Ban Mai báo hiệu những tia sáng ,cũng như hoàng hôn sẽ đưa đên bóng đêm,con người sinh ra rồi chết đi vv Đó là tất cả những điều khách quan mà hành tinh nay ban tặng cho thế giới này. Theo vòng quay của đất trời, khi mùa đông qua đi là mùa xuân lại tới muôn loài lại thêm một tuổi. Con người cũng vậy, cái vòng Sinh-Lão-Bệnh-Tử dù muốn hay không cũng phải trải qua. Cũng vì vậy mà con người luôn luôn tồn tại và phát triển, có người sinh ra và cũng có người chết đi, không ai có thể xoá bỏ quy luật Sinh-Tử muôn đời của tự nhiên. Có thể nói: Bảo hiểm xã hội (BHXH) là người bạn ''tương trợ'' theo suốt cuộc đời (sinh, lão, bệnh, tử) của người lao động, từ lúc còn trong bụng mẹ được hưởng chế độ trợ cấp thai sản, đến khi trưởng thành là người lao động được hưởng trợ cấp khi ốm đau, tai nạn, thất nghiệp, lúc tuổi già được hưởng trợ cấp hưu trí và đến khi qua đời được BHXH lo toan chu đáo tiền mai táng phí, tiền tử tuất. BHXH- chính sách lớn của Đảng và Nhà nước với bản chất nhân văn sâu sắc vì cuộc sống an lành, ấm no, tự do và hạnh phúc của con người. Từ đó góp phần thực hiện mục đích phục vụ cuộc sống con người, vì dân sinh hạnh phúc, vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
ở Việt Nam, chính sách BHXH đã được thực hiện từ đầu những năm 60 của thế kỷ 20. Cùng với hệ thống chính sách xã hội và phúc lợi xã hội khác, chính sách BHXH đã góp phần rất to lớn vào việc ổn định đời sống người lao động và gia đình họ.
Bước sang thời kỳ chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, một loạt các văn bản của BHXH được ban hành đặc biệt là Nghị định 12/CP (26/1/1995), Nghị định 45/CP (15/7/1995), Nghị định 19/CP (16/2/1995).
Nước ta từ khi triển khai điều lệ BHXH theo Bộ luật lao động, được sự chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, hệ thống BHXH đã nhanh chóng xây dựng, tổ chức, bộ máy, thực hiện đúng các chế độ, chính sách đối với người tham gia và người được hưởng BHXH, tổ chức thu đạt kết quả cao, chi trả kịp thời cho các đối tượng và bước đầu đã hình thành được quỹ BHXH tập trung độc lập với Ngân sách Nhà nước. Do vậy việc nghiên cứu để hoàn thiện các chính sách về BHXH có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Công tác chi trả các chế độ có thể coi là một khâu trọng yếu trong việc thực hiện các chính sách BHXH. Công tác chi trả các chế độ BHXH nếu được thực hiện tốt sẽ gián tiếp tạo đà cho công tác thu BHXH, điều đó cũng có nghĩa là làm cho hoạt động BHXH phát triển, từ đó góp phần làm cho mục đích của chính sách BHXH phát huy tác dụng hơn nữa điều này trợ giúp một phần cho các nhà quản lý nhà nước ,quản lý kinh tế xã hội một cách hiệu quả hơn trong mục tiêu phát triển công nghiệp hoá ,hiện đại hoá đất nước . Vậy để thực hiện công tác chi trả được tốt hơn Em xin phép được nêu ra một số ý kiến của bản thân qua việc nghiên cứu đề tài: “thực trạng và một số giải pháp thực hiện công tác chi trả các chế độ BHXH ở Việt Nam hiện nay”
80 trang |
Chia sẻ: ngatran | Lượt xem: 1536 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và một số giải pháp thực hiện công tác chi trả các chế độ BHXH ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Ban Mai báo hiệu những tia sáng ,cũng như hoàng hôn sẽ đưa đên bóng đêm,con người sinh ra rồi chết đi …vv Đó là tất cả những điều khách quan mà hành tinh nay ban tặng cho thế giới này. Theo vòng quay của đất trời, khi mùa đông qua đi là mùa xuân lại tới muôn loài lại thêm một tuổi. Con người cũng vậy, cái vòng Sinh-Lão-Bệnh-Tử dù muốn hay không cũng phải trải qua. Cũng vì vậy mà con người luôn luôn tồn tại và phát triển, có người sinh ra và cũng có người chết đi, không ai có thể xoá bỏ quy luật Sinh-Tử muôn đời của tự nhiên. Có thể nói: Bảo hiểm xã hội (BHXH) là người bạn ''tương trợ'' theo suốt cuộc đời (sinh, lão, bệnh, tử) của người lao động, từ lúc còn trong bụng mẹ được hưởng chế độ trợ cấp thai sản, đến khi trưởng thành là người lao động được hưởng trợ cấp khi ốm đau, tai nạn, thất nghiệp, lúc tuổi già được hưởng trợ cấp hưu trí và đến khi qua đời được BHXH lo toan chu đáo tiền mai táng phí, tiền tử tuất. BHXH- chính sách lớn của Đảng và Nhà nước với bản chất nhân văn sâu sắc vì cuộc sống an lành, ấm no, tự do và hạnh phúc của con người. Từ đó góp phần thực hiện mục đích phục vụ cuộc sống con người, vì dân sinh hạnh phúc, vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
ở Việt Nam, chính sách BHXH đã được thực hiện từ đầu những năm 60 của thế kỷ 20. Cùng với hệ thống chính sách xã hội và phúc lợi xã hội khác, chính sách BHXH đã góp phần rất to lớn vào việc ổn định đời sống người lao động và gia đình họ.
Bước sang thời kỳ chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, một loạt các văn bản của BHXH được ban hành đặc biệt là Nghị định 12/CP (26/1/1995), Nghị định 45/CP (15/7/1995), Nghị định 19/CP (16/2/1995).
Nước ta từ khi triển khai điều lệ BHXH theo Bộ luật lao động, được sự chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, hệ thống BHXH đã nhanh chóng xây dựng, tổ chức, bộ máy, thực hiện đúng các chế độ, chính sách đối với người tham gia và người được hưởng BHXH, tổ chức thu đạt kết quả cao, chi trả kịp thời cho các đối tượng và bước đầu đã hình thành được quỹ BHXH tập trung độc lập với Ngân sách Nhà nước. Do vậy việc nghiên cứu để hoàn thiện các chính sách về BHXH có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Công tác chi trả các chế độ có thể coi là một khâu trọng yếu trong việc thực hiện các chính sách BHXH. Công tác chi trả các chế độ BHXH nếu được thực hiện tốt sẽ gián tiếp tạo đà cho công tác thu BHXH, điều đó cũng có nghĩa là làm cho hoạt động BHXH phát triển, từ đó góp phần làm cho mục đích của chính sách BHXH phát huy tác dụng hơn nữa điều này trợ giúp một phần cho các nhà quản lý nhà nước ,quản lý kinh tế xã hội một cách hiệu quả hơn trong mục tiêu phát triển công nghiệp hoá ,hiện đại hoá đất nước . Vậy để thực hiện công tác chi trả được tốt hơn Em xin phép được nêu ra một số ý kiến của bản thân qua việc nghiên cứu đề tài: “thực trạng và một số giải pháp thực hiện công tác chi trả các chế độ BHXH ở Việt Nam hiện nay”
Kết cấu của đề tài này bao gồm:
Lời nói đầu
Chương1: Lý luận chung về BHXH và công tác chi trả
BHXH
Chương2: Thực trạng công tác chi trả các chế độ BHXH ở
Việt Nam hiện nay
Chương3: Giải pháp hoàn thiện công tác chi trả các chế độ
BHXH
Kết luận.
Chương 1
Lý luận chung về bảo hiểm xã hội
và công tác chi trả BHXH
1.1Sự cần thiết khách quan của BHXH trong đời sống kinh tế xã hội.
Con người muốn tồn tại và phát triển đòi hỏi phải được thoả mãn những nhu cầu ăn, mặc, ở... Những điều kiện trên không có sẵn trong tự nhiên mà để có được nó, người ta lao động tạo ra sản phẩm cần thiết. Và khi sản phẩm tạo ra càng nhiều thì đời sống con người ngày càng hoàn thiện và xã hội văn minh hơn. Nhưng trong thực tế, cuộc sống của con người không phải lúc nào cũng đủ sức khoẻ và cơ hội lao động để tạo ra thu nhập và có điều kiện sống bình thường vì rất nhiều trường hợp gặp phải hoàn cảnh khó khăn, bất lợi làm giảm hoặc mất nguồn thu nhập ảnh hưởng đến điều kiện sinh sống do bị bất ngờ ốm đau, tai nạn, mất khả năng lao động và khi về già không còn khả năng lao động. Trong khi đó con người luôn luôn cần phải có những nhu cầu sinh hoạt về mặt vật chất và tinh thần. Vì vậy, mỗi người lao động cần thiết phải có một nguồn lực tài chính dự trữ để kịp thời cung cấp đáp ứng nhu cầu về vật chất và tinh thần không những cho bản thân mình mà cho cả những người mình phải trực tiếp nuôi dưỡng và cho những người gặp phải những biến cố rủi ro (kể cả ngẫu nhiên và tất yếu) để bù đắp vào sự thiếu hụt thu nhập do khả năng lao động bị giảm sút, nhằm giảm bớt khó khăn trong cuộc sống, duy trì và ổn định cuộc sống cho chính họ và gia đình họ.
Xã hội ngày càng phát triển, nhận thức của con người ngày càng được nâng cao thì cách giải quyết này càng được sửa đổi, bổ sung hợp lý và nó ngày càng phát triển theo không gian, nội dung cũng như phương thức thực hiện. Dần dần cách giải quyết chung nhất mà cho đến bây giờ vẫn được sử dụng, đó là BHXH như ta vẫn gọi ngày nay.
Có rất nhiều khái niệm về BHXH nhưng về nội dung thì cơ bản là giống nhau. Ta có thể tiếp cận BHXH theo khái niệm sau: ''BHXH là sự đảm bảo đời sống vật chất cho người lao động và gia đình họ khi có nguy cơ mất an toàn về kinh tế do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm thông qua sử dụng nguồn quỹ huy động từ người tham gia và sự tài trợ của Nhà nước''
BHXH không chỉ là nhu cầu của người lao động mà còn là chính sách lớn của mỗi quốc gia về thực hiện BHXH sẽ góp phần ổn định xã hội, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển. Thực hiện BHXH sẽ hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung có thể đầu tư một phần cho các hoạt động kinh tế để sinh lời, tăng thêm nguồn thu cho quỹ BHXH. Khoản đầu tư này góp phần phát triển sản xuất, bảo đảm an toàn cho quỹ BHXH khỏi bị mất giá để chi trả trợ cấp BHXH cho người lao động và gia đình họ.
Như vậy có thể nói rằng, BHXH ra đời là một tất yếu khách quan nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi có khó khăn về kinh tế. Điều đó đã làm cho người lao động yên tâm trong quá trình sản xuất, nâng cao năng suất lao động góp phần vào việc phát triển và tăng trưởng nền kinh tế, đảm bảo công bằng xã hội.
- Đối với người lao động: BHXH góp phần ổn định cuộc sống cho bản thân người lao động cũng như gia đình họ khi gặp khó khăn do bị mất hoặc giảm thu nhập, từ đó tạo ra tâm lý yên tâm ổn định trong cuộc sống cũng như trong lao động, góp phần nâng cao năng suất lao động cho xã hội.
- Đối với người sử dụng lao động: BHXH góp phần ổn định sản xuất kinh doanh, giúp người sử dụng lao động đỡ phải bỏ ra một khoản tiền lớn, nhiều khi là rất lớn để thực hiện trách nhiệm của mình đối với người lao động khi họ gặp khó khăn trong cuộc sống, từ đó góp phần ổn định môi trường lao động, ổn định xã hội, nâng cao trách nhiệm của người lao động, nâng cao năng suất lao động.
- Đối với Nhà nước: BHXH là công cụ quan trọng giúp Nhà nước thực hiện chức năng xã hội được tốt hơn nhằm đạt tới mục tiêu công bằng và tiến bộ xã hội: Thông qua các quy định về BHXH đối với người lao động và người sử dụng lao động, Nhà nước thực hiện việc điều tiết lợi ích, quyền lợi của các bên. Nói cách khác, Nhà nước sử dụng pháp luật để can thiệp vào mối quan hệ chủ- thợ, đảm bảo những quyền lợi xã hội cho người lao động tạo sự công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, phân phối lại thu nhập, từ đó phát huy tốt nhân tố con người, kết hợp tốt giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội.
BHXH không những trợ giúp đắc lực cho Nhà nước phân phối lại thu nhập, điều tiết lợi ích các bên, mà BHXH còn là kênh huy động vốn có hiệu quả cung cấp nguồn tiền tệ lớn cho việc đầu tư phát triển đối với nền kinh tế và cũng chính điều này là sự đảm bảo cho quỹ BHXH được bảo toàn và phát triển tránh sự trượt giá của đồng tiền theo thời gian.
Chúng ta có thể chắc chắn một điều rằng: Sự tồn tại của BHXH là một tất yếu khách quan ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay. Điều này được pháp luật nhiều nước công nhận và đã trở thành một trong những quyền con người được ghi nhận trong tuyên ngôn nhân quyền ngày 10/12/1948: '' Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội đều có quyền hưởng BHXH. Quyền đó được đặt trên cơ sở quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và tự do phát triển của con người''. Đồng thời, ở cấp độ chung nhất, mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và BHXH đã được Đảng ta xác định:'' Tăng trưởng kinh tế tạo cơ sở và điều kiện thuận lợi cho phát triển xã hội; ngược lại, phát triển xã hội là động lực, là mục tiêu cuối cùng của phát triển kinh tế''; ''Mỗi chính sách kinh tế đều phải nhằm mục tiêu phát triển xã hội; Mỗi chính sách xã hội đều bao chứa nội dung và ý nghĩa kinh tế, dù trực tiếp hay gián tiếp, dù trước mắt hay lâu dài''.
1.2. Sự ra đời của BHXH.
Trong quá trình phát triển công nghiệp, giai cấp công nhân ngày càng đông đảo, cơ chế giải quyết vấn đề giảm thu nhập cũ đã không còn phù hợp, sức ép về chính trị ngày càng lớn làm ảnh hưởng đến đời sống chính trị xã hội của các quốc gia, bởi lợi ích giữa các bên (người lao động và người sử dụng lao động) không thể điều hoà theo cơ chế cũ được nữa. Để ổn định lại trật tự môi trường xã hội và bảo vệ lợi ích các bên, Chính phủ các nước đặc biệt là các nước công nghiệp không thể không quan tâm đến tình cảnh của người lao động, do đó, Nhà nước đã phải can thiệp để tạo ra chế độ và hình thức thích hợp hơn nhằm tỏ ra chăm sóc tới người lao động. Và từ năm 1850 đến năm 1889, một hệ thống BHXH lớn đầu tiên đã ra đời với sự tham gia bắt buộc của những người làm công ăn lương, theo nguyên tắc những người được bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm xã hội và có sự hỗ trợ thêm của Nhà nước và trách nhiệm của người sử dụng lao động. Đồng thời cả 3 thành viên xã hội này là người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước đều có vị trí, trách nhiệm trong việc quản lý hệ thống BHXH. Năm 1950 dưới thời thủ tướng Bis-mác, nhiều bang của Đức đã giúp các địa phương thành lập quỹ bảo hiểm ốm đau. Chế độ ốm đau này được phổ cập trong toàn nước Đức vào năm 1883 do các hội tương tế lúc bấy giờ của công nhân quản lý. Năm 1884 xuất hiện tiếp chế độ bảo hiểm các rủi ro nghề nghiệp (tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp) do các hiệp hội chủ doanh nghiệp quản lý. Năm 1889 lại xuất hiện tiếp chế độ bảo hiểm tuổi già và bảo hiểm tàn tật do chính quyền các tỉnh quản lý.
Tiếp theo Đức, năm 1981, Pháp thực hiện bảo hiểm xã hội phổ cập trong cả nước nhưng không thành công. Năm 1930, Pháp thông qua đạo luật thứ 2 về BHXH, áp dụng chủ yếu cho ngành công nghiệp và thương mại. Sau đó, bắt đầu những thập kỷ 30 thế kỷ XX, liên tiếp các nước Mỹ la tinh, Hoa kỳ, Canađa đều áp dụng. Từ sau thế chiến thứ 2, tầm quan trọng của BHXH tiếp tục được nhiều nước Châu Phi, Châu á và vùng Caribe công nhận và thi hành.
Để bình ổn xã hội, giúp người lao động yên tâm sản xuất và đáp ứng những nguyện vọng sâu sắc nhất, chung nhất của nhân dân toàn thế giới. Ngày 28/6/1952 Hội nghị toàn thể của Tổ chức lao động Quốc tế (ILO) đã thông qua công ước số 102 về an toàn xã hội trong đó có BHXH là cơ chế chủ yếu, giúp các nước định hướng trong việc xây dựng hệ thống BHXH với 9 chế độ BHXH.
BHXH, từ khi ra đời cho đến nay, nó luôn được hoàn thiện và chứng tỏ sự phù hợp với xã hội đương thời thông qua sự vận động hài hoà các mối quan hệ giữa 3 bên: người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Qua thực tế và lý luận cho thấy BHXH có những tác dụng rất to lớn giúp giải quyết tốt mâu thuẫn giữa người lao động và người sử dụng lao động ổn định trật tự và trợ giúp phát triển xã hội.
1.3. Những nội dung cơ bản về BHXH.
1.3.1. Bản chất, chức năng và nhiệm vụ của BHXH.
1.3.1.1. Bản chất của BHXH.
* Bản chất kinh tế của BHXH.
Thông qua BHXH, người lao động chỉ cần đóng hàng tháng một tỷ lệ nhỏ phần trăm so với tiền lương của mình cùng với sự hỗ trợ của Ngân sách Nhà nước để tạo ra một quỹ BHXH, quỹ này là sự tập hợp của số đông người lao động tham gia BHXH để bù đắp cho số ít người tham gia bị rủi ro. Khi rủi ro xảy ra, bằng hình thức lấy số đông bù số ít người bị rủi ro sẽ giúp khắc phục những khó khăn trong đời sống cá nhân từng lao động do bị mất hoặc giảm thu nhập,BHXH không phải là dịch vụ sản xuất mà nó là dịch vụ tài chính nhằm phân phối lại những khoản thu nhập bị mất của người lao động khi gặp sự cố trong cuộc sống.
* Bản chất xã hội của BHXH:
Bản chất xã hội của BHXH là sự san sẻ rủi ro giữa tập thể người lao động. Qua đó cũng thể hiện rõ trách nhiệm xã hội giữa chủ sử dụng lao động với người lao động, của người lao động với nhau và sự quan tâm của Nhà nước tới sự cống hiến cho lợi ích xã hội của người lao động.
* Bản chất pháp lý của BHXH:
Mối quan hệ giữa các bên tham gia BHXH được quy định, điều chỉnh thông qua bộ luật BHXH hoặc các văn bản BHXH dưới luật hoặc phần quy định về BHXH ở một bộ luật khác (VD: ở Bộ Luật lao động), do đó nó ràng buộc rất chặt chẽ trách nhiệm và quyền lợi của các bên có liên quan và ở đây trách nhiệm lớn nhất của người lao động và của người sử dụng lao động là đóng phí BHXH cho các cơ quan BHXH, quyền lợi lớn nhất của người lao động là được chi trả BHXH khi có sự cố theo quy định của pháp luật.
Thực chất, BHXH là bản cam kết giữa cơ quan BHXH, người sử dụng lao động và người lao động về trách nhiệm và quyền lợi của mỗi bên thông qua các quy định của pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ về BHXH.
1.3.1.2. Các chức năng và nhiệm vụ cơ bản của BHXH
* Chức năng của BHXH:
- Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc bị mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm, từ đó đảm bảo ổn định đời sống- kinh tế cho người lao động và gia đình họ theo những điều kiện nhất định.
Suy cho cùng, sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì: mất khả năng lao động sẽ đến với tất cả mọi người lao động khi hết tuổi lao động theo các điều kiện quy định của BHXH; Còn mất việc làm và mất khả năng lao động tạm thời làm giảm hoặc mất thu nhập, người lao động cũng sẽ được hưởng trợ cấp BHXH với mức hưởng phụ thuộc vào các điều kiện cần thiết, thời hạn và thời điểm được hưởng phải đúng qui định. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ tính chất và cả cơ chế tổ chức, hoạt động của BHXH.
- Thực hiện phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người lao động tham gia BHXH.
Chức năng này được thể hiện rõ nét và được thực hiện thông qua quá trình lập và sử dụng quỹ BHXH. Quỹ BHXH do người lao động và người sử dụng lao động đóng góp cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước với mục đích trang trải khó khăn cho người lao động. Về nguyên tắc, người lao động có quyền được hưởng trợ cấp BHXH, nhưng phải lưu ý đến những điểm sau:
+ Phân phối trong BHXH là phân phối không đều, nghĩa là không phải ai tham gia BHXH cũng được phân phối với số tiền giống nhau mà mức hưởng và thời hạn hưởng còn phải phụ thuộc vào những điều kiện khác nhau.
+ Phân phối trong BHXH vừa mang tính bồi hoàn vừa không mang tính bồi hoàn. Những biến cố xảy ra mang tính tất nhiên đối với con người là thai sản (đối với lao động nữ), tuổi già và chết, trong trường hợp này, BHXH phân phối mang tính bồi hoàn vì người lao động đóng BHXH chắc chắn được hưởng khoản trợ cấp đó. Còn trợ cấp do những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm, những rủi ro xảy ra trái ngược với ý muốn của con người như ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp... thì mới được hưởng khoản trợ cấp đó. Số lượng này thường chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số những người tham gia đóng góp.
Như vậy, quỹ BHXH được lập do sự đóng góp của số đông người lao động, người sử dụng lao động và có thể có sự hỗ trợ của Nhà nước nhưng chỉ dùng để phân phối lại cho một số ít người lao động không may bị rủi ro, thiệt hại trong thu nhập. Theo quy luật số đông bù số ít, BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều ngang và chiều dọc, giữa những người có thu nhập cao và thấp hơn, giữa những người khoẻ mạnh đang làm việc với những người ốm yếu phải nghỉ việc... điều đó có nghĩa là BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội.
- Góp phần kích thích, khuyến khích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội , đồng thời tạo điều kiện cho quá trình sản xuất diễn ra liên tục, đều đặn.
Người lao động khi khoẻ mạnh tham gia lao động sản xuất được chủ sử dụng lao động trả tiền công; Khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, tuổi già... đã có BHXH đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập bị mất, do đó, đời sống của bản thân và gia đình họ luôn được đảm bảo ổn định và có chỗ dựa. Chính điều đó sẽ làm cho họ gắn bó với công việc, với nơi làm việc. Từ đó, họ rất tích cực lao động sản xuất, góp phần tăng năng suất lao động cũng như tăng hiệu quả kinh tế. Đồng thời, nhờ những khoản trợ cấp BHXH, người lao động nhanh chóng được phục hồi cả về mặt thể xác cũng như mặt tinh thần, từ đó có thể tham gia tiếp tục vào quá trình sản xuất tạo điều kiện tốt diễn ra bình thường, ổn định. Chức năng này biểu hiện như một đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động nâng cao năng suất lao động cá nhân và kéo theo là năng suất lao động xã hội.
- Gắn bó lợi ích giữa những người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước.
Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động và người sử dụng lao động vốn có những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao động... Khi nền kinh tế hàng hoá ngày càng phát triển, việc thuê mướn nhân công trở lên phổ biến. Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau dã phải cam kết cả việc bảo đảm cho người làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không may bị ốm đau, tai nạn, thai sản... Cũng có khi các trường hợp trên không xảy ra và người chủ không phải chi một đồng nào; Nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ phải bỏ ra một lúc một khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thế mâu thuẫn chủ- thợ phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ phải thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế xã hội. Do đó, Nhà nước đã phải đứng ra can thiệp giải quyết và điều hoà những mâu thuẫn đó thông qua BHXH, và như thế cả hai bên đều cảm thấy mình có lợi và được bảo vệ, từ đó làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích được với nhau. Bằng phương thức dàn trải rủi ro thiệt hại theo cả thời gian và không gian, BHXH đã giảm tối thiểu thiệt hại cho số đông người trong xã hội, đồng thời làm tăng khả năng giải quyết rủi ro, khó khăn của những người lao động tham gia bảo hiểm với một tổng dự trữ ít nhất, nhưng vẫn giải quyết tốt nhất những rủi ro, khó khăn về đời sống và gia đình họ nhờ cả sự hỗ trợ thêm của Nhà nước và trách nhiệm của người sử dụng lao động. Với người sử dụng lao động, trách nhiệm của họ đối với người lao động cũng vì thế mà được giải quyết một cách thuận lợi nhất, có lợi cho cả hai bên. Với Nhà nước, quỹ BHXH là nguồn vốn lớn cung cấp cho đầu tư phát triển kinh tế đất nước, đồng thời qua đó cũng làm tăng thêm nguồn thu cho quỹ. Từ đó, nó giúp việc chi trả cho người lao động được dễ dàng hơn. Như vậy, lợi ích của 3 bên tham gia BHXH nhờ thông qua BHXH ngày càng trở nên gắn bó với nhau chặt chẽ hơn kể cả về lợi ích trước mắt và lâu dài.
* Nhiệm vụ của bảo hiểm xã hội:
Với chức năng quan trọng như vậy, BHXH cần phải thực hiện những nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu và ban hành các chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội từng thời kỳ.
Chính sách BHXH là định hướng quan trọng nhất cho hoạt động BHXH. Do đó, nghiên cứu và ban hành các chính sách, chế độ BHXH phù hợp là nhiệm vụ quan trọng nhất trong các nhiệm vụ của BHXH. Sự phù hợp của chính sách là cơ sở tồn tại của chính nó, một chính sách BHXH đúng đắn được áp dụng là điều kiện tốt nhất cho việc nâng cao, phát huy hiệu quả của hoạt động BHXH. Để có được điều kiện đó, việc hoạch định chính sách BHXH cần dựa trên cơ sở, điều kiện cụ thể về đặc điểm dân số, kinh tế, lao động và xã hội... từ đó mới có thể tạo ra sự tồn tại, sức sống thực tế của