Từ lâu, các nhà Việt ngữ học trong và ngoài nước đã chú ý tới những kiểu câu kiểu sau đây trong tiếng việt.
(1). Trên bàn có một lọ hoa.
(2). Dưới suối nhởn nhơ bơi những con cá bạc.
(3). Từ đằng xa, tiến lại một người con gái.
(4). Trên xe, chễm chệ ngồi một người to béo.
(5). Ngã bố, con! Cháy rừng U Minh Thượng rôi!
(6). Đông người quá! Nhiều muỗi ghê!
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi trong bản khoá luận này là một số kiểu câu nằm trong phạm vi đó. Cụ thể là, chúng tôi sẽ khảo sát bốn kiểu câu sau đây, tồn tại với tính cách là những câu tách biệt, hoạt động trong các văn bản trong giao tiếp.
Nhóm thứ nhất là những câu đã được thừa nhận là những câu tồn tại điển hình, mà mô hình phổ biến nhất là: thành phần chỉ vị trí không gian + vị từ tồn tại “có”+ phần danh chỉ đối tượng tồn tại.
Ví dụ:
Ngày xưa, ở làng nọ có một quả núi cao.
Trên núi có một cái hang
Trước cửa hang có một tảng đá hình con thỏ.
[Thỏ ngọc, NXB Kim Đồng, 1982]
Nhóm thứ hai là những câu có mô hình: thành phần có ý nghĩa không gian có giới từ: Từ + cụm vị từ (liên quan tới sự vận động hoặc hàm ẩn sự vận động trong không gian theo một cách nào đó, sự thay đổi vị trí theo một hướng nhất định) + phần danh.
60 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 7251 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu một số kiểu câu liên quan đến tồn tại trong tiếng Việt - Từ góc độ ngữ nghĩa và ngữ dụng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tìm hiểu một số kiểu câu liên quan đến tồn tại trong tiếng Việt - từ góc độ ngữ nghĩa và ngữ dụng
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Đối tượng nghiên cứu, lý do chọn đề tài
Từ lâu, các nhà Việt ngữ học trong và ngoài nước đã chú ý tới những kiểu câu kiểu sau đây trong tiếng việt.
(1). Trên bàn có một lọ hoa.
(2). Dưới suối nhởn nhơ bơi những con cá bạc.
(3). Từ đằng xa, tiến lại một người con gái.
(4). Trên xe, chễm chệ ngồi một người to béo.
(5). Ngã bố, con! Cháy rừng U Minh Thượng rôi!
(6). Đông người quá! Nhiều muỗi ghê!…
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi trong bản khoá luận này là một số kiểu câu nằm trong phạm vi đó. Cụ thể là, chúng tôi sẽ khảo sát bốn kiểu câu sau đây, tồn tại với tính cách là những câu tách biệt, hoạt động trong các văn bản trong giao tiếp.
Nhóm thứ nhất là những câu đã được thừa nhận là những câu tồn tại điển hình, mà mô hình phổ biến nhất là: thành phần chỉ vị trí không gian + vị từ tồn tại “có”+ phần danh chỉ đối tượng tồn tại.
Ví dụ:
Ngày xưa, ở làng nọ có một quả núi cao.
Trên núi có một cái hang
Trước cửa hang có một tảng đá hình con thỏ.
[Thỏ ngọc, NXB Kim Đồng, 1982]
Nhóm thứ hai là những câu có mô hình: thành phần có ý nghĩa không gian có giới từ: Từ + cụm vị từ (liên quan tới sự vận động hoặc hàm ẩn sự vận động trong không gian theo một cách nào đó, sự thay đổi vị trí theo một hướng nhất định) + phần danh.
Ví dụ:
Từ đằng xa, tiến lại một người con gái.
Từ trong, lù lù đi ra hai cái bóng vệ quốc quân với mũ ca nô và aó trấn thủ.
Cùng lúc ấy lạch phạch chạy tới một chiếc bình bịch nhỏ.
Từ trong quả thị chui ra một cô gái.
Nhóm thứ ba là những câu có mô hình : thành phần chỉ không gian + vị từ + phần danh, miêu tả một sự tình ở một phạm vi không gian cố định.
Ví dụ:
Dưới suối lững lờ bơi mấy con cá nhỏ
Trước mặt chúng tôi sừng sừng một vách đá cheo leo
Trên xe ngồi chễm chệ một bà to béo.
Nhóm thứ tư là những câu có mô hình: vị từ + danh từ, gắn với những sự tình, những biến cố ngoài kiểm tra, thường có khả năng hoạt động như những cảnh báo, ngăn chặn.
Ví dụ :
Ngã bố, con !
Bay mất con chim hoạ mi của tao giờ !
Cháy rừng U Minh Thượng rồi, anh em ơi !.
Ẩn đằng sau, hay nói đúng hơn là gắn liền với những kiểu câu đó là hàng loạt những vấn đề có ý nghĩa đáng đựơc quan tâm đối với cú pháp, ngữ pháp, ngữ nghĩa … Chẳng hạn, vấn đề phạm vi và ranh giới của câu tồn tại, mối liên hệ của nó với các hiện tượng kế cận. Nên mở rộng phạm vi câu tồn tại đến đâu, ở góc độ nào, có những khía cạnh nào đáng quan tâm …, sự tác động của các nhân tố khác nhau đến việc hình thành các kiểu câu, mối quan hệ qua lại giữa tổng thể câu và các thành tố tham gia vào câu, các khía cạnh nghĩa và ngữ dụng của nó …
Ý kiến của các nhà nghiên cứu lâu nay xung quanh các hiện tượng đó còn chưa thống nhất, cũng chưa có những miêu tả, đánh giá tương đối kỹ về các mặt trong cách nhìn từ những chiều khác nhau, đặc biệt là các nhân tố về nghĩa , ngữ dụng và vai trò chung của cấu trúc. Đây đó, cũng đã có những bài báo đề cập tới vấn đề theo hướng đó,chẳng hạn,bài viết của Lý Toàn Thắng. Song chủ yếu vẫn là tổng kết để gợi mở một vấn đề, trên góc độ ngôn ngữ học đại cương. Do vậy, thực ra các nhân tố nghĩa và ngữ dụng, đặc biệt là ngữ dụng vẫn chưa thể có điều kiện để chú ý tới một cách tương đối hệ thống. Các hiện tượng vẫn được xem xét trên cơ sở được quy vào một mô hình câu chung.
Trong khoá luận này, chúng tôi chủ trương tách ra một số nhóm câu để phân tích. Cách làm đó là có định hướng và có lý do của nó.
Thứ nhất, phạm vi những câu tượng tự và biểu hiện của chúng khá đa dạng, mặc dù, ở cấp độ cấu trúc hình thức trừu tượng nhất đều có chung một mô hình.Theo đó, phần vị từ đứng trước, phần danh đi sau, mà Lý Toàn Thắng gọi là những câu “P - N”.
Nếu tính đến những đặc trưng cấu tạo, ngữ nghĩa vầ ngữ dụng cụ thể hơn và theo những tinh thần miêu tả các đơn vị thường được gọi là những cấu trúc, theo cách hiểu gần đây trong ngôn ngữ học, thì cần phải tiếp tục chia nhỏ hơn thành các kiểu câu để xem xét. Việc tìm hiểu diện mạo đầy đủ của các hiện tượng như vậy vượt quá khả năng, trình độ và điều kiện thời gian của chúng tôi.Vì vậy, cách tốt nhất là khoanh lại một vùng cụ thể để làm việc. Những kết quả thu được là một bước góp phần vào việc tiếp tục nghiên cứu vấn đề, tổng hợp toàn bộ vấn đề.
Thứ hai, việc khoanh lại vấn đề như vậy,cho phép chúng tôi đi vào xem xét sâu hơn, kỹ hơn những khía cạnh cụ thể nhưng đáng được lưu ý mà khi xem xét trên góc độ chung hơn thường không để ý tới. Bản chất của hiện tượng nhiều khi lại được bộc lộ ra qua các khía cạnh như thế, sự xem xét tỷ mỷ hơn kiểu như thế.
Thứ ba, những nhóm câu mà chúng tôi lựa chọn xem xét vừa bao gồm những câu tồn tại điển hình, vừa bao gồm những kiểu câu trung gian tập trung tương đối rõ sự đa dạng, chưa thống nhất về ý kiến. Điều đó, đã tạo điều kiện để hy vọng rằng, từ đây có thể nhìn vấn đề rộng hơn, sang các hiện tượng khác.
2. Mục đích nhiệm vụ và ý nghĩa của bài khóa luận tốt nghiệp
Trong bài khoá luận tốt nghiệp này, chúng tôi đặt ra cho mình nhiệm vụ cơ bản sau đây.
1) Tìm hiểu một số nét chung trong tình hình nghiên cứu về các nhóm câu được quan tâm.
2) Trên cơ sở đó, tìm hiểu những đặc trưng nguyên mẫu của những câu những câu tồn tại điển hình. So sánh các kiểu câu còn lại với câu tồn tại điển hình, chỉ ra sự gần gũi và độ cách biệt giữa chúng.
3) Miêu tả các kiểu câu đó về các mặt ngữ nghĩa, ngữ dụng.
Tìm hiểu những vấn đề đó, chúng tôi hy vọng đóng góp một phần vào việc từng bước tiến tới một quan niệm đầy đủ hơn về câu tồn tại tiếng Việt, góp phần miêu tả các kiểu câu đó theo quan điểm ngữ nghĩa, ngữ dụng. Từ đó, đóng góp những tư liệu và cơ sở nhất định hữu ích ít nhiều cho các nhà nghiên cứu, giải quyết những hiện tượng liên quan trong lĩnh vực cú pháp. Chẳng hạn, vấn đề xử lý các thành phần câu, các kiểu câu trong khuôn khổ có liên quan. Mặc dù, thành phần câu không phải là phạm vi quan tâm của khoá luận này.
3. Tư liệu và phương pháp nghiên cứu
3.1. Nguồn tư liệu
Nguồn tư liệu mà chúng tôi sử dụng trong khoá luận này chủ yếu lấy từ các truyện ngắn. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng sưu tầm thêm tư liệu từ một số loại tạp chí và báo như : văn nghệ quân đội, văn hoá - văn nghệ công an, tạp chí văn, baó văn nghệ, văn nghệ trẻ.
Ngoài những nguồn tư liệu thu thập trên các sách báo, chúng tôi cũng tôi sưu tầm thêm rất nhiều câu khẩu ngữ hàng ngày và một số tư liệu thừa hưởng được từ ghi chép riêng của người hướng dẫn.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình làm việc, chúng tôi tiến hành sử dụng phương pháp phân tích ngữ cảnh. Chúng tôi đặt các kiểu câu đó vào mối quan hệ với những câu đi trước hay sau nó. Tức quan sát, phân tích nó trong ngữ cảnh rộng vượt ra ngoài khuôn khổ phát ngôn hẹp hoặc tính tới các nhân tố khác nhau tác động tới sự hoạt động của phát ngôn như các thủ pháp thực nghiệm trong phân tích ngữ cảnh: mở rộng ngữ cảnh; thay thế thêm bớt các yếu tố v.v. sẽ được sử dụng kèm theo trong quá trình phân tích.
Ngoài việc sử dụng các phương pháp phân tích trên, trong khoá luận này chúng tôi cũng tiến hành sử dụng các phương pháp xây dựng mô hình nguyên mẫu, phương pháp so sánh đối chiếu (cụ thể ở đây là so sánh các kiểu câu với câu tồn tại nguyên mẫu, và so sánh mức độ tồn tại giữa các kiểu câu với nhau… ).
Trong bài khoá luận này, chúng tôi cũng sử dụng một vài ký hiệu thường dùng trong ngôn ngữ học, được qui ước như sau:
Dấu sao đi kèm các ví dụ:
(*) Ví dụ bất thường.
(**) Ví dụ trích dẫn theo nguồn tư liệu của thầy giáo hướng dẫn.
Dấu (?) đặt trước các ví dụ:
(?): ví dụ đáng hoài nghi.
(??): Ví dụ rất đáng hoài nghi
4. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, khoá luận gồm hai chương với những nội dung chính sau:
Chương I: Mối quan hệ của các kiểu câu được xét với đặc tính tồn tại và câu tồn tại điển hình (nguyên mẫu).
Nhiệm vụ của chương này là tổng kết một số quan niệm xung quanh vấn đề về câu tồn tại, đưa ra quan niệm về câu tồn tại nguyên mẫu. Từ đó đối chiếu, so sánh với các đặc điểm của các kiểu câu được xét trong khoá luận về đặc tính “tồn tại” của chúng. Cuối cùng đưa ra bảng tổng kết về mức độ gần xa các kiểu câu so với mô hình nguyên mẫu.
Chương II: Miêu tả các đặc trưng ngữ nghĩa –ngữ dụng ba kiểu câu ngoài phạm vi câu tồn tại điển hình.
Như đầu đề đã nói, nhiệm vụ của chương này là lần lượt miêu tả, phân tích một cách cụ thể ba kiểu câu đã được giới thiệu trong phần đầu khóa luận về các mặt ngữ nghĩa và ngữ dụng. Các mặt đó tồn tại song song trong các kiểu câu và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
CHƯƠNG I
MỐI QUAN HỆ CỦA CÁC KIỂU CÂU ĐƯỢC XÉT VỚI ĐẶC TÍNH TỒN TẠI VÀ CÂU TỒN TẠI ĐIỂN HÌNH
1. Vài giới hạn chung
Trong chương này, chúng tôi sẽ lần lượt tìm hiểu các vấn đề chính sau đây :
- Thứ nhất, mối quan hệ với tồn tại là một trong những bình diện ngữ nghĩa và chức năng quan trọng của đối tượng mà chúng tôi khảo sát. Do đó, trước hết trên cơ sở phác ra những nét cơ bản về tình hình nghiên cứu và những vấn đề còn chưa được thống nhất, chung tôi sẽ lựa chọn cho mình một quan niệm, một hướng triển khai các vấn đề tiếp theo.
- Thứ hai, từ những tiền đề chung đẵ được xác lập, chúng tôi sẽ tách riêng ra những câu kiểu: Trên bàn có một lọ hoa, vốn được sự thừa nhận rộng rãi la câu tồn tại điển hình để xem xét, xác lập những đặc điểm cơ bản của nó, gọi là đặc trưng nguyên mẫu. (khái niệm nguyên mẫu sẽ được chúng tôi giải thích sau trong tiểu mục liên quan trực tiếp).
- Thứ ba, xem xét so sánh ba kiểu câu còn lại tức là những câu kiểu: (Từ đằng xa tiến lại một người con gái; Dưới suối lững lờ mấy con cá nhỏ; Ngã bố, con!) với kiểu câu tồn tại điển hình, nguyên mẫu
- Thứ tư, chính sự so sánh đó sẽ làm lộ rõ những nét chung, riêng giữa các kiểu câu này và câu tồn tại điển hình trên các mặt, đặc biêt là các khía cạnh: đặc tính của các thành phần tham gia vào cấu trúc (vị từ, thông tin ngữ nghĩa cảu vị từ; đặc trưng chung nhất của câu, khả năng dẫn nhập đối tượng vào thế giới diễn ngôn… ). Chính qua đó, cho chúng ta thấy mức độ gần xa của các kiểu câu này với câu tồn tại điển hình.
2. Ý niệm về tồn tại và sự phản ánh của nó vào ngôn ngữ
Như ta đã biết, ý niệm về sự tồn tại của đối tượng và sự phản ánh của nó vào ngôn ngữ là một vấn đề đã được quan tâm tới từ lâu cả trong logic-triết học lẫn trong ngôn ngữ học. Sở dĩ như vậy là do ý nghĩa đặc biệt của nó, do mối quan hệ đa dạng của nó với hàng loạt sự kiện ngôn ngữ. Chẳng hạn sơ bộ có thể nhắc tới các hiện tượng ngôn ngữ sau đây liên quan chặt chẽ với ý niệm về sự tồn tại của sự vật trong thế giới.
a) Tồn tại, trước hết liên quan đến các biểu thức quy chiếu, bởi vì, để nói một điều gì đó về đối tượng, để sử dụng những biểu thức chỉ ra đối tượng, người ta phải coi sự tồn tại của đối tượng đó như là một tiền đề có trước của thông báo.
Thuật ngữ “quy chiếu” (reference) được các nhà ngôn ngữ học dùng để chỉ ra mối quan hệ giữa các yếu tố ngôn ngữ với các sự vật, biến cố hành động và tính chất chúng thay thế. Quy chiếu cũng là dấu hiệu đầu tiên thể hiện quan hệ giữa hoàn cảnh giao tiếp với diễn ngôn. “Sự quy chiếu nhất thiết phải dựa trên tiền đề về sự “tồn tại” phát sinh từ những kinh nghiệm trực tiếp của ta về các đối tượng trong thế giới vật chất. Nói rằng một từ cụ thể ( hay một đơn vị khác có nghĩa ) “quy chiếu một đối tượng ” túc là nói rằng cái quy chiếu của nó là một đối tương “ tồn tại ” ( có thực ) theo từ một nghĩa như khi ta nói rằng những con người, động vật và đồ vật cụ thể “ tồn tại ”, và cũng nói rằng trên nguyên tắc có thể đưa ra một miêu tả về các đặc tính vật chất của các đối tượng đang xét ”. [ JOHNLYONS, nhập môn ngôn ngữ học lý thuyết, NXB GD, 1996,tr 667].
Nguyễn Thiện Giáp trong cuốn ( Dụng học Việt ngữ) cũng “coi khái niệm “ tồn tại vật chất” là cơ sở để định nghĩa mối quan hệ ngữ nghĩa của quy chiếu. Sự tồn tại là tiền đề của quy chiếu ” [ Nguyễn Thiện Giáp, Dụng học Việt ngữ, NXB ĐHQG Hà Nội, 2000, tr 27]
b) Tồn tại cũng gắn liền với mặt ngữ nghĩa, chức năng của lượng từ trong ngôn ngữ, thường được xem như là những đương lượng của lượng từ tồn tại trong logic, mặc dù không phải là hoàn toàn đồng nhất, gắn liền với các chỉ tố đánh dấu tính xác định, bất định.
Các lượng từ ( một, một vài, một số …) hiện thực hoá cái hình ảnh về mức độ tồn tại của đối tượng là bao nhiêu, nhiều hay ít và có thể tính đếm được hay không.
Lượng từ, vì vậy, cũng đóng một vai trò quan trọng, góp phần giới hạn phạm vi tồn tại của đối tượng trong phát ngôn làm hình thành những câu phân biệt với nhau về hiệu lực chân thực.
c) Cuối cùng, tồn tại còn gắn liền với những kiểu câu riêng, vị từ riêng. Mà trong ngôn ngữ học thường được tách ra như một kiểu câu, một kiểu vị từ có những đặc trưng riêng biệt. Gắn liền với nó là những dạng câu lân cận, tạo ra một bảng màu đa sắc của tồn tại, mặc dù ý kiến về chúng của các nhà khoa học chưa thật thống nhất.
Như vậy, ta có thể thấy được một số điểm sau:
a) Đối tương mà chúng tôi khảo sát ở đây chính là một bộ phận nằm trong một vấn đề rộng lớn, phức tạp hơn liên quan tới các khía cạnh khác nhau của ngữ nghĩa, cú pháp, các bình diện chức năng khác nhau của nhiều hiện tượng ngôn ngữ.
b) Việc khảo sát câu có liên quan đến tồn tại, không thể không chú ý tới các cấp độ mà ở đó, sự tồn tại được phản ánh vào ngôn ngữ. Điều này sẽ rất có ý nghĩa đối với các phần sau của khoá luận. Nó cũng cho ta thấy rằng, chẳng hạn, vì sao khi Rutxen phân tích câu “Ông vua hiện nay của nước Pháp hói trán” thành hai mệnh đề đẳng lập nhau ( Có một ông vua ở nước Pháp hiện nay; Ông vua nước Pháp hói trán ). Trong đó có một mệnh đề tồn tại lại không được giới nghiên cứu đồng tình. Cũng như vậy, điều lưu ý ở đây góp phần giải thích vì sao khó có thể phủ nhận những câu có phần đề không xác định trong tiếng Việt bằng cách coi những câu như vậy là sự hội nhập của hai câu. Trong đó, có một câu là câu tồn tại.
3. Vài nét về tình hình nghiên cứu, những vấn đề và hệ luận
Câu tồn tại, trong các tài liệu nghiên cứu khác nhau, thường được định nghĩa như là kiểu câu xác nhận (phủ nhận) sự tồn tại của người, vật, dối tượng (kẻ tồn tại) trong một phạm vi nào đó. Vấn đề tưởng như đơn giản và hoàn toàn sáng rõ. Tuy nhiên, khi đi vào xử lý các sự kiện ngôn ngữ cụ thể thì tình hình lộ ra lại hết sức phức tạp. Trên cơ sở những hiểu biết và tham khảo còn rất hạn chế của chúng tôi, cũng có thể nhận thấy những nét cơ bản, đáng lưu ý sẽ được trình bày lần lựot dưới đây.
- Thứ nhất, giữa các tác giả khác nhau, kì thực không có một quan niệm hoàn toàn thống nhất về câu tồn tại. Kết quả là, đi theo hướng quan niệm rộng, sẽ có nội dung quan niệm ít nhiều khác biệt với quan niệm hẹp, chú ý nhiều đến chức năng mà một kiểu câu có thể thực hiện được trong bối cảnh cụ thể thì kết quả sẽ khác so với khi xem xét vấn đề trong một tổng thể và có sự phân biệt giữa cái có trong ngữ cảnh, với cái như là đặc tính ngữ nghĩa chức năng ổn định của kiểu câu, quy định vị trí của kiểu câu ấy trong ngôn ngữ. Xem xét tất cả các câu trong một mô hình cú pháp hình thức trừu tượng sẽ khác với việc nghiên cưú các câu cần xem xét trong những mô hình riêng.
Theo một quan niệm rộng nhất có thể thấy ở nhiều nhà nghiên cứu thì khuôn hình chuyên dụng của câu tồn tại là :
Thể từ vị trí + vị từ + thể từ
Vị từ trong câu tồn tại có thể là :
Các từ chuyên dụng biểu thị ý nghĩa tồn tại như : có, còn …
Các từ chỉ lượng : nhiều, ít, đông, đầy …
Các từ tượng thanh hay tượng hình : lấp lánh, chồm chỗm, lù lù, lủng lẳng, lừng lững …
Một số động từ chỉ hoạt động có tính chất hoạt động thoả mãn các điều kiện sau đây :
d1 : Những động từ này phải là những động từ chứa sẵn mối liên hệ tham chiếu với các biến không gian trong nội dung ý nghĩa của nó.
d2 : Những động từ này phải là những động từ lưu kết quả.
Vì đó là cơ sở cần thiết để tạo ra ý nghĩa về trạng thái tĩnh tại.
[DT:Nguyễn Minh Thuyết – Nguyễn Văn Hiệp, Thành Phần câu tiếng Việt, NXB ĐHQG Hà Nội, 1998, tr: 308].
Theo quan niệm đó, ta thấy phạm vi câu tồn tại được nói đến không chỉ là những câu kiểu :
(1)Trên bàn có một lọ hoa.
mà còn bao hàm hàng loạt các kiểu câu khác, ít nhất và phổ biến nhất là:
(2) Từ đằng xa, tiến lại một người con gái.
Đông người quá! Nhiều muỗi ghê!
Sừng sững một dải núi.
Cháy nhà!
Trên tường treo một bức tranh.
Trên gác bếp lủng lẳng những bắp ngô đã ám màu khói.
Trong khi đó, một số tác giả khác lại quan niệm hẹp hơn nhiều.
- Từ đó dẫn đến điểm thứ hai đáng lưu ý là cùng một kiểu câu, mà tác giả này coi là câu tồn tại song tác giả khác llại không xếp vào phạm vi câu tồn tại. Chẳng hạn những câu kiểu như :
1.Từ đằng xa tiến lại một người con gái.
2.Trên tường treo một bức tranh.
3.Dưới làn nước trong veo, lơ lửng bơi những chú cá nhỏ.
đã được nhiều nhà nghiên cứu xếp vào câu tồn tại. Song Trần Ngọc Thêm lại loại nó ra khỏi phạm vi đó.
Còn những kiểu câu khác như :
Đừng nghịch ! Cháy nhà giờ
Rách áo tao!
Chạy hết cá của tao giờ !
Ngã bố, con !
Được Panfilov xếp vào phạm vi câu tồn tại và nếu xét trong mối quan hệ của nó với các câu kiểu như:
Nhà cháy
Aó tao rách
Bố ngã
Thì chúng ta sẽ có một phép cải biến tồn tại. Điều đó có nghĩa là : những câu như: nhà cháy, áo tao rách được xem như là những câu gốc từ đó sản sinh ra những câu có trật tự đảo tương ứng, còn những câu có trật tự đảo tương ứng là kết quả của một phép cải biến, gọi là phép đảo –tồn tại. Có thể hình dung qua sơ đồ sau:
Nhà cháy đảo trí tồn tại Cháy nhà.
[ DT: Lê Đông, ghi chép về những vấn đề ngữ nghĩa –cú pháp, tr:15]
Trong khi đó, Nguyễn Tài Cẩn và các đồng tác giả lại xem những câu như vậy là loại câu cảm thán có mô hình trật tự đảo. Các tác giả này viết :
“trật tự đảo có thể có ở một kiểu câu cảm thán. Kiểu câu này thường có ý nghĩa ngăn chặn hay đánh giá : rách áo, ngã bố, bẩn vở… ”
[DT: Lê Đông, ghi chép về những vấn đề ngữ nghĩa – cú pháp,tr:17]
- Cuối cùng, có một tình hình cũng không thể không lưu ý đến là các tiêu chuẩn sắp xếp, xây dựng mô hình và đi đến liền theo đó là nội dung quan niệm, cấp độ xem xét ở các tác giả cũng khác nhau.
Lý Toàn Thắng xem xét các kiểu câu đang quan tâm ở đây xuất phát từ mô hình chung, khái quát hai thành phần mà ông gọi là kiểu câu “P-N” trong tiếng Việt và tìm hiểu đặc tính ngữ nghĩa tồn tại chung cho cả mô hình câu khái quát đó. Ông đưa ra nhận xét :
Kiểu câu “P-N” trong tiếng Việt cũng như trong nhiều ngôn ngữ đơn lập khác, có một đặc điểm được nhiều nhà nghiên cứu thừa nhận là : thành phần N sau P chứa nhiều nét đặc trưng cho cả chủ ngữ lẫn bổ ngữ. Trong tiếng Việt cũng như nhiều ngôn ngữ khác chuyên dùng để biểu thị một ngữ nghĩa chung là :“chủ thể –sự tồn tại (xuất hiện, hiện hữu hay tiêu biến ) của bản thân chủ thể hay của trạng thái chủ thể ”. Cái ngữ nghĩa chung này được hình thành trước hết là nhờ vào ngữ nghĩa của P”.
Ông cũng tiếp tục đi vào tìm hiểu các sắc thái ý nghĩa của vị từ P. “Ở vị trí P chỉ có thể là những vị từ biểu thị ý nghĩa tồn tại hoặc có khả năng có được ý nghĩa này ”.
[x: Lý Toàn Thắng, Bàn thêm về kiểu câu “P- N” trong tiếng Việt, tr:128]
Diệp Quang Ban không xuất phát từ mô hình chung hai thành phần như vậy, mà đưa ra một khuôn hình gồm nhiều thành phần :”thể từ vị trí + vị từ + thể từ ”, từ đó cho ta các kiểu câu đã dẫn trên và những giới hạn cụ thể của thành phần vị từ [DT :Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp, thành phần câu tiếng việt,NXB ĐHQGHN,1998,tr:308]
Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp về cơ bản cũng xuất phát từ một quan niệm gần gũi như vậy khi cho rằng, nòng cốt tồn tại TR( Vt- B là một trong bốn cấu trúc nòng cốt của tiếng Việt. Các tác giả sử dụng quan niệm về câu tồn tại được nhiều người nhắc tới “câu tồn tại cho ta biết rằng, ở một không gian nào đó tồn tại (hoặc không tồn tại) các đối tượng của một lớp nào đó. Thành thử, khác với Lý Toàn Thắng, Diệp Quang Ban cũng như Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp, chỉ nói tới sự tồn tại hoặc không tồn tại của đối tượng ”, mà còn nói đến cả cách thức tồn tại của sự vật.
Khác với các tác giả trên