Xu thế hội nhập kinh tế thế giới ngày càng sâu rộng như hiện nay đã đặt nền kinh tế nước ta trước nhiều cơ hội và không ít thử thách. Yêu cầu đặt ra là cần phải đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.Để thực hiện được nhiệm vụ đó cần phải có các điều kiện về cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội phát triển. Trong điều kiện nền kinh tế của đất nước còn nhiều khó khăn, ngân sách nhà nước hạn hẹp thì hình thức tín dụng đầu tư phát triển tỏ ra rất ưu việt trong việc huy động và quản lý nguồn lực của nhà nước cho đầu tư phát triển.
69 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1389 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tín dụng đầu tư phát triển nhà nước thực trạng và mốt số giải giáp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Xu thế hội nhập kinh tế thế giới ngày càng sâu rộng như hiện nay đã đặt nền kinh tế nước ta trước nhiều cơ hội và không ít thử thách. Yêu cầu đặt ra là cần phải đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.Để thực hiện được nhiệm vụ đó cần phải có các điều kiện về cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội phát triển. Trong điều kiện nền kinh tế của đất nước còn nhiều khó khăn, ngân sách nhà nước hạn hẹp thì hình thức tín dụng đầu tư phát triển tỏ ra rất ưu việt trong việc huy động và quản lý nguồn lực của nhà nước cho đầu tư phát triển.
Thông qua hình thức tín dụng đầu tư phát triển nguồn vốn huy động cho đầu tư phát triển đa dạng hơn, bền vững hơn không những từ nguồn vốn ngân sách mà còn thu hút được một khối lượng lớn vốn nhàn rỗi trong xã hội.
Là công cụ điều tiết vĩ mô của Chính phủ đối với nền kinh tế hoạt động tín dụng đã quản lý và sử dụng nguồn vốn ưu đãi hiệu quả hơn, phù hợp với các ưu tiên phát triển của đất nước trong từng thời kỳ, góp phần phát triển cân đối nền kinh tế.
Hoạt động tín dụng đầu tư mới thực sự được thực hiện ở Việt Nam từ năm 1990 tuy cũng đã có những đóng góp đáng kể vào sự nghiệp phát triển đất nước nhưng vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định, chưa thực sự phát huy tốt là công cụ chính sách của nhà nước.
Tiếp tục thực hiện chủ trương phát huy nội lực để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa đất nước, hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới khi Việt Nam chính thức là thành viên của WTO hoạt động tín dụng nhà nước đã có những bước chuyển hợp lý hơn với thực tiễn.
Xuất phát từ những lý do đó việc nghiên cứu đề tài: “Tín dụng đầu tư phát triển nhà nước thực trạng và mốt số giải giáp” là cần thiết để có những giải pháp tăng cường hoạt động tín dụng đầu tư phát triển cho phù hợp với các thông lệ quốc tế về giảm trợ cấp; phát huy hơn nữa vai trò của hoạt động này đối với sự phát triển kinh tế, xã hội.
CHƯƠNG I: VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
TRONG NỀN KINH TẾ.
I. Một số vấn đề cơ bản về tín dụng tín dụng đầu tư phát triển
1. Khái niệm tín dụng đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển (ĐTPT) là hình thức đầu tư nhằm nâng cao năng lực sản xuất hiện có và tạo ra năng lực sản xuất mới. Đây là tiền đề để thực hiện quá trình tái sản xuất mở rộng, ứng dụng công nghệ tiên tiến, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Ý nghĩa quyết định của đầu tư phát triển là góp phần quan trọng làm thay đổi cơ cấu kinh tế - xã hội của đất nước. Nói cách khác, đầu tư phát triển thúc đẩy tăng trưởng kinh tế song song với thay đổi cơ cấu kinh tế - xã hội.
Để đáp ứng được nhu cầu đầu tư phát triển, các quốc gia phải có nguồn vốn đầu tư phát triển thông qua tích lũy vốn trong và ngoài nước. Vốn đầu tư phát triển là nguồn vốn không thể thiếu trong nền kinh tế. Nguồn vốn đầu tư phát triển lớn hay nhỏ quyết định quy mô và tốc độ phát triển của nền kinh tế. Một nền kinh tế không có nguồn vốn đầu tư phát triển hoặc nguồn vốn này còn nhỏ bé thì chỉ có thể thực hiện tái sản xuất giản đơn bằng nguồn vốn khấu hao cơ bản hàng năm mà không thực hiện được tái sản xuất mở rộng, không thể áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và do đó không thể đạt được sự tăng trưởng và phát triển cao. Vì vậy các quốc gia luôn muốn có được nguồn vốn đầu tư phát triển có quy mô lớn, lâu dài và ổn định. Nguồn vốn này hình thành bởi vốn đầu tư phát triển của tất cả các thành phần kinh tế xã hội, bao gồm: vốn đầu tư phát triển của Nhà nước, của doanh nghiệp, vốn nhàn rỗi của các tổ chức dân cư trong nước và vốn đầu tư của các cá nhân tổ chức nước ngoài. Do đó chính phủ các nước cần có chiến lược đầu tư thích hợp, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư đặc biệt là đầu tư của tư nhân.
Với các dự án đầu tư phát triển thuộc một số ngành, lĩnh vực quan trọng, tác động trực tiếp đến tăng trưởng và phát triển kinh tế thì Chính phủ phải hỗ trợ dưới các hình thức khác nhau như: cấp vốn ngân sách trực tiếp cho các dự án đầu tư theo định hướng phát triển của chính phủ, mở rộng tín dụng cho các doanh nghiệp với lãi suất ưu đãi, hay các điều kiện ưu đãi khác ngoài lãi suất như ưu đãi về thời hạn tín dụng, về thuế …
Tuy nhiên trong điều kiện Ngân sách của Nhà nước còn hạn hẹp và để việc hỗ trợ đầu tư mang tính hiệu quả và lâu dài, các quốc gia thường thực hiện hỗ trợ đầu tư thông qua hình thức tín dụng. Đó là tín dụng ĐTPT Nhà nước.
Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là hình thức tín dụng Nhà nước nhằm thực hiện mục tiêu đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước, là quan hệ vay – trả giữa Nhà nước và các pháp nhân, thể nhân trong xã hội, được Nhà nước quy định với các ưu đãi nhất định, nhằm thực hiện mục tiêu thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển theo định hướng của Nhà nước.
Mục đích của tín dụng ĐTPT Nhà nước là hỗ trợ các dự án đầu tư phát triển một số ngành, lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tế lớn có tác động trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
Tín dụng ĐTPT của Nhà nước được coi là một công cụ kinh tế vĩ mô quan trọng giúp Nhà nước can thiệp vào thị trường, thúc đẩy đầu tư phát triển theo định hướng chính sách của Nhà nước với chức năng chủ yếu là phân phối lại nguồn vốn đầu tư phát triển nhằm thỏa mãn nhu cầu đầu tư theo kế hoạch, định hướng của Nhà nước. Công cụ này được nhiều nước sử dụng thời kỳ khôi phục kinh tế đất nước sau chiến tranh hoặc trong thời kỳ công nghiệp hóa đất nước, đặc biệt là các nước đang phát triển, khi nhu cầu đầu tư của toàn xã hội rất lớn nhưng khu vực kinh tế tư nhân còn non yếu, chưa có khả năng đáp ứng nhu cầu đó.
2. Đối tượng của tín dụng ĐTPT Nhà nước.
Đối tượng của tín dụng ĐTPT mang tính đặc trưng về không gian và thời gian. Nó phụ thuộc vào các chính sách phát triển cũng như chiến lược công nghiệp hóa của mỗi quốc gia. Mỗi quốc gia theo đuổi chính sách công nghiệp hóa, theo hướng thay thế nhập khẩu sẽ có xác định đối tượng ưu tiên của tín dụng ĐTPT khác với quốc gia thực hiện công nghiệp hóa theo hướng xuất khẩu. Tuy nhiên phần lớn chiến lược công nghiệp hóa của quốc gia, cụ thể là các quốc gia đang phát triển ở Đông Á là công nghiệp hóa hướng vào xuất khẩu, vì vậy đối tượng của tín dụng ĐTPT chủ yếu là các dự án thuộc các ngành công nghiệp mũi nhọn, ngành công nghiệp công nghệ cao, các dự án phát triển cơ sở hạ tầng ( giao thông, năng lượng, … ) các dự án và phát triển vùng nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu …
Đối tượng của tín dụng ĐTPT chỉ mang tính tương đối, nó sẽ thay đổi khi chiến lược, kế hoạch phát triển cũng như hoàn cảnh kinh tế đất nước thay đổi. Một ngành, một lĩnh vực sau một thời gian được ưu tiên khuyến khích phát triển đã đủ khả năng hấp dẫn đầu tư của tư nhân và đầu tư của nước ngoài sẽ không còn là đối tượng được ưu tiên nữa, thay vào đó là các ngành, các khu vực khác cần sự ưu đãi nhất định để khuyến khích phát triển. Do đó, không có một quy định bắt buộc nào về đối tượng ưu tiên của tín dụng ĐTPT. Song đối tượng của tín dụng ĐTPT phải xuất phát từ mục đích của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Vốn đầu tư phát triển của Nhà nước phải là vốn mời khuyến khích các thành phần kinh tế khác phát huy năng lực, tham gia đầu tư vào các ngành kinh tế mũi nhọn, phát huy lợi thế so sánh của nền kinh tế, đồng thời tín dụng ĐTPT phải thực hiện đựoc mục tiêu công bằng xã hội, tạo ra sự phát triển đồng đều giữa các vùng miền. Do đó, đối tượng vay vốn tín dụng ĐTPT không chỉ tập trung vào các khu vực có khả năng phát triển, các chương trình kinh tế trọng điểm mà còn có các khu vực có điều kiện kinh tế khó khăn, vùng kém phát triển. Đối tượngv ay vốn cũng phải có tác dụng tạo đà, lôi kéo các ngành nghề, vùng, lĩnh vực khác phát triển.
Việc lựa chọn đối tượng vay vốn tín dụng ĐTPT có ý nghĩa quan trọng trong việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển nên cần được tiến hành một cách khoa học trên cơ sở kế hoạch và chiến lược phát triển kinh tê – xã hội trong một thời kỳ dài, điều này tạo sự ổn định trong hoạt động đầu tư, nâng cao hiệu quả trong sử dụng nguồn vốn tín dụng ĐTPT.
3. Nguồn vốn của tín dụng ĐTPT Nhà nước
Nguồn vốn tín dụng ĐTPT không chỉ có nguồn vốn Ngân sách nhà nước dành cho đầu tư phát triển mà còn bao gồm cả nguồn vốn nhàn rỗi của cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước dùng để ĐTPT
Với tư cách là “ bàn tay hữu hình”, Nhà nước can thiệp vào hoạt động ĐTPT để điều tiết và định hướng đầu tư theo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Một yếu tố quan trọng và đã trở thành lợi thế trong việc huy động vốn cho tín dụng ĐTPT là Nhà nước dùng uy tín của mình để đảm bảo việc hoàn trả vốn, do đó có thể thu hút được các nguồn đầu tư phát triển trong và ngoài nước với thời gian dài. Tại các nước đang phát triển, lý do quan trọng làm suy yếu nguồn tiết kiệm trung và dài hạn của dân cư không phải là lãi suất không hấp dẫn mà là sự rủi ro của hệ thống tài chính và sự không ổn định của môi trường vĩ mô. Bằng việc đảm bảo khả năng thanh toán cho tổ chức thực hiện tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, cùng với cam kết duy trì môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, Nhà nước có thể thu hút được một lượng vốn trung và dài hạn trong xã hôi dành cho ĐTPT.
4. Hình thức của tín dụng ĐTPT Nhà nước.
+ Trực tiếp: Chính phủ đầu tư trực tiếp hoặc cho vay với các điều kiện ưu đãi ( lãi suất, thời hạn, các điều kiện đảm bảo khác … ) đối với các dự án thuộc lĩnh vực ưu tiên. Ngoài ra, Chính phủ có thể bảo lãnh cho các doanh nghiệp, cá nhân vay vốn của các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước.
+ Gián tiếp: Chính phủ cung cấp các dịch vụ miễn phí hoặc mức phí thấp cho doanh nghiệp, cá nhân như các thông tin về thị trường trong và ngoài nước, nghiên cứu thị trường theo yêu cầu của doanh nghiệp …
Hoạt động tín dụng ĐTPT không nhằm mục tiêu lợi nhuận nhưng phải đảm bảo thu hồi đủ vốn và bù đắp chi phí hoạt động. Tín dụng ĐTPT không chỉ đề cao hiệu quả kinh tế, khả năng sinh lời của dự án đầu tư mà còn xem xét đến những tác động của dự án đối với việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, những lợi ích mà xã hội thu được từ dự án.
5. Tổ chức thực hiện.
Nhận thức được vai trò to lớn của sự can thiệp của Chính phủ vào cơ chế tài chính cũng như tầm quan trọng của tín dụng ĐTPT Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, rất nhiều quốc gia đã thành lập các tổ chức tài chính phát triển ( The development financial institution – DFI ) để thực hiện hoạt động tín dụng ĐTPT Nhà nước và các tổ chức này đã đóng góp nhiều vào sự phát triển của ngành công nghiệp thông qua việc cung cấp các khoản tín dụng trung và dài hạn cho các ngành công nghiệp.
Chính sách tín dụng ĐTPT mang tính đặc trưng về thời gian và địa điểm nên được thực hiện bởi các tổ chức khác nhau và dưới các hình thức khác nhau tùy thuộc vào chính sách phát triển cũng như điều kiện kinh tế xã hội của các quốc gia. Các tổ chức thực hiện hoạt động tín dụng ĐTPT Nhà nước ở các quốc gia bao gồm: Ngân hàng công nghiệp, ngân hàng đầu tư, các quỹ hỗ trợ, kho bạc nhà nước, ngân hàng phát triển( NHPT) … trong đó mô hình NHPT đã ra đời và phát triển trong gần một thế kỷ qua tại nhiều nước trên thế giới và đã chứng tỏ được tính ưu việt của nó trong hoạt động tín dụng ĐTPT.
Các tổ chức tài chính phát triển được coi là công cụ đặc biệt quan trọng của Chính phủ để thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế phù hợp. Nhiệm vụ của các tổ chức này nhằm cung cấp tín dụng cho các lĩnh vực khuyến khích đầu tư, lĩnh vực xuất nhập khẩu và lĩnh vực phát triển nông thôn.
Mục đích thành lập tổ chức này là phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế của đất nước trong từng thời kỳ. Các hoạt động của tổ chức này chủ yếu tập trung hỗ trợ vào các lĩnh vực trọng điểm, các ngành then chốt, có vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy phát triển nền kinh tế quốc dân.
Trong quá trình hoạt động các tổ chức này được phép huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó quan trọng nhất là từ phát hành trái phiếu trong nước và nước ngoài, khai thác các nguồn nhàn rỗi từ các quỹ bảo hiểm xã hội, tiết kiệm bưu điện, từ các nguồn vốn hợp pháp khác.
Cơ chế hoạt động của tổ chức này trong thời gian đầu thực hiện có thể có sự hỗ trợ của Nhà nước để cho vay các dự án đầu tư theo định hướng của chính phủ với lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường. Trong xu thế phát triển chung, tính độc lập, tính tự chủ về tài chính, tính hiệu quả trong hoạt động nghiệp vụ của tổ chức thực hiện sẽ ngày càng tăng.
II. Vai trò của tín dụng ĐTPT trong nền kinh tế.
Trên thế giới, do nhu cầu chi của NSNN không ngừng tăng trong khi nguồn thu NSNN lại bị hạn chế và tăng chậm, nên hầu hết các quốc gia đều xảy ra tình trạng thâm hụt NSNN. Mặt khác do nguồn lực của Nhà nước còn hạn chế trong khi nhu cầu chi đầu tư phát triển lại rất lớn, NSNN không thể trang trải hết cho toàn bộ các dự án ĐTPT nên Nhà nước buộc phải lựa chọn các dự án không có khả năng thu hồi vốn trực tiếp để đầu tư ( bằng cách cấp phát không hoàn lại ); còn đối với các dự án đầu tư phát triển có khả năng thu hồi vốn trực tiếp, Nhà nước chỉ đầu tư thông qua kênh tín dụng ĐTPT, trong đó chủ đầu tư dự án được vay vốn của Nhà nước để đầu tư và phải sử dụng các nguồn thu từ dự án để hoàn trả toàn bộ số nợ đã vay nhà nước.
Như vậy tín dụng ĐTPT Nhà nước ra đời bắt nguồn trước hết từ yêu cầu về giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu ĐTPT ngày càng lớn của nền kinh tế với sự giới hạn của nguồn lực tài chính công, nhất là của NSNN. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển không ngừng của kinh tế thị trường thì tín dụng ĐTPT Nhà nước ngày càng có vai trò quan trọng. Có thể xem xét vai trò của tín dụng đầu tư phát triển Nhà nước trên một số khía cạnh chủ yếu sau:
1. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đảm bảo sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một quá trình tất yếu mà các nước chậm phát triển phải trải qua để trở thành một nước công nghiệp phát triển. Nội dụng trọng tâm của quá trình này là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế mà trong đó chủ yếu là xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và phát triển các ngành công nghiệp quan trọng, đưa công nghiệp trở thành ngành giữ vài trò chủ đạo và chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế. Tín dụng ĐTPT là công cụ quan trọng để Nhà nước tài trợ cho các dự án đầu tư phát triển nhằm xây dựng cơ sở hạn tầng kinh tế xã hội ( giao thông, điện lực, thông tin, thủy lợi, cấp thoát nước …) và phát triển các ngành công nghiệp then chốt ( cơ khí, điện tử- viễn thông, công nghệ sinh học, vật liệu mới… ), do đó góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mặt khác, việc tập trung nguồn vốn tín dụng ĐTPT cho xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại và phát triển các ngành công nghiệp then chốt, có khả năng đi tắt đón đầu cũng là nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, từ đó góp phần đảm bảo sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế.
2. Điều tiết vĩ mô các quan hệ cân đối lớn của nền kinh tế và hướng dẫn hành vi của các chủ thể trong nền kinh tế.
Mặc dù kinh tế thị trường là bước phát triển cao của nền kinh tế sản xuất hàng hóa với rất nhiều điểm ưu việt nhưng bên cạnh đó nó cũng có khá nhiều khiếm khuyết mà bất cứ quốc gia nào trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường đều phải đối mặt như nạn ô nhiễm môi trường, tình trạng phân hóa giàu nghèo, bất công xã hội, phát triển không cân đối giữa các vùng miền … Để khắc phục những khiếm khuyết này, Nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ ( thuế, chi NSNN, tín dụng ĐTPT Nhà nước …) trong việc điều tiết, phân bổ nguồn lực, đảm bảo cho các vùng, các ngành hoặc các thành phần kinh tế phát triển một cách đồng đều, trong tín dụng ĐTPT của Nhà nước được sử dụng như là một công cụ chủ yếu để tài trợ chocác dự án ĐTPT có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Do đó có thể nói tín dụng ĐTPT như một bàn tay hữu hình mà Nhà nước phải sử dụng trong quá trình thực hiện chức năng điều tiết vĩ mô của mình đối với nền kinh tế.
Đối với một quốc gia có rất nhiều mục tiêu và quan hệ cân đối kinh tế vĩ mô mà Nhà nước hướng tới như mục tiêu về sản lượng, việc làm, lạm phát, lãi suất … cân đối tiết kiệm – tiêu dùng- đầu tư, cân đối xuất – nhập khẩu .. Để đạt được những mục tiêu về quan hệ cân đối này, Nhà nước phải sử dụng kết hợp nhiều chính sách kinh tế vĩ mô khác nhau mà trong đó chủ yếu là chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. Là một bộ phận cấu thành trong hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, tín dụng ĐTPT có tác động rất lớn trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Điều đó được thể hiện qua một số khía cạnh chủ yếu sau:
- Thông qua việc hỗ trợ đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng và các cơ sở sản xuất, tín dụng ĐTPT góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm.
- Thông qua việc huy động vốn và cho vay đối với các dự án, tín dụng ĐTPT tác động đến cung – cầu trên thị trường vốn và tiền tệ, từ đó ảnh hưởng đến tỷ lệ lạm phát và mặt bằng lãi suất của nền kinh tế.
- Thông qua việc đầu tư cho các dự án phục vụ xuất khẩu hoặc đầu tư ra nước ngoài dưới hình thức hỗ trợ phát triển chính thức ( ODA). Tín dụng ĐTPT còn góp phần điều chỉnh quan hệ cân đối xuất – nhập khẩu, đồng thời tác động đến trạng thái cán cân thanh toán quốc tế của quốc gia, từ đó ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái.
- Thông qua lãi suất huy động, tín dụng ĐTPT góp phần điều tiết tỷ lệ giữa tích lũy và tiêu dùng của dân cư, đồng thời thông qua việc quy định đối tượng và điều kiện được hưởng ưu đãi, tín dụng ĐTPT góp phần định hướng đầu tư của các chủ thể trong nền kinh tế vào các ngành, các vùng và lĩnh vực mà nhà nước khuyến khích phát triển
3. Góp phần giải quyết khó khăn của NSNN trong thực hiện nhiệm vụ chi đầu tư phát triển, đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
Mặc dù chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội là một nội dung chi rất lớn và quan trọng trong chi đầu tư phát triển của NSNN, nhưng có một thực trạng chung hiện nay diễn ra ở hầu hết các quốc gia, là những dự án sử dụng NSNN thường đầu tư dàn trải, không tập trung, vốn đầu tư bị thất thoát hoặc sử dụng lãng phí, hiệu quả thực tế của dự án không thực sự được quan tâm … mà nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do tâm lý ỷ lại vào sự bao cấp của NSNN. Để khắc phục ình trạng này các quốc gia đều có xu hướng giảm mạnh chi NSNN cho các dự án đầu tư phát triển có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Thay vì được cấp phát hoàn toàn từ NSNN như trước đây, các dự án này sẽ được Nhà nước đầu tư thông qua kênh tín dụng ĐTPT. Sở dĩ có xu hướng trên là do nguồn lực NSNN còn hạn hẹp, mặt khác là nhằm khắc phục tâm lý trông chờ ỷ lại vào NSNN, nâng cao hiệu quả, đồng thời hạn chế tình trạng thất thoát, lãng phí trong các dự án đầu tư sử dụng vốn Nhà nước. Việc chuyển kênh đầu tư đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp từ sử dụng vốn NSNN sang sử dụng vốn tín dụng ĐTPT là một việc tất yếu phải làm nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới cơ chế quản lý NSNN nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách.
Sự ra đời của tín dụng ĐTPT nhà nước đã làm thu hẹp phạm vi các dự án được cấp phát không hoàn trả từ NSNN; thay vào đó chủ đầu tư phải sử dụng các nguồn thu từ dự án để hoàn trả toàn bộ số vốn đã vay nhà nước, và số vốn này lại được sử dụng để cho vay đối với các dự án khác. Như vậy nguồn vốn tín dụng ĐTPT đã góp phần tích cực giải quyết khó khăn của NSNN thông qua việc hỗ trợ thực hiện nhiệm vụ chi ĐTPT của NSNN.
Mặt khác, do phải hoàn trả số vốn vay ( cả gốc và lãi ) nên chủ đầu tư phải cân nhắc kỹ lưỡng trong việc lựa chọn các phương án đầu tư có khả năng sinh lời cao, đồng thời tìm cách giảm những khỏan chi không cần thiết. Điều đó cũng có nghĩa là việc tài trợ cho các dự án thông qua tín dụng ĐTPT của nhà nước góp phần hạn chế tình trạng dàn trải, thất thoát, lãng phí trong đầu tư, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
4. Góp phần nâng cao vị thế của quốc gia, tạo điều kiện mở rộng và phát triển hoạt động kinh tế đối ngoại.
Trong điều kiện mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực ngày càng sâu rộng và mạnh mẽ, nguồn vốn đầu tư quốc tế có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình phát tr