Hiện nay khoa đang đào tạo hơn 500 sinh viên hệ cử nhân chính quy. Việc thi tuyển đầu vào được thực hiên ở các khối A,C,D trong đó khối C chiếm tỉ lệ cao nhất, khối D chỉ chiếm gần 30%.
Sinh viên học tập tại khoa, cũng như sinh viên các khoa khác trong trường, được đăng ký học ngoại ngữ theo nguyện vọng. Tuy nhiên, do ở chương trình phổ thông sinh viên chủ yếu được đào tạo môn tiếng Anh nên đa phần sinh viên đăng ký theo học tiếng Anh tại trường, chỉ có khoảng 10% đăng kí các thứ tiếng khác như Pháp, Nga, Trung. Sinh viên Xã hội học được học ngoại ngữ trong 5/8 kì học và được giảng dạy bằng những giáo trình thông dụng do giáo trình ngoại ngữ chuyên ngành chưa được biên soạn.
Do thi đầu vào từ nhiều khối, nhiều miền khác nhau với trình độ ngoại ngữ rất khác nhau, nhìn chung kết quả học ngoại ngữ tại trường của sinh viên Xã hội học có một sự phân hoá rất lớn, nhiều sinh viên dễ dàng vượt qua các kỳ thi với điểm khá, giỏi và thấy chương trình học có phần đơn giản không phù hợp với trình độ. Trong khi đó có một bộ phận lớn các sinh viên thi khối A,C, sinh viên vùng cao, vùng sâu vùng xa lại thấy chương trình học ngoại ngữ chính khoá quá phức tạp đối với họ và không thể tránh khỏi việc thi lại.
Hoạt động học thêm ngoại ngữ của sinh viên Xã hội học rất đa dạng về động cơ, hình thức cũng như hiệu quả thu được. Sinh viên có thể học thêm một ngoại ngữ mới hoặc chỉ củng cố và nâng cao ngoại ngữ đang theo học tại trường. Sinh viên có thể học với hình thức gia sư, lớp tự tổ chức, các lớp tại chức, đào tạo từ xa, nhưng phổ biến nhất vẫn là theo học tại các trung tâm ngoại ngữ, hiện là một hình thức học thông dụng nhất tại Hà Nội.
Hiện nay, theo số liệu thống kê của sở GD-ĐT, tính đến thời điểm tháng 8-2000, trên địa bàn Hà Nội có 65 trung tâm ngoại ngữ có đăng kí với sở và rất nhiều trung tâm mở không đăng kí.Các trung tâm ngoại ngữ chủ yếu tập trung ở khu vực trường Đại học Bách khoa, cụm các trường đại học thuộc quận Thanh Xuân và Cầu Giấy.Tại Hà Nội, chỉ có 2 trung tâm dạy ngoại ngữ với 100% giáo viên người nước ngoài là trung tâm Apollo (có mặt tại đây từ năm 1994) và trung tâm Language Link -UDP (có mặt từ 1996) Đây là nơi có chất lượng đào tạo rất cao, điều kiện học tập và giảng dạy tốt nhưng cũng đòi hỏi ở người học một trình độ nhất định và đặc biệt là học phí rất cao (300USD cho 6 tháng học tại Language Link và 171 USD cho 3 tháng học tại Apollo ) Do đó , hầu hết sinh viên vẫn tìm đến những trung tâm ngoại ngữ do giáo viên Việt Nam giảng dạy dù có thể môi trường và chất lượng học tập ở những nơi này không được tốt.
2. Nhận thức của sinh viên về vai trò của ngoại ngữ.
Phong trào học ngoại ngữ trở nên thực sự lớn mạnh ở Việt Nam trong khoảng hơn một thập kỷ nay cũng với sự mở cửa giao lưu của xã hội Việt Nam và sự phát triển của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đối với xã hội, ngoại ngữ được xem như một phương tiện để hội nhập với thế giới, để giao lưu học hỏi và thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế xã hội. Đối với cá nhân, ngoại ngữ là điều kiện để đảm bảo một tương lai vững chắc, là tấm vé giúp cá nhân tự tin gia nhập vào thị trường việc làm đầy tính cạnh tranh như hiện nay. Sinh viên- những người trong tương lai rất gần sẽ bước vào thị trường ấy-là những đối tượng cần đặc biệt trao dồi và nâng cao vốn ngoại ngữ của mình. Vai trò to lớn của ngoại ngữ theo sinh viên từ khi họ còn học tập tại giảng đường đại học, ngoại ngữ giúp sinh viên mở rộng thêm vốn kiến thức của mình qua những nguồn tài liệu phong phú, giúp họ trở nên tự tin hơn. Sau khi tốt nghiệp, ngoại ngữ sẽ là điều kiện cần thiết, có thể là thế mạnh trong cạnh tranh của sinh viên khi xin việc và khi đã bước vào ngưỡng cửa của công việc, ngoại ngữ vẫn sẽ theo họ, trở thành vốn kiến thức quý báu giúp họ thực hiện tốt hơn công việc của mình.
Tầm quan trọng của ngoại ngữ đối với mọi người nói chung và đối với sinh viên nói riêng dường như đã trở thành một vấn đề không cần bàn cãi. Tuy nhiên, phải chăng mọi sinh viên đều đã có thể nhận thức được điều đó? Liệu có tồn tại những sinh viên chỉ thấy được bề nổi của sự phát triển mạnh mẽ phong trào học ngoại ngữ, chỉ thấy sự cần thiết mang tính hình thức của những tấm bằng khi xin việc ?
Để tìm câu trả lời cho vấn đề này, tôi tiến hành tìm hiểu nhận thức của sinh viên đối với tầm quan trọng của ngoại ngữ thông qua câu hỏi “ Xin bạn đánh giá tầm quan trọng của ngoại ngữ đối với bạn khi ra trường” và đưa ra 3 phương án trả lời :
1.Rất quan trọng
2.Không quan trọng lắm
3.Không quan trọng
Sở dĩ tôi chỉ đưa ra 3 phương án trên mà không có phương án “ quan trọng” bởi tôi muốn đánh giá tầm quan trọng của ngoại ngữ theo 3 mức độ nhiều, trung bình và ít, nếu có ai đó chỉ muốn đánh giá ở mức “quan trọng “ thì có nghĩa là họ cũng thiên về phương án với mức độ nhiều. Chỉ đưa ra 3 phương án sẽ hạn chế được sự phân tán trong các câu trả lời.
Bảng 2 : Đánh giá vai trò của ngoại ngữ
STT
Mức độ đánh giá
Sinh viên XHH
Sinh viên
1
Rất quan trọng
78%
76%
2
Không quan trọng lắm
20%
22%
3
Không quan trọng
2%
2%
Nhìn chung, đa phần sinh viên Xã hội học đều đánh giá vai trò của ngoại ngữ đối với họ là rất cần thiết. Tuy nhiên, vẫn tồn tại một tỷ lệ đáng kể cho rằng ngoại ngữ đối với họ chỉ hơi quan trọng và một tỷ lệ nhỏ cho rằng ngoại ngữ không quan trọng.Nhận thức về tầm quan trọng của ngoại ngữ trong sinh viên Xã hội học so với sinh viên nói chung là không có sự chênh lệch đáng kể.
Ta hãy xét về cơ cấu của những ý kiến này để hiểu rõ hơn vấn đề.
Bảng 3 : Đánh giá vai trò của ngoại ngữ theo giới, năm học và hộ khẩu thường trú của sinh viên Xã hội học
STT
Mức độ đánh giá
Giới
Năm học
Hộ khẩu
1
Rất quan trọng
Nam 69,4%
Năm I- II 80%
Đô thị 87,2%
Nữ 82,8%
Năm III-IV 76,7%
Nông thôn 69,8%
2
Không quan trọng lắm
Nam 27,8%
Năm I-II 15%
Đô thị 8,5%
Nữ 15,6%
Năm III-IV 23,3%
Nông thôn 30,2%
3
Không quan trọng
Nam 2,8%
Năm I- II 5%
Đô thị 4,3%
Nữ 1,6%
Năm III-IV 0
Nông thôn 0
Về mặt giới, có một sự chênh lệch nhất định trong việc đánh giá vai trò của ngoại ngữ. Nữ sinh viên có xu hướng coi ngoại ngữ có tầm quan trọng cao hơn đối với họ với hơn 80% coi ngoại ngữ là rất quan trọng, trong khi tỷ lệ này ở nam chỉ là gần 70%. Tỷ lệ coi ngoại ngữ là không quan trọng ở nữ cũng thấp hơn nam và ở cả hai giới phương án này chỉ chiếm một phần rất nhỏ.
Theo cơ cấu năm học, không có sự phân biệt lớn ở sự lựa chọn phương án đầu.Với phương án coi ngoại ngữ là không quan trọng lắm thì có sự chênh lệch khá rõ, có tới 23,3% sinh viên những năm cuối coi ngoại ngữ là không quan trọng lắm, thì tỉ lệ này ở nhóm sinh viên những năm đầu là 15%.Tuy nhiên, trong khi không một sinh viên năm III-IV nào đánh giá rất