Với sự phát triển ngày càng cao của khoa học kỹ thuật, các phương tiện giao thông ngày càng được cải tiến theo hướng hiện đại hơn và được sử dụng phổ biến hơn, giúp cho việc giao lưu văn hóa giữa các vùng miền cũng như việc đi lại, giao thương, buôn bán của người dân ngày càng dễ dàng và thuận lợi hơn. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng xuất hiện những mặt trái rất đáng quan tâm như vấn đề an toàn giao thông, đặc biệt là an toàn giao thông đường bộ ngày càng trở thành một vấn đề nhức nhối của toàn xã hội. Theo con số thống kê hàng năm, số vụ tai nạn giao thông đường bộ trong những năm gần đây ngày càng có xu hướng gia tăng. Tai nạn giao thông đã để lại những hậu quả lớn cho xã hội cả về mặt vật chất cũng như về con người. Nhằm hạn chế cũng như khắc phục một phần hậu quả do tai nạn giao thông đem lại, bảo hiểm xe cơ giới đã ra đời như là một tất yếu khách quan với mục đích giúp các chủ xe khắc phục bớt khó khăn, ổn định tài chính nhanh chóng hơn khi gặp các rủi ro, tai nạn bất ngờ , đồng thời cũng góp phần ổn định xã hội.
Trong những năm qua, dù mới thâm nhập thị trường song Công ty cổ phần Bảo hiểm Hàng Không đã thu được nhiều thành tựu đáng kể. Bên cạnh thế mạnh về lĩnh vực bảo hiểm hàng không thì các nghiệp vụ bảo hiểm khác cũng đã thu được rất nhiều kết quả đáng khích lệ, trong số đó phải kể đến nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Nghiệp vụ này đã đóng góp không nhỏ về mặt doanh thu cho toàn công ty cũng như mang lại những lợi ích thiết thực cho xã hội. Tuy nhiên so với tiềm năng rất lớn của thị trường hiện nay thì số lượng xe tham gia bảo hiểm vật chất xe còn tương đối thấp so với tổng lượng xe cơ giới hiện đang lưu hành. Vì vậy cần phải có những giải pháp hữu hiệu để khai thác tối đa nghiệp vụ này - một nghiệp vụ bảo hiểm có tiềm năng rất lớn ở nước ta hiện nay và trong tương lai. Chính vì lý do đó mà em quyết định chọn đề tài: “ Thực trạng triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần Bảo hiểm Hàng Không – chi nhánh Hà Nội giai đoạn 2008-2010” làm đề tài nghiên cứu và làm luận văn tốt nghiệp của mình, nhằm tìm hiểu rõ hơn về nghiệp vụ này tại một trong những đơn vị tiêu biểu của công ty Cổ phần Bảo hiểm Hàng Không.
67 trang |
Chia sẻ: ngatran | Lượt xem: 1371 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần Bảo hiểm Hàng Không – chi nhánh Hà Nội giai đoạn 2008-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Với sự phát triển ngày càng cao của khoa học kỹ thuật, các phương tiện giao thông ngày càng được cải tiến theo hướng hiện đại hơn và được sử dụng phổ biến hơn, giúp cho việc giao lưu văn hóa giữa các vùng miền cũng như việc đi lại, giao thương, buôn bán của người dân ngày càng dễ dàng và thuận lợi hơn. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng xuất hiện những mặt trái rất đáng quan tâm như vấn đề an toàn giao thông, đặc biệt là an toàn giao thông đường bộ ngày càng trở thành một vấn đề nhức nhối của toàn xã hội. Theo con số thống kê hàng năm, số vụ tai nạn giao thông đường bộ trong những năm gần đây ngày càng có xu hướng gia tăng. Tai nạn giao thông đã để lại những hậu quả lớn cho xã hội cả về mặt vật chất cũng như về con người. Nhằm hạn chế cũng như khắc phục một phần hậu quả do tai nạn giao thông đem lại, bảo hiểm xe cơ giới đã ra đời như là một tất yếu khách quan với mục đích giúp các chủ xe khắc phục bớt khó khăn, ổn định tài chính nhanh chóng hơn khi gặp các rủi ro, tai nạn bất ngờ…, đồng thời cũng góp phần ổn định xã hội.
Trong những năm qua, dù mới thâm nhập thị trường song Công ty cổ phần Bảo hiểm Hàng Không đã thu được nhiều thành tựu đáng kể. Bên cạnh thế mạnh về lĩnh vực bảo hiểm hàng không thì các nghiệp vụ bảo hiểm khác cũng đã thu được rất nhiều kết quả đáng khích lệ, trong số đó phải kể đến nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Nghiệp vụ này đã đóng góp không nhỏ về mặt doanh thu cho toàn công ty cũng như mang lại những lợi ích thiết thực cho xã hội. Tuy nhiên so với tiềm năng rất lớn của thị trường hiện nay thì số lượng xe tham gia bảo hiểm vật chất xe còn tương đối thấp so với tổng lượng xe cơ giới hiện đang lưu hành. Vì vậy cần phải có những giải pháp hữu hiệu để khai thác tối đa nghiệp vụ này - một nghiệp vụ bảo hiểm có tiềm năng rất lớn ở nước ta hiện nay và trong tương lai. Chính vì lý do đó mà em quyết định chọn đề tài: “ Thực trạng triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần Bảo hiểm Hàng Không – chi nhánh Hà Nội giai đoạn 2008-2010” làm đề tài nghiên cứu và làm luận văn tốt nghiệp của mình, nhằm tìm hiểu rõ hơn về nghiệp vụ này tại một trong những đơn vị tiêu biểu của công ty Cổ phần Bảo hiểm Hàng Không.
2. Mục đích nghiên cứu:
- Đánh giá thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm Hàng Không – Chi nhánh Hà Nội.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm Hàng Không – Chi nhánh Hà Nội trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm Hàng Không – Chi nhánh Hà Nội.
- Phạm vi nghiên cứu:
Không gian: Công ty cổ phần Bảo hiểm Hàng Không – Chi nhánh Hà Nội.
Thời gian: Giai đoạn 2008 – 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu lý luận và thực tiễn kết hợp với các phương pháp khác như phương pháp xử lý số liệu, phương pháp phân tích, so sánh…
5. Kết cấu khóa luận:
Nội dung viết của em, ngoài mở đầu và kết luận được chia thành ba chương như sau:
Chương 1 : Cơ sở lý luận chung Bảo hiểm vật chất xe cơ giới.
Chương 2: Thực trạng triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại công ty cổ phần Bảo hiểm Hàng Không – Chi nhánh Hà Nội giai đoạn 2008 -2010.
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại công ty cổ phần bảo hiểm Hàng Không - chi nhánh Hà Nội trong thời gian tới.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng song do thời gian nghiên cứu không lâu cộng với kiến thức bản thân còn nhiều hạn chế nên khóa luận của em không thể tránh khỏi thiếu sót và khuyết điểm. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô để bài viết của em được đầy đủ và hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo, Th.s Lục Mạnh Hiển cùng tập thể cán bộ nhân viên Công ty Cổ phần Bảo hiểm Hàng Không - Chi nhánh Hà Nội đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này!
Hà Nội, tháng 6 năm 2011
Sinh viên thực hiện
Trương Thị Thanh Thủy
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE CƠ GIỚI
1.1. Một số vấn đề cơ bản về hoạt động kinh doanh bảo hiểm và nghiệp vụ Bảo hiểm vật chất xe cơ giới
1.1.1. Khái niệm và đặc trưng hoạt động kinh doanh bảo hiểm
1.1.1.1. Khái niệm: Kinh doanh bảo hiểm (KDBH) là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của bên mua bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho bên mua bảo hiểm khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra.
1.1.1.2. Đặc trưng của hoạt động kinh doanh bảo hiểm:
Thực chất của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là các DNBH chấp nhận rủi ro mà bên tham gia bảo hiểm chuyển giao cho họ, đồng thời chấp nhận trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường cho bên tham gia khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra. Đổi lại doanh nghiệp sẽ thu được phí bảo hiểm để hình thành quỹ dự trữ, bồi thường, trang trải các khoản chi khác có liên quan và có lãi. Tuy nhiên không phải mọi rủi ro mà bên tham gia chuyển giao, DNBH đều có thể chấp nhận bảo hiểm. Rủi ro được bảo hiểm phải có những đặc trưng như: Rủi ro xảy ra trong tương lai, rủi ro có tính chất bấp bênh, rủi ro không phụ thuộc ý muốn chủ quan của người được bảo hiểm, các rủi ro có thể tập hợp được thành nhóm tương hỗ, các rủi ro không thuộc phạm vi cấm của pháp luật, các rủi ro được doanh nghiệp bảo hiểm đảm bảo.
Kinh doanh bảo hiểm được thực hiện theo nguyên tắc “ Số đông bù số ít”. Nguyên tắc này luôn được đảm bảo trong quá trình hình thành quỹ bảo hiểm, quá trình phân tán rủi ro, quá trình bồi thường và chi trả tiền bảo hiểm. Thực chất đây là quá trình phân phối lại nguồn quỹ được hình thành do các nhà bảo hiểm quản lý. Nhưng phân phối trong bảo hiểm chủ yếu là phân phối không đều, không bằng nhau, tức là không phải ai tham gia nộp phí cũng được phân phối và phân phối với số tiền như nhau.
Kinh doanh bảo hiểm là kinh doanh một dịch vụ tài chính chứ không phải dịch vụ sản xuất. Vì thế nó phải chịu sự kiểm tra giám sát rất chặt chẽ của các cơ quan quản lý nhà nước. Lý do phải kiểm tra là:
Thứ nhất, các hợp đồng bảo hiểm là các hợp đồng mở sẵn và khá phức tạp. Người tham gia bảo hiểm chỉ việc lựa chọn để ký kết, còn soạn thảo và phát hành hợp đồng là hoàn toàn do người bảo hiểm đảm nhận.
Thứ hai, hoạt động kinh doanh bảo hiểm theo một chu trình đảo ngược. Người tham gia nộp phí trước và được bồi thường hoặc chi trả tiền bảo hiểm sau khi có các tổn thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm.
Thứ ba, kỹ thuật tính phí và trích lập dự phòng phí cho từng nghiệp vụ bảo hiểm phải đảm bảo quyền lợi cho khách hàng và những người bảo hiểm.
Thứ tư, mục đích chính của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là nhằm khắc phục hậu quả rủi ro, để từ đó giúp bên tham gia bảo hiểm ổn định cuộc sống hoặc sản xuất, làm cho sản xuất kinh doanh phát triển bình thường và từ đó góp phần đảm bỏa an toàn cho xã hội. Ngoài ra kinh doanh bảo hiểm còn đáp ứng một số mục đích khác như tiết kiệm, đầu tư, đề phòng hạn chế tổn thất và tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động…
Mục đích kinh tế của KDBH là lợi nhuận, đây là mục đích chính mà các doanh nghiệp bảo hiểm hướng tới. Nhưng bên cạnh đó thì hoạt động kinh doanh bảo hiểm còn giúp liên kết gắn bó các thành viên trong xã hội cùng vì lợi ích của cộng đồng, vì sự ổn định và phồn vinh của đất nước. Do đó hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã thể hiện tính tương hỗ, tính xã hội và nhân văn sâu sắc.
1.1.2. Vai trò của bảo hiểm vật chất xe cơ giới
Nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới giữ một vai trò quan trọng trong việc hạn chế và khắc phục rủi ro, góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Cụ thể:
Thứ nhất, góp phần ổn định tài chính cho chủ phương tiện khi có rủi ro xảy ra gây tổn thất thuộc trách nhiệm bảo hiểm.
Khi tham gia giao thông không ai muốn rủi ro xảy ra nhưng rủi ro là ngẫu nhiên, không loại trừ bất cứ ai. Khi rủi ro xảy ra, thường để lại những hậu quả to lớn về con người và vật chất, gây ra những tổn thất về tài chính, làm gián đoạn sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, bảo hiểm thông qua công tác bồi thường nhanh chóng, kịp thời góp phần ổn định tình hình tài chính, tránh những xáo trộn lớn cho chủ phương tiện, giúp họ nhanh chóng thoát khỏi tình trạng khó khăn; đồng thời qua đó góp phần xoa dịu, làm giảm bớt căng thẳng giữa chủ xe và người bị nạn.
Thứ hai, tăng khả năng tự chủ về tài chính cho người tham gia bảo hiểm.
Khi tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, nguồn vốn chính là yếu tố quyết định sức mạnh, vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp luôn phải trích ra một quỹ dự trữ đề phòng hạn chết tổn thất khi rủi ro xảy ra. Đối với những doanh nghiệp nhỏ, ít phương tiện số tiền này không đáng kể. Tuy nhiên, đối với doanh nghiệp lớn, số lượng đầu xe nhiều thì quỹ dự trữ này sẽ chiếm một tỷ lệ khá lớn trong nguồn vốn sản xuất kinh doanh. Nếu nguồn tiền này được đem để làm nguồn vốn lưu động trong kinh doanh sẽ đem lại sức mạnh to lớn cho doanh nghiệp, nhưng nó lại ở dạng dự trữ thì quả là sự lãng phí lớn.
Khó khăn này sẽ được giải quyết thông qua các hợp đồng bảo hiểm. Thông qua các hợp đồng này, công ty bảo hiểm sẽ lập quỹ bảo hiểm hoạt động trên nguyên tắc “số đông bù số ít”. Nhờ đó, thay vì thành lập quỹ dự trữ riêng thì các chủ phương tiện có thể yên tâm hoạt động nhờ quỹ bảo hiểm lớn hơn nhiều do rất nhiều thành viên cùng đóng góp.
Thứ ba, góp phần đề phòng và hạn chế tai nạn giao thông:
Với số phí bảo hiểm thu được, ngoài việc bồi thường cho các chủ phương tiện khi có rủi ro xảy ra, các công ty bảo hiểm còn thực hiện các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất xảy ra như: xây dựng đường lánh nạn, đường phụ, hốc cứu nạn; lắp đặt hệ thống biển báo, tín hiệu giao thông, hệ thống gương cầu…hàng năm đã cứu thoát khỏi nguy hiểm hàng trăm tính mạng.
Ngoài ra, công ty bảo hiểm còn khuyến khích các chủ xe tự thực hiện các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất, nâng cao ý thức thông qua công tác tuyên truyền. Đồng thời, công ty còn thực hiện giảm phí nếu sau một thời gian nhất định mà xe không gặp bất kì sự cố nào.
Thứ tư, góp phần tăng thu ngân sách Nhà nước, để từ đó Nhà nước có điều kiện xây dựng mới và nâng cao cơ sở hạ tầng giao thông.
Mức sống người dân ngày càng cao, số lượng các phương tiện cơ giới cũng tăng nhanh. Do đó, số lượng người tham gia bảo hiểm vật chất xe cơ giới cũng tăng nhanh, góp phần làm tăng nguồn thu cho Ngân sách nhà nước thông qua hình thức nộp thuế của các công ty bảo hiểm. Ngược lại, chính phủ sử dụng ngân sách nhà nước phối hợp với các doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư hỗ trợ, nâng cao chất lượng hệ thống cơ sở hạ tầng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu đi lại của người dân từ đó góp phần nâng cao chất lượng đời sống dân cư.
Thứ năm, góp phần làm tăng doanh thu cho các doanh nghiệp bảo hiểm, tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động.
Doanh thu phí mà các công ty bảo hiểm thu được thông qua việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới là tương đối lớn so với các nghiệp vụ khác do đặc điểm của các phương tiện giao thông là ngày càng gia tăng cả về số lượng và chủng loại. Mặt khác, ý thức của người dân cũng ngày càng được nâng cao, họ quan tâm hơn đến các rủi ro có thể xảy ra đối với mình và cố gắng tìm mọi cách để đề phòng, hạn chế những rủi ro có thể xảy ra. Do đó, số lượng người tham gia loại hình bảo hiểm này ngày càng nhiều. Chính điều này đã làm cho doanh thu của các doanh nghiệp bảo hiểm tăng lên đáng kể.
1.2. Nội dung cơ bản của bảo hiểm vật chất xe cơ giới
1.2.1. Đối tượng bảo hiểm và phạm vi bảo hiểm
1.2.1.1. Đối tượng bảo hiểm: Xe cơ giới, theo quy định hiện hành là tất cả các loại xe tham gia giao thông trên đường bộ bằng động cơ của chính chiếc xe đó, bao gồm ô tô, mô tô và xe máy. Đối tượng bảo hiểm vật chất xe cơ giới là bản thân những chiếc xe còn giá trị và được phép lưu hành trên lãnh thổ quốc gia. Để xác định là xe cơ giới, người ta thường dùng các tiêu thức sau:
Thứ nhất, xe cơ giới phải được gắn động cơ (khác với xe không có động cơ như xe đạp, xe do gia súc kéo…).
Thứ hai, xe cơ giới di chuyển trên đất liền không cần đường dẫn bằng chính động cơ gắn trên nó (khác với tàu hỏa, xe điện…).
Thứ ba, xe cơ giới phải có tối thiểu một chỗ ngồi cho người điều khiển.
Xe cơ giới bao gồm nhiều loại: ô tô, mô tô, xe chở hàng và xe chuyên dụng khác. Đối tượng bảo hiểm của nghiệp vụ này là bản thân chiếc xe. Tuy nhiên các loại xe như xe dùng để tập đua, tập lái, chạy thử không phải là đối tượng được bảo hiểm nhưng nếu có thoả thuận riêng thì có thể được bảo hiểm.
Đối tượng được bảo hiểm cần có các điều kiện là: Có giá trị sử dụng và có đầy đủ các bộ phận để cấu thành một chiếc xe hoàn chỉnh. Ngoài ra còn phải thỏa mãn các yêu cầu khác như: đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký, có biển kiểm soát và được cấp giấy phép lưu hành theo chế độ quy định kiểm soát của công an và nhà nước. Trong thời gian lưu hành xe phải được kiểm tra kỹ thuật định kỳ để đảm bảo an toàn khi tham gia giao thông, còn người điều khiển xe phải có bằng lái phù hợp với loại xe đó.
Đối với xe mô tô, xe máy chủ xe thường tham gia bảo hiểm toàn bộ vật chất thân xe. Ở Việt Nam hiện nay loại hình bảo hiểm này hầu như chưa được thực hiện.
Đối với xe ô tô, các chủ xe có thể tham gia toàn bộ hoặc tham gia từng bộ phận của xe. Căn cứ vào đặc điểm kĩ thuật xe ô tô được chia thành các tổng thành sau: tổng thành thân vỏ, tổng thành hệ thống lái, tổng thành hộp số, tổng thành động cơ, tổng thành trục trước, tổng thành trục sau, tổng thành bánh xe.
Ngoài ra một số loại xe còn có tổng thành các bộ phận chuyên dụng theo yêu cầu được lắp đặt trên xe như xe cứu thương, cứu hoả, xe chở container…
Căn cứ vào các tổng thành như trên mà các chủ xe có thể tham gia bảo hiểm cho toàn bộ xe hoặc các bộ phận của xe. Trong đó, tổng thành thân vỏ chiếm tỷ trọng lớn nhất và chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ hậu quả của rủi ro. Vì vây, đối với nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe, các công ty bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam hiện nay thường bán hai loại hình của sản phẩm là bảo hiểm toàn bộ xe hoặc bảo hiểm thân vỏ xe.
1.2.1.2. Phạm vi bảo hiểm:
Phạm vi bảo hiểm là giới hạn những rủi ro khi xảy ra gây tổn thất cho xe cơ giới sẽ được người bảo hiểm chịu trách nhiệm bồi thường.
Rủi ro được bảo hiểm là những thiệt hại vật chất xe do:
Tai nạn do đâm va, lật đổ: trường hợp này rất dễ xảy ra và cần được bảo hiểm nhất.
Tai nạn do thiên tai: cháy, nổ, bão, lụt, động đất, sét đánh, mưa…
Mất cắp: Trong trường hợp này chỉ mất cắp toàn bộ xe mới được bảo hiểm, mất cắp bộ phận xe không được bảo hiểm là do các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, tránh trục lợi bảo hiểm, vì chủ xe có thể tháo bộ phận xe giấu đi và đòi nhà bảo hiểm phải bồi thường.
Thứ hai, bộ phận xe thường có giá trị không cao. Do đó, chi phí xác nhận mất cắp lớn hơn so với số tiền được bồi thường.
Thứ ba, nâng cao tinh thần trách nhiệm của người mua bảo hiểm trong việc bảo vệ tài sản của mình.
Tai nạn do rủi ro bất ngờ khác gây nên.
Ngoài việc được bồi thường những thiệt hại vật chất xảy ra cho xe được bảo hiểm trong những trường hợp nêu trên, các công ty bảo hiểm còn thanh toán cho chủ xe tham gia bảo hiểm những chi phí cần thiết và hợp lý như :
Chi phí ngăn ngừa và hạn chế tổn thất phát sinh thêm khi xe bị thiệt hại do các rủi ro được bảo hiểm
Chi phí bảo vệ xe và kéo xe thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất.
Chi phí giám định thuộc trách nhiệm của bảo hiểm.
Chi phí ra toà (nếu có ).
Rủi ro loại trừ: Công ty bảo hiểm không nhận bảo hiểm và không chịu bồi thường cho những thiệt hại vật chất của xe xảy ra do:
Thứ nhất, hao mòn tự nhiên, hỏng hóc do sử dụng, lão hóa, mất giá, giảm dần chất lượng, hỏng hóc do khuyết tật hoặc hư hỏng thêm do sửa chữa, trong quá trình sửa chữa (bao gồm cả chạy thử).
Thứ hai, hư hỏng về điện hoặc bộ phận máy móc, thiết bị (kể cả máy thu thanh điều hoà nhiệt độ), săm lốp hư hỏng mà không do tai nạn gây ra.
Thứ ba, mất cắp bộ phận của xe .
Ngoài ra để tránh những ‘nguy cơ đạo đức’ lợi dụng bảo hiểm, những hành vi vi phạm pháp luật, luật lệ an toàn giao thông hay một số rủi ro đặc biệt khác, những thiệt hại, tổn thất xảy ra bởi những nguyên nhân sau cũng không được bồi thường:
Một là, hành động cố ý của chủ xe, lái xe.
Hai là, xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để lưu hành theo qui định trong điều lệ trật tự an toàn giao thông vận tải đường bộ của liên bộ giao thông vận tải- nội vụ
Ba là, chủ xe (lái xe) vi phạm nghiêm trọng luật an toàn giao thông đường bộ như:
Xe không có giấy phép lưu hành ;
Xe không có bằng lái hoặc có nhưng không hợp lệ ;
Lái xe bị ảnh hưởng của rượu, bia, ma tuý hoặc các chất kích thích tương tự khác trong khi điều khiển xe ;
Xe chở chất cháy, nổ trái phép ;
Xe chở quá trọng tải hoặc quá số hành khách qui định ;
Xe đi vào đường cấm ;
Xe đi đêm không có đèn
Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, chạy thử sau khi sửa chữa
Bốn là, loại trừ rủi ro có tính “xã hội” với hậu quả lan rộng như: chiến tranh, bạo loạn…
Năm là, loại trừ những thiệt hại có tính chất hậu quả gián tiếp như: Giảm giá trị thương mại; ngừng sản xuất, sử dụng, khai thác.
Sáu là, tai nạn xảy ra ngoài lãnh thổ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (trừ trường hợp có thỏa thuận riêng).
Ngoài ra, người bảo hiểm có thể từ chối một phần hoặc toàn bộ số tiền bồi thường cho chủ xe khi:
Chủ xe cung cấp thông tin không đầy đủ, trung thực khi kê khai các nội dung trong giấy bảo hiểm (về tình trạng xe, địa bàn hoạt động của xe).
Không thực hiện đầy đủ các quy định về: thông báo tai nạn, truy đòi người thứ ba, vấn đề này phụ thuộc vào yêu cầu quản lý rủi ro của người bảo hiểm, vào những yếu tố khác của hợp đồng như là phí bảo hiểm.
Cần lưu ý rằng, trong thời hạn bảo hiểm, nếu chủ xe chuyển quyền sở hữu xe cho chủ xe khác thì quyền lợi bảo hiểm vẫn có hiệu lực với chủ xe mới. Tuy nhiên, nếu chủ xe cũ không chuyển quyền lợi bảo hiểm cho chủ xe mới thì công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại phí cho họ và làm thủ tục bảo hiểm cho chủ xe mới nếu họ có yêu cầu.
1.2.2. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm :
1.2.2.1. Giá trị bảo hiểm:
Giá trị bảo hiểm xe cơ giới là giá trị thực tế trên thị trường của xe tại thời điểm người tham gia bảo hiểm mua bảo hiểm.
Giá xe trên thị trường luôn luôn biến động. Vì vậy, để xác định được giá trị của xe, các công ty bảo hiểm thường căn cứ vào các nhân tố:
- Loại xe.
- Năm sản xuất.
- Mức độ mới cũ của xe.
- Thể tích làm việc của xi lanh…
Giá trị bảo hiểm được xác định theo hai trường hợp:
- Nếu là xe mua mới giá trị bảo hiểm chính là giá mua mới của xe.
- Nếu là xe đã qua sử dụng thì giá trị bảo hiểm của xe được tính bằng công thức: Giá trị bảo hiểm = Nguyên giá - Khấu hao
+ Nguyên giá ở đây chính là giá mua mới hay giá trị ban đầu của xe.
+ Để tính khấu hao các công ty bảo hiểm thường dựa vào nguyên giá và tỷ lệ khấu hao bình quân của xe trong một năm, cụ thể là:
Giá trị khấu hao
=
Nguyên giá ( Tỷ lệ khấu hao 1 năm (
Thời gian xe sử dụng
12
Trên thực tế rất nhiều xe đã khấu hao hết nhưng vẫn còn giá trị sử dụng và vẫn sử dụng được. Điều này buộc các công ty bảo hiểm phải có những biện pháp linh hoạt nhằm thu hút và phục vụ khách hàng một cách tốt nhất.
1.2.2.2. Số tiền bảo hiểm:
Số tiền bảo hiểm là khoản tiền nhất định được ghi trong đơn bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm để xác định giới hạn trách nhiệm của người bảo hiểm trong việc bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm.