Trên thế giới hiện nay vấn đề đói nghèo vẫn là một trong những vấn đề cần được quan tâm giải quyết mang tính cấp thiết. Bởi vì, trong thời đại ngày nay khi nhân loại đang hướng tới một nền văn minh tin học, thì bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận dân cư đang sống trong tình trạng nghèo đói. Chính vì thế, một trong những chính sách hàng đầu của liên hiệp quốc là phải cải thiện mức sống cho hơn một tỉ người nghèo trên thế giới. “ Tại hội nghị thượng đỉnh của Liên hợp quốc năm 2000, có 189 quốc gia thành viên tham gia đã nhất trí thông qua tuyên bố thiên niên kỷ và cam kết đạt được mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG ) vào năm 2015.”
81 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 6330 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng đói nghèo và những giải phấp xóa đói giảm nghèo cho đồng bào dân tộc Mông - Huyện Yên Minh – tỉnh Hà Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỘT : MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài:
Trên thế giới hiện nay vấn đề đói nghèo vẫn là một trong những vấn đề cần được quan tâm giải quyết mang tính cấp thiết. Bởi vì, trong thời đại ngày nay khi nhân loại đang hướng tới một nền văn minh tin học, thì bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận dân cư đang sống trong tình trạng nghèo đói. Chính vì thế, một trong những chính sách hàng đầu của liên hiệp quốc là phải cải thiện mức sống cho hơn một tỉ người nghèo trên thế giới. “ Tại hội nghị thượng đỉnh của Liên hợp quốc năm 2000, có 189 quốc gia thành viên tham gia đã nhất trí thông qua tuyên bố thiên niên kỷ và cam kết đạt được mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG ) vào năm 2015.”
( Tài liệu tập huấn giành cho cán bộ làm công tác XĐGN cấp tỉnh và cấp huyện – Bộ lao động thương binh và xã hội- Nhà xuất bản lao động xã hội – 2003).
Có thể nói rằng chưa bao giờ các nhà lãnh đạo cao cấp của các quốc gia lại quan tâm đến vấn đề đói nghèo như bây giờ. Điều này đã khẳng định sự đồng thuận chưa từng có trong lịch sử của các nhà lãnh đạo trên thế giới về những thách thức lớn ở cấp toàn cầu trong thế kỷ 21 cũng như những cam kết của họ sẽ giải quyết thách thức này.
Như vậy, tuyên bố thiên niên kỷ và các mục tiêu phát triển tạo ra lộ trình và một tầm nhìn về một thế giới mà ỏ đó không còn người nghèo đói, ai cũng được học hành, sức khỏe của người dân được cải thiện, môi trường được bảo vệ một cách bền vững, mọi người đều được hưởng các quyền tự do, bình đẳng và công bằng.
Ở Việt Nam, nghèo đói là vấn đề được nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Ngay từ những ngày đầu thành lập nước ( 2 / 9 / 1945 ), chủ tịch nước Hồ Chí Minh đã quan niệm nghèo đói như một thứ giặc đó là “giặc đói”, “giặc dốt”, “giặc ngoại xâm”. Chính vì thế Người đã xác định nhiệm vụ trước mắt là phải diệt giặc đói để đồng bào ta “ ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”
( Hồ Chí Minh – toàn tập 4- nhà xuất bản chính trị quốc gia).
Mục tiêu xóa đói giảm nghèo là yếu tố cơ bản để đảm bảo công bằng xã hội và tăng trưởng bền vững, ngược lại chỉ có tăng trưởng cao, bền vững mới có sức mạnh vật chất để hỗ trợ và tạo cơ hội cho người nghèo vươn lên thoát khỏi đói nghèo. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã phân tích sâu sắc những nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế – xã hội của nước ta từ nhiều năm trước, đề ra đường lối đổi mới toàn diện, vạch ra những định hướng đúng đắn để từng bước đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng đó, mở ra bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta. Kể từ đây nền kinh tế của Việt Nam có những bước phát triển mới, “Đặc biệt là từ năm 1991 đến 1995 nhịp độ tăng tổng sản phẩm trong nước( GDP) đạt 8,2%”. Với tốc độ tăng trưởng như vậy nên “ đời sống vật chất của phần lớn nhân dân được cải thiện. Số hộ có thu nhập bình quân và số hộ giầu tăng lên, số hộ nghèo giảm”
( Văn kiện đại hội Đảng VIII trang 59 – nhà xuất bản chính trị quốc gia).
Tuy nhiên do nền kinh tế nước ta chưa phát triển do bởi, xuất phát điểm thấp, hậu quả của chiến tranh còn nặng nề, cơ chế quản lí cũ không còn phù hợp với xu thế phát triển chung. Ngoài ra điều kiện tự nhiên cũng có những tác động không nhỏ đến quá trình phát triển kinh tế : Như khí hậu thời tiết khắc nghiệt, thiên tai, dịch bệnh vẫn thường xuyên xảy ra… Thêm vào đó trình độ tay nghề, kinh nghiệm sản xuất của người lao động còn rất thấp… Cho nên một bộ phận không nhỏ dân cư gặp không ít khó khăn trong sản xuất và đời sống, đã trở nên nghèo đói. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường sự phân hóa giầu nghèo ngày càng tăng lên một cách rõ rệt với quy mô ngày càng lớn. Theo số liệu của tổng cục thống kê, số hộ nghèo đói năm 1998 còn 1,4 triệu hộ chiếm15,7% trên tổng số hộ trong cả nước. Số hộ này tập trung nhiều ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong đó có Huyện Yên Minh - Tỉnh hà Giang.
Nói đến Hà Giang là nói đến một tỉnh nghèo ở địa đầu tổ quốc, nơi đây với địa hình chia cắt phức tạp, khí hậu khắc nghiệt, hạ tầng cơ sở còn thấp kém, kinh tế chậm phát triển, đời sống của nhân dân còn gặp rất nhiều khó khăn. Vì thế huyện yên minh nằm trong điều kiện chung của tỉnh nên không thể tránh khỏi những khó khăn chung đó của tỉnh. Ngoài ra Yên Minh lại là một huyện vùng cao núi đá nằm trong bốn huyện khó khăn nhất của tỉnh ,nên những khó khăn nêu trên của huyện lại tăng thêm gấp bội. Chính vì vậy tỷ lệ hộ đói nghèo của huyện còn khá cao so với mặt bằng chung của tỉnh. Trước tình trạng chung đó thị trấn yên minh cũng không nằm ngoài diện còn hộ đói nghèo với tỷ lệ cao.Chính vì vậy trong những năm qua huyện Yên minh dã có nhiều cơ chế chính sách hỗ trợ các hộ đói nghèo thoát đói giảm nghèo. Nhằm rút ngăn khoảng cách giàu nghèo, taọ cơ hội cho mọi người dân đều có quyền bình đẳng tối thiểu ngang nhau. Các chính sách về xóa đói giảm nghèo được chính quyền địa phương tổ chức triển khai hết sức chặt chẽ, được đông đảo người dân hưởng ứng và đồng tình thưc hiện. Vì vậy, đời sống của người dân đã từng bước được cải thiện rõ rệt.
Tuy nhiên, như đã nói ở trên Yên minh là huyện vùng cao núi đá của tỉnh, đời sống kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, trình độ dân trí còn thấp, địa hình phức tạp chia cắt, phong tục tập quán lạc hậu còn nặng nề. Do vậy, mặc dù các cơ chế chinh sách trong công tác xóa đói giảm nghèo đã được thực thi . Xong trong thực tế các cơ chế chính sách về xóa đói giảm nghèo không phải lúc nào cũng được thực hiện một cách nghiêm túc và có hiệu quả.
Chính vì những lí do và tính cấp thiết của vấn đề đã nêu trên nên trong luận văn của mình tôi chọn đề tài nghiên cứu:
“ Thực trạng đói nghèo và những giải phấp xóa đói giảm nghèo cho đồng bào dân tộc Mông- huyện Yên Minh – tỉnh Hà Giang”
Qua đó tìm hiểu thực trạng đói nghèo, nhu cầu xóa đói giảm nghèo của người dân và hiệu quả của những chính sách xóa đói giảm nghèo trên địa bàn.
2. ý nghĩa khoa học và thực tiễn
2.1.Ý nghĩa khoa học.
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ làm sáng tỏ và phong phú thêm một số luận điểm của lý thuyết xã hội học nói chung và của các lý thuyêt được áp dụng trong đề tài nay nói riêng. Như lý thuyết về sự phân tầng xã hội, lý thuyết tương tác xã hội…cho tới thực trạng và giải pháp xóa đói giảm nghèo nói riêng.
Đã có một số công trình nghiên cứu khoa học và bài viết đề cập đến vấn đề xóa đói giảm nghèo. Trong đề tài nghiên cứu này, chúng tôi có sử dụng một số tư liệu, số liệu của các công trình nghiên cứu trước.
Đặc biệt chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu của xã hội học, sử dụng lý thuyết về phân tầng xã hội, lý thuyết tương tác, lý thuyết về hành động xã hội và vận dụng hệ thống lý luận của các khoa học để tiếp cận , nghiên cứu, giải thích, cũng như tìm ra các quy luật, các yếu tố xã hội tác động…
2.2. Ý nghĩa thực tiễn.
Trong nên kinh tế thị trường hiện nay, kinh tế hộ gia đình là một thành phần kinh tế quan trọng, có nhiều đóng góp vào nền kinh tế quốc dân. Do vậy, việc tồn tại một tỷ lệ không nhỏ các hộ gia đình đang sống trong cảnh nghèo đói là một thực tế nhức nhối. Nó gây ảnh hưởng lớn tới tốc đọ tăng trưởng kinh tế của đất nước và các vấn đề xã hộ khác.
Vì vậy, nghiên cứu này giúp người dân đặc biệt là người dân tộc Mông hiểu rõ hơn về thực trạng đói nghèo trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời giúp cho những hộ thuộc diện đói nghèo tự trang bị cho mình những tri thức hiểu biết cần thiết, biết khai thác tiềm năng săn có ở địa phương, các nguồn nội lực của gia đình và bản thân. Phát huy tối ưu và vận dụng các cơ chế chính sách của chính quyền các cấp đã ban hành, trong công tác xóa đói giảm nghèo một cách thuận lợi và có hiệu quả nhất.
Góp phần giúp các nhà chức trách địa phương có cái nhìn rõ hơn về thực trạng nghèo đói hiện nay. Từ đó có những cơ chế chính sách phù hợp với nhu cầu xóa đói giảm nghèo của người dân cũng như phù hợp với khả năng hỗ trợ của nhà nước. Mà mục tiêu chung là làm rút ngắn khoảng cách phân biệt giầu nghèo. Tạo ra sự bình đẳng tối thiểu trong xã hội .
3. Mục tiêu nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu nhằm tìm hiểu thực trạng đói nghèo của người dân tộc ít người miền núi, đặc biệt là đồng bào dân tộc Mông và nhu cầu về xóa đói giảm nghèo. Đồng thời nghiên cứu những chính sách về xóa đói giảm nghèo của nhà nước, cũng như của địa phương. Qua việc mô tả đời sống của người dân. Thông qua các chỉ báo, những số liệu, những thông tin thu được từ các cuộc khaỏ sát xã hội học.
Từ đó đưa ra những khuyến nghị, những giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn trong quá trình tổ chức thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo tại địa bàn, giúp người nghèo tự vươn lên trong cuộc sống.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu.
Thực trạng đói nghèo công tác xóa đói giảm nghèo ở các hộ gia đình đồng bào dân tộc Mông huyện Yên Minh- tỉnh Hà Giang.
4.2. Phạm vi nghiên cứu.
Do hạn chế về thời gian, tri thức và các nguồn lực nên chúng tôi chỉ xác định tiến hành nghiên cứu trong một phạm vi hẹp.
Về không gian: Nghiên cứu được tiến hành trong phạm vi địa bàn huyện Yên Minh- tỉnh Hà giang.
Về thời gian: Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 12 năm 2007 đến tháng 3 năm 2008.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu:
5.1. Phương pháp luận:
Tình trạng đói nghèo là một vấn đề xã hội. Ở mỗi quốc gia khác nhau và ở mỗi thời điểm lịch sử thì tình trạng đói nghèo có biểu hiện khác nhau. Tình trạng đói nghèo được coi như là một sự kiện xã hội, nó được nảy sinh và tồn tại ở mọi quốc gia. Mỗi quốc gia có một mức độ quan tâm và biện pháp riêng nhằm giải quyết vấn đề đói nghèo.
Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Lấy chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng làm luận cứ cho nghiên cứu của mình.
Theo chủ nghĩa duy vật lịch sử, tất cả mọi hiện tượng xã hội đều có quá trình phát sinh và phát triển. Qua các thời kỳ khác nhau thì quá trình phát triển của nó cũng khác nhau. Dưới các hình thái kinh tế xã hội khác nhau sẽ có sự biến đổi khác nhau. Việc vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử là đặt các hiện tượng xã hội, các quá trình xã hội trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đời sống xã hội
Cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng đòi hỏi phải xem xét sự kiện xã hội này trong mối liên hệ với sự kiện xã hội khác.Trong từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể của xã hội, có nhiều yếu tố khác nhau tác động gây ra tình trạng nghèo đói. Để xem xét tình trạng nghèo đói chúng ta không được phép tách riêng tình trạng đói nghèo ra khỏi sư vận động của đời sống xã hội để xem xét, mà phải đặt nó trong mối quan hệ biện chứng với điều kiện tự nhiên và nền kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị.
Xem xét thực trạng nghèo đói trong bối cảnh thực tế tại huyện Yên Minh tỉnh Hà Giang. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê Nin là phải đặt tình trạng đói nghèo trong tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội tại địa bàn nghiên cứu.
Ngoài ra trong nghiên cứu chúng tôi còn sử dụng một số lý thuyết chuyên biệt của xã hội học để tiếp cận giải thích và bổ sung thêm về lý luận.
* Lý thuyết về hành động xã hội:
Max Weber cho rằng: “Hành động được chủ thể gắn cho nó một ý nghĩ chủ quan nào đó, là hành động có tính đến hành vi của người khác, và vì vậy được định hướng tới người khác, trong đường lối, quá trình của nó”. Max Weber đã phân hành đông xã hội thành 4 loại như sau:
+ Hành động duy lý công cụ: là hành động được thực hiện với sự cân nhắc, tính toán, lựa chọn công cụ, phương tiện. Mục đích sao cho có hiệu quả cao nhất.
+ Hành động duy lý giá trị: là hành động được thực hiện vì bản thân hành động. Thực chất loại hành động này có thể nhăm vào những mục đích phi lý nhưng lại được thực hiện bằng những công cụ, phương tiện duy lý.
+ Hành động duy cảm (Cảm xúc): là hành động do các trạng thái xúc cảm hoặc tình cảm bột phát gây ra, mà không có sự cân nhắc, xem xét, phân tích mối quan hệ giữa công cụ, phương tiện và mục đích hành động.
+ Hành động truyền thống: là loại hành động tuân thủ những thói quen, nghi lễ,phong tục, tập quán đã được truyền lại từ đời này qua đời khác.
Trong các hành động trên, xã hội học tập trung vào nghiên cứu loại hành động duy lý- công cụ. Weber lập luận rằng, đặc trưng quan trọng nhất của xã hội xã hội hiện đại là hành động xã hội của con người ngày càng trở nên duy lý, hợp lý với tính toán chi li, tỉ mỉ, chính xác về mối quan hệ giữa công cụ/ phương tiện và mục đích/ kết quả.
Như vậy, vận dụng lý thuyết này trong chương trình xóa đói giảm nghèo phải được thực hiện với sự phân tích, đánh giá tình hình và lựa chọn những biện pháp hữu hiệu nhằm thu hẹp khoảng cách, số lượng hộ nghèo đói và dần tiến tới xóa bỏ tỷ lệ hộ nghèo.
* Lý thuyết về tương tác xã hội:
Các nhà xã hội học cho rằng. Hành động xã hội là cơ sở , là tiền đề cuả tương tác xã hội. Hay nói cách khác, không có hành động xã hội thì không có tương tác xã hội. Các hành động vật lý chỉ có thể tạo ra các tương tác vật lý. Các hành động xã hội được thể hiện trong các loại tương tác xã hội khác nhau.
Các nhà xã hội học cho rằng tương tác xã hội có thể được coi như là quá trình hành động và hành động đáp lại của một chủ thể này với một chủ thể khác. Các nhà xã hội học thường nghiên cứu ở hai cấp độ vĩ mô và vi mô. Nghiên cứu ở cấp độ vi mô là nghiên cứu về những đơn vị nhỏ nhất như các tương tác của các cá nhân, còn nghiên cứu ở cấp vĩ mô là những nghiên cứu về sự tương tác của các cơ cấu xã hội, hệ thống xã hội, hay giữa các thiết chế xã hội như gia đình, tôn giáo, nhà trường …
Trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ tiến hành nghiên cứu ở cấp vi mô với phạm vi hẹp và với một đơn vị nhỏ nhất( huyện Yên Minh – tỉnh Hà Giang).
Tuy nhiên, với tư cách là thành viên của bất cứ nhóm tổ chức xã hội nào. Các cá nhân thực hiện tương tác của mình đồng thời trên cả hai cấp độ vĩ mô và vi mô. Cho nên , khi phân tích tương tác xã hội ở cả hai cấp độ. Chúng ta hiểu tương tác xã hội theo nghĩa rộng mà cụ thể là: tương tác không phải là hành động phản ứng “đó chính là một hình thức thông tin và giao tiếp xã hội của ít nhất là hai chủ thể hành động” và “ trong quá trình này, sự tác động qua lại của các chủ thể sẽ được thực hiện; đồng thời cũng diễn ra sự thích ứng của một hành động và một hành động khác”. Thông qua đó, họ đạt được sự hiểu biết nhau về tình huống, về ý nghĩa của hành động. Mỗi chủ thể hành động trong tương tác xã hội đều có mục đích xác định. Nhưng: “các mục đích này không phải bao giờ cũng hòa đồng với nhau, thậm chí nhiều khi chúng còn có nhiệm vụ loại trừ nhau”.
Các hệ giá trị đặc thù của các chủ thể không phải là bất biến, mà nó thay đổi trong quá trình tương tác. Sự biến đổi này sẽ quy định sự thích ứng của tương tác. Tùy theo thời gian, cường độ, tính ổn định của tương tác và nếu sự khác biệt của các hệ giá trị là lớn, các biến đổi của các hệ giá trị đặc thù của các chủ thể có thể được chia thành các mức độ sau:
Hầu như không biến đổi. Các chủ thể hầu như không thích ứng được với nhau, thậm chí xung đột.
Biến đối ít. Các chủ thể hành động có thể tìm thấy sự hợp tác, đồng tình tối thiểu nào đó.
Biến đổi nhiều. Nếu như chỉ một trong hai chủ thể biến đổi nhiều thì sẽ dẫn đến sự lệ thuộc, quy phục. Còn nếu cả hai biến đổi nhiều thì có sự đồng tình và hợp tác ăn ý của cả hai.
Biến đổi gần như hoàn toàn. Trong trường hợp này chắc cắn sẽ có một chủ thể hành động đầu hàng hoàn toàn và tự động điều chỉnh hệ giá trị và hành động của bản thân cho phụ hợp với chủ thể kia.
Vận dụng lý thuyết này vào trong nghiên cứu về vấn đề xóa đói giảm nghèo, sẽ cho chúng ta thấy được sự thích nghi hay không thích nghi, mức độ thích nghi của người dân địa phương trong quá trình hiện chính sách xóa đói ngiảm nghèo trên địa bàn. Thấy được mức độ biến đổi của các hộ nghèo khi tham gia vào chương trình xóa đói giảm nghèo. Đồng thời cho chúng ta thấy được hiệu quả của nhưng chính sách đó như thế nào.
* Lý thuyết về phân tầng xã hội:
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác –Lê Nin thì sự phân tầng xã hội chỉ chủ yếu dựa vào yếu tố kinh tế, trên cơ sở sự sở hưu về tư liệu sản xuất.
MaxWeber cho rằng sự phân chia giai cấp hay phân tầng xã hội dựa trên ba yếu tố cơ bản: đó là kinh tế, xã hội và chính trị. Như vậy sự phân tầng xã hội được xem xét thông qua các phân tích về cơ may, hoàn cảnh kinh tế của mỗi người trong xã hội, cũng như vị thế và vai trò của họ.
Phân tầng xã hội gắn liền với bất bình đẳng xã hội.Sự bất bình đẳng đó thể hiện thông qua ba tiêu chí đó là: thu nhập , quyền lực và uy tín tạo ra những cộng đồng có địa vị chính trị và địa vị xã hội khác nhau.
Lý thuyết về phân tầng xã hội sẽ được áp dụng cụ thể đẻ phân tích về hiện trạng đói nghèo trên địa bàn nghiên cứu. Khi được làm sáng tỏ sẽ cho chúng ta thấy được những thành phần xã hội nào có mức độ nghèo đói và tái đói nghèo cao nhất. Đồng thời cũng sẽ cho chúng ta nắm được xu hướng tiến triển của hiện tượng đói nghèo tại địa bàn nghiên cứu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
5.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu.
Đây là phương pháp thu thập thong tin được chúng tôi quan tâm sử dụng. Việc phân tích tài liệu cho phép chúng tôi giải quyêt hàng loạt các vấn đề nghiên cứu mà chúng tôi quan tâm. Những tài liệu chúng tôi quan tâm đó là: các nghiên cứu ở các cơ quan trung ương , các bộ ngành, các chương trình dự án. Các tài liệu thống kê, báo chí của các cấp các ngành, đặc biệt là các tài liệu liên quan đến đói nghèo của địa phương.
5.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu định tính:
Đây là một phương pháp thu thập thông tin định tính cho ta hiểu được thái đô, kinh nghiệm và nhận thức của người được hỏi đối với vấn đề được nghiên cứu.
5.2.3. Phương pháp quan sát.
Chúng tôi sử dụng phương pháp quan sát với các hình thức quan sát như: quan sát tham dự đầy đủ và quan sát tham dự công khai Nhằm mục đích thấy rõ diễn biến của tình trạng nghèo đói của người dân. Thông qua cách sống, mức sống của mọi đối tượng trong đời sống xã hội. Biểu hiện thông qua ăn, mặc, ở, lối sống, phong tục tập quán, thái độ lao động. Bên cạnh đó thấy được những hành vi của người nghèo, việc làm của những người tham gia thực hiện các giải pháp về xóa đói giảm nghèo trên địa bàn. Tất cả những thông tin trên rất có ý nghĩa cho đề tài nghiên cứu.
6. Giả thuyết nghiên cứu.
Chính sách xóa đói giảm nghèo của nhà nước đã làm thay đổi sâu sắc đời sống của người dân tộc Mông- huyện Yên Minh- tỉnh Hà Giang.
Người dân nói chung và người dân tộc Mông nói riêng, đã có ý thức thực hiện các chính sách về xóa đói giảm nghèo của nhà nước đã ban hành.
Trong quá trình thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo thì lại có những hộ lại bị tái nghèo.
7. Khung lý thuyết.
PHẦN HAI
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIÊN CỦA ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu:
Việt Nam chúng ta là một nước nông nghiệp. Gần 70% dân số sống ở nông thôn*.Chủ yếu sống bằng nghề sản xuất nông nghiệp. Trình độ sản xuất chủ yếu còn dựa trên nền sản xuất nhỏ và lạc hậu. Nước ta lại chịu nhiều tác động của thiên tai,, khí hậu khắc nghiệt, hậu quả của chiến tranh vẫn còn nặng nề.
Trong công cuộc đổi mới của đất nước. Cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế từ tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Nền kinh tế của nước ta từng bước được cải thiện. Đời sống của người dân từng bước được nâng lên. Tuy nhiên, bên cạnh đó vấn đề nghèo đói ở phạm vi cả nước vẫn đang là vấn đề lớn. Số người nghèo dường như vẫn tăng lên.
Từ những năm 1992 trở lại đây có rất nhiều các công trình nghiên cứu về xóa đói giảm nghèo. Các cuộc nghiên cứu này nhằm chỉ ra những nguyên nhân, tiêu chí đánh giá về đói nghèo ở Việt Nam. “ Khảo sát mức sống ở Việt Nam” đã được phối hợp tiến hành giữa Ủy ban khoa học Nhà nước và Tổng cục thống kê, với sự tài trợ của UNDP và SIDA trong thời gian từ tháng 10 năm 1992 đến tháng 10 năm 1993. Việc làm mức sống là khảo sát đầu tiên về mức sống của các hộ gia đình tiêu biểu cho toàn quốc. Được làm tại Việt Nam bao trùm một diện rộng các chỉ số kinh tế và xã hội. Các số liệu đã được thu thập khoảng từ 23.000 người sống tại 4.800 hộ gia đình tiêu biểu cho các vùng nông thôn, thành thị ở các vù