Đề tài Thực trạng cải cách hành chính và các giải pháp, phương hướng của cải cách hành chính trong giai đoạn hiện nay

Ngày nay, trước xu thế toàn cầu hoá kinh tế và văn hoá, cải cách hành chính trở thành một trào lưu, là một nhu cầu tự thân, nỗ lực của hầu hết các quốc gia trên thế giới, nhằm xây dựng một nền hành chính nhà nước hiện đại, năng động, hiệu quả, giảm phiền hà, một nền hành chính lấy đối tượng phục vụ làm tôn chỉ, mục đích chủ yếu, để từ đó xây dựng, phát triển và hoàn thiện nền hành chính. Ở Việt Nam hiện nay, công cuộc cải cách hành chính nhà nước đang là tâm điểm trong các nỗ lực của Đảng và Nhà nước nhằm tiến tới phát triển, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, “Nhà nước của dân, do dân, vì dân”, xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ và văn minh” và là điều kiện căn bản để góp phần đạt được các mục tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội quốc gia. Đảng ta, tại Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần IX đã khẳng định tiếp tục “ Xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá” không chỉ là mục tiêu của công cuộc cải cách hành chính mà còn là chủ trương góp phần thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế -xã hội đến 2010 ở Việt Nam. Chính vì vậy, Tôi đã chọn vấn đề “Thực trạng cải cách hành chính và các giải pháp, phương hướng của cải cách hành chính trong giai đoạn hiện nay” để nghiên cứu làm đề tài cho tiểu luận môn học Luật hành chính. Kết cấu của tiểu luận gồm: Mục lục Chương I: Cơ sở lý luận và cải cách hành chính Chương II: Đánh giá thực trạng cải cách hành chính Nhà nước Chương III: Giải pháp cải cách hành chính ở Việt Nam Kết luận

doc23 trang | Chia sẻ: lamvu291 | Lượt xem: 17106 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng cải cách hành chính và các giải pháp, phương hướng của cải cách hành chính trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤCLỤC Trang MỞ ĐẦU 2 CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH 3 I. Cải cách hành chính Nhà nước 3 II. Mục tiêu cải cách hành chính Nhà nước 4 1. Mục tiêu chung 4 2. Những mục tiêu cụ thể 5 III. Quan điểm của Đảng về cải cách hành chính Nhà nước 6 CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CỦA CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 12 1. Thực trạng cải cách hành chính ở Việt Nam 12 2. Nguyên nhân hạn chế, yếu kém 16 CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM 18 KẾT LUẬN 21 MỞ ĐẦU Ngày nay, trước xu thế toàn cầu hoá kinh tế và văn hoá, cải cách hành chính trở thành một trào lưu, là một nhu cầu tự thân, nỗ lực của hầu hết các quốc gia trên thế giới, nhằm xây dựng một nền hành chính nhà nước hiện đại, năng động, hiệu quả, giảm phiền hà, một nền hành chính lấy đối tượng phục vụ làm tôn chỉ, mục đích chủ yếu, để từ đó xây dựng, phát triển và hoàn thiện nền hành chính. Ở Việt Nam hiện nay, công cuộc cải cách hành chính nhà nước đang là tâm điểm trong các nỗ lực của Đảng và Nhà nước nhằm tiến tới phát triển, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, “Nhà nước của dân, do dân, vì dân”, xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ và văn minh” và là điều kiện căn bản để góp phần đạt được các mục tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội quốc gia. Đảng ta, tại Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần IX đã khẳng định tiếp tục “ Xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá” không chỉ là mục tiêu của công cuộc cải cách hành chính mà còn là chủ trương góp phần thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế -xã hội đến 2010 ở Việt Nam. Chính vì vậy, Tôi đã chọn vấn đề “Thực trạng cải cách hành chính và các giải pháp, phương hướng của cải cách hành chính trong giai đoạn hiện nay” để nghiên cứu làm đề tài cho tiểu luận môn học Luật hành chính. Kết cấu của tiểu luận gồm: Mục lục Chương I: Cơ sở lý luận và cải cách hành chính Chương II: Đánh giá thực trạng cải cách hành chính Nhà nước Chương III: Giải pháp cải cách hành chính ở Việt Nam Kết luận CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH I. CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Hiện nay trên thế giới, về mặt lý thuyết, có nhiều quan niệm khác nhau về cải cách hành chính. Có quan niệm cho rằng cải cách hành chính là sự cải tổ vàđiều chỉnh cơ cấu tổ chức do đó dẫn đến sự thay đổi về chức năng, phương thức quản lý và cơ cấu nhân viên. Đây là quan nhiệm có tính phổ biến và chủđạo nhất. Song, do quan điểm vềý thức hệ và tình hình thực tế của các nước khác nhau nên nội dung, mục tiêu cải cách hành chính cũng khác nhau. Tuy vậy, cải cách hành chính đều xuất phát từ thực tiễn và phát sinh chủ yếu do nguyên nhân sau: yêu cầu tất yếu của phát triển kinh tế - xã hội, yêu cầu tất yếu của việc cải tạo, điều chỉnh của cơ cấu hành chính, kết quả tất yếu của sự tác động của tiến bộ khoa học vào quản lý hành chính. Những yêu cầu của cải cách hành chính liên quan mật thiết với nội dung cải cách hành chính, đồng thời liên quan chặt chẽ với tính chất của cải cách hành chính. Về tính chất, cải cách hành chính là một sự biến đổi hay cách mạng trong lĩnh vực thượng tầng kiến trúc và quan hệ sản xuất, có tính chất chính trị và giai cấp rõ rệt. Tuy nhiên, từ góc độ hành chính thì cải cách hành chính phải phục tùng nhu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất xã hội và thúc đẩy khoa học hoá sự quản lý công việc của toàn bộ hệ thống hành chính nhà nước, nên nó có tính cộng đồng xã hội nhất định. Tuy nhiên, tính chất của cải cách hành chính ở các nước có chếđộ xã hội, kinh tế khác nhau, vẫn có sự khác biệt về bản chất. Tính chất khác biệt chủ yếu về mặt chính trị, tính cộng đồng biểu hiện ở các khía cạnh sau đây: - cải cách để thúc đẩy việc khoa học hoá, hiệu suất hoá công việc quản lý hành chính; - Cải cách làđể kích thích nhiệt tình công tác và tính tích cực của cán bộ, công chức, phát huy đầy đủ năng lực sáng tạo của họ. - Cải cách làđể xây dựng hệ thống quản lý Nhà nước có cơ cấu hợp lý, công năng đầy đủ, chức năng rõ ràng, tinh giản mà hiệu quả cao, có pháp chê hoàn bị và cơ chế tự kiểm soát để thích ứng với sự thay đổi phát triển của tình hình kinh tế xã hội và Từ những phân tích trên đây, cải cách hành chính có thểđược hiểu một cách khái quát, chung nhất, đó là: Cải cách hành chính là hoạt động của Chính phủ căn cứ vào yêu cầu phát triển kinh tế, chính trị của xã hội mà hiện đại hoá, khoa học hoá, hiệu suất hoá thể chế hành chính, cơ cấu tổ chức, chếđộ công tác, phương thức quản lýđể nâng cao năng suất và hiệu lực hành chính của toàn bộ nền hành chính nhà nước. II. MỤC TIÊU CỦA CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH Cải cách hành chính ở Việt Nam là công việc hết sức mới mẻ, diễn ra trong điều kiện thiếu kiến thức và kinh nghiệm về quản lý hành chính Nhà nước trong thời kỳđổi mới, mở cửa, phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, nên có nhiều vấn đề phải vừa làm, vừa tìm tòi, tổng kết đúc rút kinh nghiệm. Do vậy, việc hình thành quan niệm và những nguyên tắc cơ bản chỉđạo công cuộc cải cách hành chính cũng như việc đề ra những nội dung, phương hướng, chủ trương, giải pháp thực hiện trong từng giai đoạn là một quá trình tìm tòi sáng tạo không ngừng, là một quá trình nhận thức liên tục, thống nhất trong tiến trình đổi mới. Cho nên, cải cách hành chính ở Việt Nam vừa có tính chiến lược, vừa có tính chiến thuật giai đoạn, được xác định trong khuôn khổ những mục tiêu chung và những mục tiêu cụ thể cần đạt được trong từng giai đoạn nhất định. 1. Mục tiêu chung. Mục tiêu chung của cải cách hành chính ở Việt Nam thực hiện đến năm 2010 là: - Xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng; - Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Đến năm 2010, hệ thống hành chính về cơ bản được cải cách phù hợp với yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 2. Những mục tiêu cụ thể. 2.1. Mục tiêu thứ nhất. - Hoàn thiện hệ thống thể chế hành chính, cơ chế, chính sách phù hợp với thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trước hết là các thể chế về kinh tế, về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính. - Tiếp tục đổi mới quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, khắc phục tính cục bộ trong việc chuẩn bị, soạn thảo các văn bản; đề cao trách nhiệm của từng cơ quan trong quá trình xây dựng thể chế; phát huy dân chủ, huy động trí tuệ của nhân dân để nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật. 2.2. Mục tiêu thứ hai. Xóa bỏ về cơ bản các thủ tục hành chính mang tính quan liêu, rườm rà, gây phiền hà cho doanh nghiệp và nhân dân; hoàn thiện các thủ tục hành chính mới theo hướng công khai, đơn giản và thuận tiện cho dân. 2.3. Mục tiêu thứ ba. Các cơ quan trong hệ thống hành chính được xác định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm rõ ràng; chuyển được một số công việc và dịch vụ không cần thiết phải do cơ quan nhà nước thực hiện cho doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủđảm nhận. 2.4. Mục tiêu thứ tư. Cơ cấu tổ chức của Chính phủ gọn nhẹ, hợp lý theo nguyên tắc Bộ quản lýđa ngành, đa lĩnh vực, thực hiện chức năng chủ yếu là quản lý vĩ mô toàn xã hội bằng pháp luật, chính sách, hướng dẫn và kiểm tra thực hiện. Bộ máy của các Bộđược điều chỉnh về cơ cấu trên cơ sở phân biệt rõ chức năng, phương thức hoạt động của các bộ phận tham mưu, thực thi chính sách, cung cấp dịch vụ công. 2.5. Mục tiêu thứ năm. Đến năm 2005, về cơ bản xác định xong và thực hiện được các quy định mới về phân cấp quản lý hành chính nhà nước giữa trung ương vàđịa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương; định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và tổ chức bộ máy chính quyền ởđô thị và nông thôn. Các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện được tổ chức lại gọn nhẹ, thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước theo nhiệm vụ và thẩm quyền được xác định trong Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân vàủy ban nhân dân (sửa đổi). Xác định rõ tính chất, cơ cấu tổ chức, chếđộ làm việc của chính quyền cấp xã. 2.6. Mục tiêu thứ sáu. Đến năm 2010, đội ngũ cán bộ, công chức có số lượng, cơ cấu hợp lý, chuyên nghiệp, hiện đại. Tuyệt đại bộ phận cán bộ, công chức có phẩm chất tốt vàđủ năng lực thi hành công vụ, tận tụy phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước và phục vụ nhân dân. 2.7. Mục tiêu thứ bảy. Đến năm 2005, tiền lương của cán bộ, công chức được cải cách cơ bản, trở thành động lực của nền công vụ, bảo đảm cuộc sống của cán bộ, công chức và gia đình. 2.8. Mục tiêu thứ tám. Đến năm 2005, cơ chế tài chính được đổi mới thích hợp với tính chất của cơ quan hành chính và tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công. 2.9. Mục tiêu thứ chín. Nền hành chính nhà nước được hiện đại hóa một bước rõ rệt. Các cơ quan hành chính có trang thiết bị tương đối hiện đại phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước kịp thời và thông suốt. Hệ thống thông tin điện tử của Chính phủđược đưa vào hoạt động. III. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH Cuộc cải cách hành chính đặt trong khuôn khổ các quan điểm và chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam vềđổi mới hệ thống chính trị và cải cách bộ máy nhà nước. Cải cách và hoàn thiện nền hành chính nhà nước gắn liền với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói chung và nền hành chính nói riêng, nhằm giữ vững và phát huy bản chất của giai cấp công nhân, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nền hành chính phải được tổ chức thành một hệ thống thống nhất ổn định, hoạt động thông suốt, trên cơ sở phân công, phân cấp và chếđộ trách nhiệm rành mạch, có kỷ cương nghiêm ngặt, cơ quan hành chính và cán bộ, công chức nhà nước chịu sự giám sát chặt chẽ của nhân dân. áp dụng các cơ chế, biện pháp hữu hiệu ngăn ngừa những hành vi mất dân chủ, tự do, tùy tiện, quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân. Các chủ trương, giải pháp cải cách hành chính phải gắn liền chặt chẽ với bước đi của đổi mới kinh tế, với yêu cầu phát triển đất nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, hình thành và hoàn thiện các yếu tố của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững trật tự, kỷ cương trong các hoạt động kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân. Cải cách hành chính là nhiệm vụ rộng lớn, phức tạp đòi hỏi có tầm nhìn bao quát với những giải pháp đồng bộ, kết hợp chặt chẽ cải cách hành chính với đổi mới hoạt động lập pháp, cải cách tư pháp. Cải cách hành chính phải được tiến hành từng bước vững chắc, có trọng tâm, trọng điểm, lựa chọn khâu đột phá trong từng giai đoạn cụ thể. Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1986 đã mở ra một kỷ nguyên mới trong xây dựng, đổi mới, mở cửa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ ngghĩa, mở rộng hợp tác quốc tế. Trên cơ sởđánh giá, xác định đúng những nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế- xã hội trầm trọng, nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần VI đã chỉ rõ nguyên nhân của mọi nguyên nhân là công tác tổ chức và đề ra chủ trương thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy các cơ quan nhà nước. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, tổ chức bộ máy nhà nước đã được sắp xếp lại một bước theo hướng gọn nhẹ, bớt đầu mối. Tuy nhiên, nhìn chung tổ chức và biên chế của bộ máy nhà nước vẫn còn quá cồng kềnh, nặng nề, đòi hỏi tiếp tục được cải cách, đổi mới. Tại Đại hội toàn quốc lần VII, đã thông qua nghị quyết chỉ rõ việc tiếp tục phải cải cách bộ máy nhà nước và đề ra những nhiệm vụ cho Nhà nước về sửa đổi Hiến pháp, cải tiến tổ chức và hoạt động của Quốc hội, sửa đổi cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Chính phủ, của chính quyền địa phương. Trên cơ sở những nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra, trong nhiệm kỳ này đã tiến hành đợt sắp xếp lần thứ hai kể từ Đại hội VI hệ thống chính trị ở nước ta bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000, khẳng định bước tiến về lý luận, nhận thức về nền hành chính nhà nước. Cương lĩnh nêu rõ, về Nhà nước “phải có đủ quyền lực và có đủ khả năng định ra luật pháp về tổ chức, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật. Sửa đổi hệ thống tổ chức nhà nước, cải cách bộ máy hành chính, kiện toàn các cơ quan lập pháp để thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý của Nhà nước”. Chiến lược cũng đặt nhiệm vụ trọng tâm cải cách “nhằm vào hệ thống hành chính với nội dung chính là xây dựng một hệ thống hành chính và quản lý hành chính nhà nước thông suốt, có đủ quyền lực, năng lực, hiệu quả ”. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, tháng 4/1992, Hiến pháp mới thay thế Hiến pháp 1980 đãđược Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua. Hiến pháp 1992 ghi nhận đầy đủ, rõ hơn về sự phân công, phối hợp giữa 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong tổng thể quyền lực thống nhất của Nhà nước. Sau Đại hội VII, từ 1992 đến 1995, đây là giai đoạn phát triển mạnh mẽ tư duy, quan niệm, nhận thức của Đảng về nền hành chính nhà nước và về cải cách hành chính. Hội nghị Trung ương 8 khoá VII (1/1995) đã đánh dấu bước phát triển mới về quan điểm, nhận thức xây dựng và phát triển nền hành chính nhà nước. Cải cách một bước nền hành chính nhà nước được xác định là trọng tâm của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước, với mục tiêu nhằm xây dựng một nền hành chính trong sạch, có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực và từng bước hiện đại hoá nhằm phục vụđắc lực đời sống nhân dân, thúc đẩy tiến trình đổi mới, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong đó, cần tập trung thực hiện tốt 3 việc: - Cải cách thể chế của nền hành chính nhằm đáp ứng từng bước yêu cầu tăng cường quan hệ gắn bó giữa nhân dân với chính quyền và bảo đảm sự quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. - Chấn chỉnh tổ chức, bộ máy và quy chế hoạt động của hệ thống hành chính theo phương hướng và nguyên tắc: Chính phủ và cơ quan hành chính các cấp cần được sắp xếp tinh gọn, tập trung làm tốt công tác quản lý nhà nước, phát triển kinh tế, chăm lo giải quyết các vấn đề văn hoá,xã hội, bảo vệ môi trường, giữ gìn an ninh và củng cố quốc phòng, mở rộng hoạt động đối ngoại; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra để mọi thành phần kinh tế kinh doanh đúng pháp luật. - Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Trong đội ngũ cán bộ, công chức, ngoài sốđược dân cử theo nhiệm kỳ, lực lượng đông đảo làđội ngũ cán bộ, công chức cần được tuyển chọn và sử dụng theo hướng chuyên nghiệp hoá, ổn định, làm việc tận tuỵ và công tâm, cóđủ trình độ, năng lực đáp ứng tiêu chuẩn quy hoạch cho từng chức danh. Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khoá VII đã mở ra một giai đoạn mới, giai đoạn chuyển biến thật sự trong cải cách hành chính ở nước ta. Có thể nói Nghị quyết Trung ương 8 (khoá VII) cóý nghĩa quan trọng thúc đẩy tiến trình cải cách hành chính của 20 năm đổi mới vừa qua.  Tiếp tục khẳng định cải cách hành chính là trọng tâm của việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước trong những năm trước mắt, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996) nhấn mạnh yêu cầu tiến hành cải cách hành chính đồng bộ, dựa trên cơ sở pháp luật, coi đó là một giải pháp cơ bản để thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội 5 năm 1996-2000. Với tinh thần đẩy mạnh cải cách hành chính được đề ra trong Nghị quyết Trung ương 8 (khoá VII), Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp với cơ chế mới; cải tiến quy trình xây dựng và ban hành văn bản pháp luật của Chính phủ, đồng thời tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, và sắp xếp lại bộ máy hành chính từ Trung ương đến địa phương, hợp nhất một số cơ quan quản lý chuyờn ngành về kinh tế trên cơ sở xác định rõ và thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước của các bộ, ngành. Trong đó, 4 điểm mới quan trọng được bổ sung trong định hướng cải cách được Nghị quyết đề ra là: - Phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của từng cấp hành chính; - Tiếp tục nghiên cứu để cụ thể hoá sự phân cấp quản lý nhà nước giữa các cơ quan của Chính phủ với chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;  - Đổi mới chế độ công chức và công vụ, bao gồm: sửa đổi quy chế thi tuyển, bồi dưỡng, đào tạo mới và trẻ hoá đội ngũ cán bộ, công chức, kiên quyết xử lý và sa thải những người thoái hoá, biến chất; tăng cường biện pháp và phối hợp lực lượng đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, cửa quyền trong bộ máy quản lý nhà nước và các tổ chức kinh tế nhà nước; - Thành lập Toà án hành chính và thực hiện xã hội hoá đối với một số hoạt động thuộc lĩnh vực dịch vụ công. Hội nghị lần thứ 3 của Ban Chấp hành Trung ương (khoá VIII) họp tháng 6/1997 đã ra Nghị quyết về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Một trong những chủ trương và giải pháp lớn về cải cách hành chính được nhấn mạnh trong Nghị quyết quan trọng này là bảo đảm thực hiện dân chủ hoá đời sống chính trị của xã hội, giữ vững và phát huy bản chất tốt đẹp của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ nhà nước; trong giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước và hoạt động của cán bộ, công chức. Đây là cơ sởđể Chính phủ ban hành các quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở. Trong việc xây dựng chiến lược về cán bộ cho thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đến năm 2020, Nghị quyết Trung ương 3 đặc biệt nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực, coi đó là yếu tố quyết định đến chất lượng bộ máy nhà nước. Cán bộ lãnh đạo phải được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức toàn diện, được bố trí, điều động theo nhu cầu và lợi ích của đất nước. Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VIII), đã biểu thị một quyết tâm chính trị rất lớn về việc tiếp tục tiến hành cải cách hành chính, đặt cải cách hành chính trong tổng thể của đổi mới hệ thống chính trị. Từ việc kiểm điểm tình hình và rút kinh nghiệm thực tiễn, Đảng đã đi đến khẳng định, trong điều kiện một đảng cầm quyền, việc đổi mới chưa đồng bộ, toàn diện các tổ chức trong hệ thống chính trị là trở ngại lớn của công cuộc cải cách hành chính ở nước ta trong thời gian qua. Không thể tiến hành cải cách riêng nền hành chính tách rời sự đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo của Đảng, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các đoàn thể nhân dân. Cũng không thể cải cách hành chính một cách biệt lập mà không đồng thời đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của các cơ quan lập pháp, cơ quan tư pháp. Từ nhận thức đó, Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VIII) đề ra chủ trương tiến hành sắp xếp lại tổ chức bộ máy đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị gắn liền với cải cách hành chính theo hướng tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Đồng thời, với việc kiên quyết sắp xếp một bước bộ máy các tổ chức trong hệ thống chính trị, thực hiện tinh giảm biên chế, cải cách chính sách tiền lương. Tại Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (năm 2001), bên cạnh việc tiếp tục khẳng định nhất quán mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoáđã đưa ra một loạt chủ trương, giải pháp cóý nghĩa quan trọng trong cải cách hành chính thời gian tới như điều chỉnh chức năng và cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ, nguyên tắc bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; phân công, phân cấp; tách cơ quan hành chính công quyền với tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công; tiếp tục cải cách doanh nghiệp nhà nước, tách rõ chức năng quản lý nhà nước với sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp; tiếp tục cải cách thủ tục hành chính; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực; thiết lập trật tự