Hệ tư tưởng Nho giáo được du nhập vào Đất Việt khoảng thế kỉ thứ nhất sau công nguyên, do chính sách đồng hoá người Việt của đế chế Hán trong thời kỳ Bắc thuộc. Với những ưu thế của nó về các quan điểm chính trị, kinh tế và văn hoá giáo dục, hệ tư tưởng này đã dần chiếm được ưu thế trong xã hội của người Việt và trở thành bệ đỡ tư tưởng, tinh thần cho toàn bộ hệ thống chính trị, xã hội, kinh tế, văn hoá, giáo dục của Việt Nam từ thế kỷ XV. Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, trước sự biến đổi to lớn của lịch sử và thời đại, hệ tư tưởng Nho giáo với những bất cập, hạn chế của nó đã không giải quyết được những nhiệm vụ của thời đại, đó là việc tìm vạch ra con đường cứu nước và giải phóng dân tộc cho người Việt. Những nhà nho tiến bộ của Việt Nam sau khi tiếp cận với dòng tư tưởng dân chủ tư sản phương tây qua các Tân thư, Tân báo, đã nhận thức được sự bất cập và những hạn chế của Nho giáo và trước sự đòi hỏi của nhiệm vụ thời đại họ đã tiến hành phê phán hệ tư tưởng Nho giáo.
Tìm hiểu sự phê phán đó là một việc làm bổ ích và khoa học, nó góp phần vào việc nghiên cứu và đánh giá một cách đúng đắn về tiến trình phát triển tư tưởng và nhận thức của người Việt những năm đầu thế XX trong tiến trình lịch sử. Cho đến nay, đã có rất nhiều các công trình khoa học của nhiều học giả trong và ngoài nước tìm hiểu về vấn đề này, tuy nhiên lại chưa có công trình nghiên cứu riêng nào về sự phê phán đó với tư cách là một thực thể, một vấn đề khoa học. Vì thế, chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Tìm hiểu sự phê phán của các nhà nho tiến bộ đối với tư tưởng nho giáo ở Việt Nam đầu thế kỷ XX” làm đề tài nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, chúng tôi cũng biết đây là một đề tài rất khó, muốn đạt được một kết quả nghiên cứu tốt và mang tính khoa học thì người nghiên cứu nó phải làm việc thật sự nghiêm túc, khoa học. Sau một thời gian làm việc và nghiên cứu nghiêm túc, được sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình và khoa học của Thầy giáo, chúng tôi vui mừng công bố kết quả nghiên cứu của mình trước hội đồng khoa học. Nhưng chúng tôi chắc rằng báo cáo của chúng tôi cũng chưa thật sự hoàn mĩ và đạt được kết quả như mong muốn. Chắc chắn trong đó còn có nhiều điều hạn chế và thiếu xót cần được nghiên cứu và bổ sung thêm. Vì thế, chúng tôi mong có được sự quan tâm và giúp đỡ của độc giả để chúng tôi tiếp tục hoàn thiện công trình nghiên cứu của mình.
43 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1734 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu sự phê phán nho giáo của những nhà nho tiến bộ ở Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ xx, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài:
TÌM HIỂU SỰ PHÊ PHÁN NHO GIÁO CỦA NHỮNG NHÀ NHO TIẾN BỘ Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XX.
LỜI GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
Hệ tư tưởng Nho giáo được du nhập vào Đất Việt khoảng thế kỉ thứ nhất sau công nguyên, do chính sách đồng hoá người Việt của đế chế Hán trong thời kỳ Bắc thuộc. Với những ưu thế của nó về các quan điểm chính trị, kinh tế và văn hoá giáo dục, hệ tư tưởng này đã dần chiếm được ưu thế trong xã hội của người Việt và trở thành bệ đỡ tư tưởng, tinh thần cho toàn bộ hệ thống chính trị, xã hội, kinh tế, văn hoá, giáo dục của Việt Nam từ thế kỷ XV. Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, trước sự biến đổi to lớn của lịch sử và thời đại, hệ tư tưởng Nho giáo với những bất cập, hạn chế của nó đã không giải quyết được những nhiệm vụ của thời đại, đó là việc tìm vạch ra con đường cứu nước và giải phóng dân tộc cho người Việt. Những nhà nho tiến bộ của Việt Nam sau khi tiếp cận với dòng tư tưởng dân chủ tư sản phương tây qua các Tân thư, Tân báo, đã nhận thức được sự bất cập và những hạn chế của Nho giáo và trước sự đòi hỏi của nhiệm vụ thời đại họ đã tiến hành phê phán hệ tư tưởng Nho giáo.
Tìm hiểu sự phê phán đó là một việc làm bổ ích và khoa học, nó góp phần vào việc nghiên cứu và đánh giá một cách đúng đắn về tiến trình phát triển tư tưởng và nhận thức của người Việt những năm đầu thế XX trong tiến trình lịch sử. Cho đến nay, đã có rất nhiều các công trình khoa học của nhiều học giả trong và ngoài nước tìm hiểu về vấn đề này, tuy nhiên lại chưa có công trình nghiên cứu riêng nào về sự phê phán đó với tư cách là một thực thể, một vấn đề khoa học. Vì thế, chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Tìm hiểu sự phê phán của các nhà nho tiến bộ đối với tư tưởng nho giáo ở Việt Nam đầu thế kỷ XX” làm đề tài nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, chúng tôi cũng biết đây là một đề tài rất khó, muốn đạt được một kết quả nghiên cứu tốt và mang tính khoa học thì người nghiên cứu nó phải làm việc thật sự nghiêm túc, khoa học. Sau một thời gian làm việc và nghiên cứu nghiêm túc, được sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình và khoa học của Thầy giáo, chúng tôi vui mừng công bố kết quả nghiên cứu của mình trước hội đồng khoa học. Nhưng chúng tôi chắc rằng báo cáo của chúng tôi cũng chưa thật sự hoàn mĩ và đạt được kết quả như mong muốn. Chắc chắn trong đó còn có nhiều điều hạn chế và thiếu xót cần được nghiên cứu và bổ sung thêm. Vì thế, chúng tôi mong có được sự quan tâm và giúp đỡ của độc giả để chúng tôi tiếp tục hoàn thiện công trình nghiên cứu của mình.
Trong quá trình thực hiện đề tài, ngoài sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của Thầy giáo, chúng tôi còn nhận được sự giúp đỡ và đóng góp ý kiến cùng nhiều Thầy, Cô giáo và bạn bè trong ngoài khoa, nhân đây, qua bài báo cáo này chúng tôi xin gửi lời cám ơn chân thành nhất tới sự hướng dẫn và giúp đỡ đó.
A. Sơ lược về lịch sử phát triển Nho giáo ở Việt Nam
Hệ tư tưởng Nho giáo được du nhập vào Việt Nam khoảng thế kỷ thứ nhất đầu công nguyên, do chính sách đồng hoá người Việt của người Hán. Những người được coi là khởi đầu cho việc truyền bá đạo Nho vào Việt Nam là hai viên Thái thú Nhâm Diên và Tích Quang thời Tây Hán và sau đó là Sĩ Nhiếp thời Đông Hán, sách Đại Việt sử ký toàn thư còn ghi lại những hoạt động của họ như sau: “Tích Quang người quận Hán Trung, khi ở Giao Chỉ, lấy lễ nghĩa dạy dân. Lại lấy Nhâm Diên làm Thái thú Cửu Chân. Diên là người Uyển. Tục người Cửu Chân chỉ làm nghề đánh cá, đi săn, không biết cày cấy. Diên mới dạy dân khai khẩn ruộng đất, hàng năm cày trồng, trăm họ no đủ. Dân nghèo không sính lễ cưới vợ, Diên bảo các trưởng lại trở xuống bớt bổng lộc ra để giúp đỡ, cùng một lúc lấy vợ có đến 2.000 người”1. Và lời đánh giá của Tiết tổng Tiết Kính Văn đời Ngô (năm 231 sau công nguyên) về những hoạt động đó như sau: “đến khi Tích Quang làm Thái thú Giao Chỉ, Nhâm Diên làm thái thú Cửu Chân, dựng nhà học, dẫn dắt bằng lễ nghĩa. Từ đấy trở đi, hơn 400 năm, dân tựa hồ đã có quy củ”2.
Tuy nhiên, Nho giáo trong thời kỳ Bắc thuộc và thậm chí là trong khoảng hai thế kỷ sau Bắc thuộc chưa thực sự chiếm lĩnh được địa vị độc tôn, để có thể chi phối mọi hoạt động về đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá của người Việt. Hệ tư tưởng Nho giáo chỉ thực sự bắt đầu chiếm lĩnh được vị thế trong đời sống văn hoá xã hội cuả người Việt khi nhà Trần nên nắm quyền cai trị đất nước. Song ở trong giai đoạn cai trị của nhà Trần, hệ tư tưởng Nho giáo cũng chưa thực sự chiếm lĩnh được vị thế hàng đầu, nhiều tài liệu về thời kỳ này cho thấy, lúc này những ảnh hưởng của đạo Phật còn khá lớn mạnh và nó chi phối rất nhiều tới các mặt chính trị, kinh tế, xã hội và văn hoá của người Việt. Có điều đó là vì đạo Phật có nhiều điểm tương đồng hay phù hợp với nền văn hoá truyền thống của người Việt. Mặt khác, đây còn là thời kỳ mà chế độ phong kiến mới được thiết lập trên đất Việt, nó chưa đủ hoàn thiện để trở thành một chế độ quân chủ chuyên chế vững mạnh như ở thời đại của vương triều Lê được thiết lập sau đó (thế kỷ XV). Như vậy, có thể nói cho đến cuối thế kỷ XIV và khoảng một thập kỷ đầu của thế kỷ XV, hệ tư tưởng Nho giáo vẫn chưa thực sự nắm được vị trí đứng đầu để có thể chi phối các hoạt động chính trị, kinh tế, và văn hoá xã hội của người Việt. Hay nói cách khác là vào lúc này, hệ tư tưởng Nho giáo còn phải tranh giành ảnh hưởng với với các dòng tư tưởng khác như: Phật Giáo, Đạo Giáo, Lão Giáo... Hệ tư tưởng Nho giáo chỉ thực sự chiếm được địa vị độc tôn khi mà vương triều Lê được thiết lập vào năm 1427.
Hệ tư tưởng Nho giáo có thể chiếm lĩnh được địa vị độc tôn và trở thành bệ đỡ tư tưởng, tinh thần cho toàn bộ hệ thống chính trị, kinh tế, và văn hoá, xã hội của Việt Nam là vì, vào cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV chế độ phong kiến vừa mới thiết lập ở Việt Nam đã bắt đầu đi vào khủng hoảng, dẫn tới sự tan rã của chính quyền trung ương, một lần nữa đất nước ta lại rơi vào tay của người Hán. Sự hưng thịnh buổi đầu của chế độ phong kiến Việt Nam đã chấm dứt, nó đặt ra câu hỏi mà những người con ưu tú của đất Việt thời kỳ đó phải trả lời là: Tại sao chúng ta lại mất nước? Làm thế nào để giải phóng dân tộc? Làm thế nào để có thể duy trì được nền độc lập dân tộc và thống nhất nước nhà? Những câu hỏi lớn đó đã được đặt ra và nó dẫn tới cuộc đấu tranh về mặt tư tưởng trong thập kỷ đầu của thế kỷ XV và cuối cùng thì những nhà tư tưởng thời kỳ này đã chọn hệ tư tưởng Nho Giáo làm bệ đỡ tư tưởng và tinh thần cho việc hoạch định ra đường lối cứu nước, mà những người đại diện có thể kể tới là Nguyễn Trãi, Lê Lợi... Đó là lý do để sau đó Nho giáo đã chiếm lĩnh được địa vị độc tôn và chi phối hệ thống chính trị, kinh tế và văn hoá, xã hội của người Việt. Người Việt đã tìm ra được những ưu điểm của hệ tư tưởng Nho giáo để áp dụng vào công cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng, bảo vệ tổ quốc. Những chuẩn mực của đạo Nho cũng từ đó được đề cao và áp dụng vào trong mọi sinh hoạt của đời sống xã hội của người Việt trong suốt những thế kỷ sau đó.
Có thể nói, kể từ khi được du nhập vào đất Việt cho đến khi trở thành hệ tư tưởng chính thống của Người Việt, Nho giáo đã có những cống hiến to lớn cho việc phát triển văn hoá của người Việt. Việc hình thành nên hệ thống chữ viết và hệ thống giáo dục là những đóng góp của hệ tư tưởng Nho giáo. Ngoài ra, những tư tưởng về đạo đức, về lối sống cũng là những đóng góp to lớn của đạo Nho cho nền văn hoá Việt. Song Nho giáo chỉ thực sự phát triển đến đỉnh cao của nó khi mà nhà Nguyễn nắm quyền cai trị đất nước vào thế kỷ XIX. Ở thời kỳ này, mọi chuẩn mực, phép tắc của Nho giáo đều đã được hoàn thiện.
Tuy nhiên, cũng ngay từ khi Nho giáo được truyền bá vào Việt Nam thì nó cũng đã bộc lộ ra những hạn chế, đặc biệt là lối học tầm chương, trích cú đã hạn chế sự sáng tạo của người học. Nhân dân ta đã nhận ra điểm hạn chế đó của đạo Nho và nên tiêng phê phán nó, những bài ca dao như:
“Ai ơi chớ lấy học trò,
Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm.
Ban ngày cắp sách đi rong
Tối về lại đốt đèn trong tốn dầu”.
Rồi những câu tục ngữ, ca dao như: “Sĩ, nông, công, thương, Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ” đều nhằm vào mục đích phê phán đó. Ngoài ra, chúng ta còn thấy được sự phê phán khá nghiêm túc và sâu cay các trí thức nho học qua thơ Hồ Xuân Hương như:
“Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ,
Lại đây cho chị dạy làm thơ.
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa,
Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa”.
Nhưng sự phê phán một cách có ý thức, có khoa học và có hệ thống thì phải đến cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX với cuốn sách “Vũ trung tuỳ bút” của Phạm Đình Hổ. Với “Vũ trung tuỳ bút”, Phạm Đình Hổ đã phê phán học thuyết nho giáo về học thuật, về phong cách của nhà nho và văn hoá, giáo dục, tuy rằng nó chưa thực sự sâu sắc.
Về học thuật ông viết: “Đời nay những kẻ học lỏm được mấy câu mép, nào có quan hệ gì đến đạo tu, tề, trị, bình, thế mà đã ngàng nhiên tự đắc”1; về lối chữ viết thì: “Còn những giấy tờ ở chốn cửa công thì dùng riêng một lối chữ “nam”, lúc đầu là phòng dân giả mạo, mới theo hoa văn mà đặt ra một lối chữ việc quan... Song những cách giả dối là bởi những kẻ nho lại làm ra, càng ngày càng tệ”2; về cốt cách nhà nho: “Ta nghe chuyện trên này, lấy làm quái lạ... Ôi! Người đời, những kẻ mũ cao áo dài, đứng ngồi chững chạc, mồm vẫn đọc sách thành hiền, vẫn chen nhau trong hàng mũ áo, ngày thường vô sự vẫn tự nhận là bậc đạo học, tự đắc là bậc danh giáo; gặp phải sự biến, một mất một còn, một sống một chết, thì thường tiến thoái hồ đồ, mất cả sở cứ”3; về phép tắc thi cử: “ đời Lê trung hưng, phép thi rất nghiêm. Nhưng con nhà hát xướng không được thi. Lộc khê Đào duy Từ dẫu tài giỏi, văn chương hay, thi hội đã trúng cách, chỉ vì là con nhà hát xướng mà phải tước tịch không được đỗ... Về sau, chính thể càng ngày càng đồi bại mới có kẻ làm gian được”4 và “Từ đời Lê trung hưng trở về sau, thi đình bài chế sách, thi hội, thi hương, cũng toàn thi văn chương cả. Nhưng kẻ nho sĩ xu thời chỉ biện bác lém lỉnh mấy câu đầu. Cách thi cử như thế làm sai mất cả cái ý “lâm hiền sách sĩ” của đời xưa”5; về thể văn kinh nghĩa: “Trong bài văn, cứ phải theo nghĩa đại chú mà làm, chứ không được cầu kỳ làm mới ra. Vì vậy học trò chỉ chuyên chú học chú thích, nhớ lấy lễ nghĩa là đủ. Đó không phải là cái chế độ minh kinh thí sĩ của người đời xưa. Về sau này lại cứ quen dùng đầu bài cũ, học thuộc lòng lối văn cũ là được, nên càng ngày càng sai lạc mãi đi”6.
Sự phê phán đó của Phạm Đình Hổ vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, một giai đoạn được coi là phát triển thịnh đạt của Nho giáo đã cho thấy, rõ ràng là hệ tư tưởng Nho giáo đã có những hạn chế, bất cập trước thời đại và lịch sử. Sự phê phán đạo Nho còn tiếp tục được tiến hành trong suốt thế kỷ XIX, nhất là sau khi thực dân Pháp nổ tiếng súng đầu tiên xâm lược nước ta năm 1858 và sự thất bại của cuộc kháng chiến chống Pháp do triều đình phong kiến thực hiện, mà những người tiêu biểu có thể kể tới như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch với việc dâng các bản điều trần lên triều đình phong kiến. Tuy nhiên, ở vào những thời điểm đó, sự phê phán Nho giáo còn chưa lôi kéo được đông đảo giới trí thức nho học trong nước, những hạn chế của đạo nho cũng chưa bộc lộ ra một cách rõ nét nhất, chỉ đến khi đất nước ta rơi vào tay thực dân Pháp và phong trào kháng Pháp, đặc biệt là “Phong trào Cần Vương” do những chí sĩ nho giáo yêu nước tổ chức bị thất bại, thì những hạn chế đó mới thật sự rõ nét và những nhà nho tiến bộ cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỷ XX đã nhận ra nó. Do vậy mà họ đã tiến hành đánh giá và phê phán học thuyết Nho giáo, nhằm mục đích thức tỉnh giai cấp và dân tộc, mà tiếng kêu ai oán của “ông đồ mù” Nguyễn Đình Chiểu có thể nói là phát súng đầu tiên khai màn cho công cuộc đó:
“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này”1.
B. Nội dung sự phê phán Nho Giáo của những nhà nho tiến bộ ở Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX
1. Sự phê phán Nho Giáo với tư cách là một học thuyết
Với tư cách là một học thuyết, một trường phái tư tưởng của phương Đông, sau khi du nhập vào Việt Nam, học thuyết Nho giáo đã có những đóng góp nhất định cho việc ổn định và phát triển nền văn hoá, xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, đến thế kỷ XIX, đứng trước tiếng súng xâm lăng của thực dân Pháp, học thuyết Nho giáo và những lý luận của nó đã tỏ ra bất cập, không giải quyết được những nhiệm vụ của thời đại và lịch sử đặt ra, đó là việc tìm vạch ra được một con đường cứu nước và giải phóng dân tộc đúng đắn cho người Việt.
Đất nước rơi vào tay thực dân Pháp, phong trào Cần Vương do những sĩ phu yêu nước cuối thế kỷ XIX tiến hành bị thất bại đã như những gáo nước lạnh dội vào bầu nhiệt huyết và tinh thần yêu nước của giới trí thức nho học của Việt Nam. Những câu hỏi lớn của thời đại và lịch sử đươc đặt ra cho giới trí thức nho học yêu nước như: Tại sao chúng ta lại mất nước? Và tại sao chúng ta lại thất bại? Song chỉ dựa vào những quan điểm, lý luận của đạo nho thì những trí thức nho học yêu nước thời bấy không thể lý giải được. Trong khi đó, dòng tư tưởng mới dân chủ tư sản của phương Tây được du nhập vào Việt Nam, do quá trình xâm chiếm và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, và qua các tác phẩm lý luận, các bài văn, bài báo của các học giả như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, Đàm Tự Đồng (Trung Quốc) và Thỉ Dã Long Khê, Sài Tứ Lang, Mạt Quản Thiết Trường ( Nhật Bản), với những lý luận, quan điểm tiến bộ hơn hẳn so với học thuyết Nho giáo về các vấn đề chính trị, tư tưởng, và văn hoá, giáo dục kinh tế, đã có những tác động, ảnh hưởng không nhỏ tới giới trí thức nho giáo Việt Nam. Mặt khác, sự lớn mạnh hơn hẳn về mọi mặt của các nước tư bản thực dân phương Tây, sự hưng khởi của Nhật Bản, một nước phương Đông, nhờ đi theo con đường tư bản chủ nghĩa đã thoát khỏi sự xâm lược của các nước thực dân tư bản phương Tây là những động lực thúc đẩy những nhà nho yêu nước tiến bộ đến với dòng tư tưởng dân chủ tư sản, và họ đã tiếp nhận dòng tư tưởng mới này mặc dù là nó được du nhập vào Việt Nam một cách gián tiếp, không đầy đủ, toàn vẹn.
Tận mắt chứng kiến sự thất bại của các phong trào yêu nước, lại chịu ảnh của tư tưởng dân chủ tư sản, những trí thức nho học đã thức tỉnh và họ coi học thuyết Nho giáo, thứ học thuyết mà bấy lâu nay họ vẫn miệt mài theo học, nghiền ngẫm là nguyên nhân dẫn tới việc mất nước. Phan Chu Trinh trong Thư gửi toàn quyền Đông Dương viết: “Nước Nam ta bấy lâu nay học thuyết sai lầm, phong tục hư hỏng, không có liêm sỉ, không có kiến thức”1. Còn như trong tác phẩm Tối tân thời tà khí ca, tác giả của nó viết:
“Mắng chửi sao đáng kể.
Tộc loại nhờ nó mất,
Cừu địch nhờ nó vinh.
Tam cương thảy đổ nát,
Đạo nghĩa nhổ sạch không.
....................
Trời đất có tà khí,
Phú thành vật nhiêu hình.
Dưới thì là cứt đái,
Trên thì là cẩu tinh.
Với người là nô tính,
Mờ mịt lấp biển xanh.”1
Hoặc giả như cụ Phan Bội Châu trong tác phẩm Sùng bái giai nhân viết: “... Từ khi đạo học của thành hiền không sáng, nhân tài không như xưa, khí lực đã hèn, óc lão lại mỏng. Vua không biết nuôi dưỡng, thầy không biết dạy bảo. Vì thế mà người đời như một hình gỗ, một tượng đất,...Thi thư trở thành cái làm cho người ta ngu dốt? Trung hiếu là vật gây nên mọi tai quái?”2. Rồi ông tỏ ra hối hận khi đã theo học đạo nho, cho đó là: “Đáng tiếc là hồi đó mình chỉ vùi đầu vào lối hư văn khoa cử”3. Chính vì thế, họ – những trí thức nho học đã tiến hành phê phán học thuyết Nho giáo và dòng tư tưởng dân chủ tư sản đã trang bị cho họ những cơ sở lý luận để họ tiến hành phê phán học thuyết Nho giáo đến tận gốc rễ của nó. Nó được thể hiện qua những tác phẩm, những bài viết của những nhà nho tiến bộ đầu thế kỷ XX để cổ động cho các phong trào yêu nước và văn hoá như: Đông du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân...
Thông qua lăng kính của sự soi rọi bằng những lý luận của tư tưởng dân chủ tư sản, các nhà nho tiến bộ đã tiến hành phê phán sự bảo thủ, trì trệ và hủ lậu của học thuyết Nho giáo về mặt tư tưởng, về các quan điểm chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và giáo dục.
- Phê phán về mặt tư tưởng Nho giáo:
Trước hết, các nhà nho tiến bộ đã phê phán, đả phá tư tưởng thiên mệnh trong học thuyết Nho giáo. Thiên mệnh có nghĩa là duy tâm, là tin vào mệnh trời. Học thuyết Nho giáo cho rằng mọi hoạt động của con người đều do trời sắp đặt, chi phối do vậy sự việc của con người thành hay bại đều là do trời quyết định. Vì thế, mất nước cũng là do mệnh trời. Đó là quan điểm của những nhà Tống nho Trung Quốc khi họ đưa ra cái thuyết thiên nhân cảm ứng, và nó đã được các nhà nho Việt Nam tiếp nhận để lý giải cho những sự vật, hiện tượng xảy ra trong lịch sử mà học thuyết nho giáo không thể giải thích được do cái tư tưởng coi xưa là phải nay là quấy và chỉ chúi mũi vào học những lời dạy của cổ nhân với những nhận thức xưa cũ không thức thời. Những nhà nho tiến bộ đầu thế kỷ đã nhận ra sự sai lầm của cái thuyết thiên mệnh đó, họ cho rằng chính cái thuyết thiên mệnh duy tâm, tin vào mệnh trời đã làm hủ hoá con người, cản trở sự phát triển nhận thức của con người, làm cho người ta dễ bằng lòng với thực tại của cuộc sống mà mất đi phương hướng trong hành động; rằng nó là cái thuyết tai hại làm cho người ta trở nên ươn hèn, bảo thủ mà không chịu học hỏi cái mới, không phát huy được khả năng sáng tạo của mình: “Ngày nay, chỉ riêng cái thuyết mệnh trời cũng đã đủ làm cho dân ta bị trở ngại. Mệnh là cái không đến mà lại đến. Người quân tử tri mệnh là biết không thể tránh được điều hại, không thể hưởng được điều lợi, nhưng cái đáng làm thì cứ làm. Cho nên tri mệnh là để khuyên lập chí, dẫu biết rằng người không có trí thì khi gặp việc là cầu khấn trời giúp cho, hỏng việc thì lại đổ cho trời làm hại! Cho nên, nước yếu thì không quy trách nhiệm cho chính sự tồi tệ, quốc dân bất tài, mà lại cứ nói vận số không phải do con người quyết định. Lụt lội hạn hán thì không trách cứ là không có kế hoạch tiêu nước kịp thời, không phòng ngừa đói kém, mà lại nói thiên tai không phải do người gây nên... Than ôi! sao lại có những cách nói tự hại mình đến thế? Sức người không làm được mà đổ tội cho trời, trời có nhận tội đâu”1.
Thứ đến là những nhà nho tiến bộ đã phê phán cái tư tưởng nội hạ ngoại di, vì nếu như thuyết thiên mệnh là sự cản trở sự phát triển của nhận thức, thì cái tư tưởng “nội hạ ngoại di” trọng mình khinh người trong học thuyết Nho giáo còn tai hại hơn. Nó làm cho người ta chỉ coi trọng bản thân, tự đề cao bản thân mà coi thường người khác, mà không chịu học hỏi. Đây là sản phẩm của quá trình tranh giành địa vị độc tôn của Nho giáo với các tôn giáo khác, muốn nắm được địa vị độc tôn thì phải đề cao cái đạo của mình, phải tỏ ra cái đạo của mình là cao quý để hạ thấp địa vị của các tôn giáo khác. Vì thế, khi mà Nho giáo đã nắm được địa vị độc tôn, trở thành đạo cao quý, thì đương nhiên những đệ tử của học thuyết Nho giáo cũng là những người cao quý, kẻ cả, được coi trọng trong xã hội. Do vậy mà họ nhiễm cái thói vênh váo, tự cao, tự đại coi khinh hết thảy những người khác, coi khinh hết thảy những học thuyết của những tôn giáo khác, mà không chịu học hỏi những điều tiến bộ. Đó là cái tư tưởng làm cho con người ta trở nên ngu dốt, kém cỏi. Những nhà nho tiến bộ đã nhận ra rằng ngày nay “không thể như trăm năm trước nữa, cứ đóng cửa mà trị dân, dù không tiến bộ cũng có thể ngồi mà giữ nước”2 và trong Văn minh tân học sách, họ đã phê phán cái tư tưởng nội hạ ngoại di của học thuyết Nho giáo như sau: “Kìa xem những kẻ ham mê đàn sáo, đầu hồ, bài lá, cờ tướng, đố thư, đánh chữ, số, tướng, địa lý, phù thuỷ, ngày ngày dốc cả trí không vào những thứ vô dụng, sống say chết mộng, thì chả kể làm gì. Nhưng hạng cao hơn, đỗ đạt lên một tí, được cái tiếng quèn, đã vội khủng khỉnh ta đây là kẻ cả, tự xưng là bậc giữ gìn thế đạo, ngày ngày khoe câu văn hay, khư khư ngồi giữ những thuyết hủ lậu, khinh bỉ hết thảy học mới văn minh! Hạng thua kém nữa thì chỉ có nghe vấn đề thăng quan lên bậc mấy, cất nhắc mấy người, chứ không hề biết đến vấn đề nào khác! Có một ông nào đó đã nói với các bạn hậu tiến: “Các thầy muốn ra làm quan, thì phải cẩn thận: chớ có đọc sách mới, xem báo mới”. Ôi, nếu không biết đến sách báo mới thì thôi, chứ đã biế