Nhắc đến luỹ tre làng, cây đa, mái đình chúng ta liên tưởng ngay đến toàn cảnh của làng quê Việt Nam mà chủ nhân của những ngôi làng đó là những người nông dân, họ là chủ thể của những giá trị vật chất và tinh thần. Nói đến người nông dân là nói đến sự cần cu trong lao động, rất đỗi mộc mạc và chất phát, ở họ luôn chứa đựng những tình cảm sâu nặng với quê hương, đất nước. Chủ đề về tâm lý của những người nông dân là chủ đề hết sức hấp dẫn và vô cùng quan trọng nhưng cũng vô cùng phức tạp. Vì vậy, nghiên cứu về tâm lý của những người nông dân là vấn đề cần được quan tâm và chú trọng.
Tâm lý học cộng đồng làng với những đặc điểm đặc trưng của nó như: “tính cộng đồng được thể hiện qua quan hệ dòng họ và quan hệ làng xóm láng giềng”, “tính cộng đồng thể hiện qua việc tuân thủ và giữ gìn các phong tục tập quán biểu hiện trong lễ hội làng. Nói đến tính cộng đồng, chúng ta không thể không đề cập đến “tính cộng đồng thể hiện qua việc sử dụng thổ ngữ”. Thổ ngữ chính là một trong những nét đặc trưng của từng làng, là một yếu tố trong hệ thống những yếu tố làm nên văn hoá làng. Thổ ngữ đóng vai trò tích cực trong việc liên kết những người cùng làng và thổ ngữ còn là phương tiện rất quan trọng giúp người dân trong làng có thể giao lưu và trao đổi kinh nghiệm trong lao động sản xuất cũng như giao tiếp trong văn hoá làng. Làng ra đời sớm bao nhiêu thì giọng nói của làng đặc trưng bấy nhiêu. Quan điểm lịch sử đã khẳng định rằng: “Tâm lý của người là sự phản ánh những điều kiện sống: được hình thành trong những điều kiện sống kinh tế - xã hội nhất định, cho nên những điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi thì tâm lý của con người cũng thay đổi theo”.
30 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1505 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tính cộng đồng thể hiện qua việc sử dụng thổ ngữ (tiếng địa phương) của người dân xã Quảng Cư thị xã Sầm Sơn – Thanh Hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TÂM LÝ
---------------
BÁO CÁO THỰC TẬP
Đề tài: Tính cộng đồng thể hiện qua việc sử dụng thổ ngữ (tiếng địa phương) của người dân xã Quảng Cư thị xã Sầm Sơn – Thanh Hóa
Giáo viên hướng dẫn: Th.S Trần Thu Hương
Sinh viên: Nguyễn Thanh Tùng
Lớp: K48-TLH
Hà Nội - 2006
PHẦN MỞ ĐẨU
1. Lý do chọn đề tài
Nhắc đến luỹ tre làng, cây đa, mái đình… chúng ta liên tưởng ngay đến toàn cảnh của làng quê Việt Nam mà chủ nhân của những ngôi làng đó là những người nông dân, họ là chủ thể của những giá trị vật chất và tinh thần. Nói đến người nông dân là nói đến sự cần cu trong lao động, rất đỗi mộc mạc và chất phát, ở họ luôn chứa đựng những tình cảm sâu nặng với quê hương, đất nước. Chủ đề về tâm lý của những người nông dân là chủ đề hết sức hấp dẫn và vô cùng quan trọng nhưng cũng vô cùng phức tạp. Vì vậy, nghiên cứu về tâm lý của những người nông dân là vấn đề cần được quan tâm và chú trọng.
Tâm lý học cộng đồng làng với những đặc điểm đặc trưng của nó như: “tính cộng đồng được thể hiện qua quan hệ dòng họ và quan hệ làng xóm láng giềng”, “tính cộng đồng thể hiện qua việc tuân thủ và giữ gìn các phong tục tập quán biểu hiện trong lễ hội làng. Nói đến tính cộng đồng, chúng ta không thể không đề cập đến “tính cộng đồng thể hiện qua việc sử dụng thổ ngữ”. Thổ ngữ chính là một trong những nét đặc trưng của từng làng, là một yếu tố trong hệ thống những yếu tố làm nên văn hoá làng. Thổ ngữ đóng vai trò tích cực trong việc liên kết những người cùng làng và thổ ngữ còn là phương tiện rất quan trọng giúp người dân trong làng có thể giao lưu và trao đổi kinh nghiệm trong lao động sản xuất cũng như giao tiếp trong văn hoá làng. Làng ra đời sớm bao nhiêu thì giọng nói của làng đặc trưng bấy nhiêu. Quan điểm lịch sử đã khẳng định rằng: “Tâm lý của người là sự phản ánh những điều kiện sống: được hình thành trong những điều kiện sống kinh tế - xã hội nhất định, cho nên những điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi thì tâm lý của con người cũng thay đổi theo”.
Từ lâu, vấn đề xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam “tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” là vấn đề của toàn Đảng, toàn dân, Bởi lẽ tính cộng đồng làng được hình thành và thể hiện trong văn hoá làng nên tất nhiên sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới việc giữ gìn những giá trị văn hoá của dân tộc ta. Vì vậy, khi nghiên cứu về chủ đề “tính cộng đồng thể hiện qua việc sử dụng thổ ngữ” của người dân xã Quảng Cư- thị xã Sầm Sơn, Thanh Hoá là việc cần phải nghiên cứu. Đề tài này không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn góp phần bổ sung, hoàn chỉnh trong hệ thống nghiên cứu về tính cộng đồng làng mà chúng tôi nghiên cứu nhằm tìm ra bản chất, sự thực khi thực tiễn đất nước đang bước vào giai đoạn chín muồi của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu đề tài: “Tính cộng đồng của người dân xã Quảng Cư - Thị xã Sầm Sơn - Thanh Hoá, thể hiện qua việc sử dụng thổ ngữ” chúng tôi nhằm thực hiện các mục đích sau:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận - thực tiễn nhằm chỉ ra phương diện tâm lý cộng đồng của nông dân qua việc sử dụng thổ ngữ của người xã Quảng Cư - Thị xã Sầm Sơn - Thanh Hoá.
Từ đó đề xuất, khuyến nghị nhằm phát huy những giá trị văn hoá mà chúng tôi cho là phù hợp với văn hoá chuẩn mà Đảng và Nhà nước quan tâm đề sướng, đồng thời hạn chế sẽ được làm rõ trong tính cộng đồng.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Thông qua việc hệ thống các tài liệu, xây dựng cơ sở lý luận về vấn đề “tính cộng đồng thể hiện qua việc sử dụng thổ ngữ”.
Điều tra thực trạng tính cộng đồng của người dân sống tại xã Quảng Cư - Thị xã Sầm Sơn - Thanh Hoá qua việc sử dụng thổ ngữ.
Đề xuất một số kiến nghị và cách tiếp cận, đánh giá “tính cộng đồng và định hướng sử dụng có hiệu quả các đặc điểm của tính cộng đồng”.
4. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu “Tính cộng đồng của người dân sống tại xã Quảng Cư - Thị xã Sầm Sơn - Thanh Hoá”.
5. Khách thể nghiên cứu:
Nghiên cứu dưới 100 người dân từ 15 tuổi trở lên sống tại xã Quảng Cư - Thị xã Sầm Sơn - Thanh Hoá.
6. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu tính cộng đồng của người dân xã Quảng Cư - Thị xã Sầm Sơn - Thanh Hoá qua việc sử dụng thổ ngữ.
Khách thể nghiên cứu được giới hạn ở dưới 100 người dân sống tại xã Quảng Cư - Thị xã Sầm Sơn - Thanh Hoá.
7. Giả thuyết nghiên cứu:
Tính cộng đồng của người dân xã Quảng Cư thể hiện khá rõ nét. Tuy nhiên trong hoàn cảnh khác nhau thì mức độ thể hiện của tính cộng đồng là không giống nhau.
Trong môi trường sinh sống và học tập và làm việc thì biểu hiện của tính cộng đồng qua việc sử dụng thổ ngữ là khác nhau.
8. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: nghiên cứu các tài liệu tâm lý học, văn hoá học, lịch sử học nhằm xây dựng bộ khái niệm công cụ của đề tài, chỉ ra những đặc điểm của làng xã Việt Nam truyền thống qua việc sử dụng thổ ngữ trong đời sống thường nhật.
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Thiết kế bảng hỏi nhằm mục đích nghiên cứu tìm hiểu tính cộng đồng của người dân xã Quảng Cư. Thị xã Sầm Sơn - Thanh Hoá. Sự biểu hiện cụ thể và mức độ biểu hiện tính cộng đồng của những người dân trên yêú tố thổ ngữ.
Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn sâu kết hợp với bảng hỏi để tìm hiểu kỹ hơn tính cộng đồng của người dân xã Quảng Cư.
Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng phần mềm SPSS 11.5 For Windows để xử lý số liệu thu được, từ đó đưa ra các đánh giá, nhận xét tính cộng đồng của người dân xã Quảng Cư.
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1. Vài nét sơ lược về lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Tính cộng đồng là một vấn đề từ lâu đã được nghiên cứu không chỉ ở lĩnh vực tâm lý mà còn là đối tượng của rất nhiều ngành khoa học nhân văn khác. Nhiều kết quả nghiên cứu đã cho thấy tính cộng đồng và tính cá nhân là cặp phạm trù luôn tồn tại trong mỗi cá thể, chỉ có điều là tuỳ thuộc vào mỗi nền văn hoá, hoàn cảnh cụ thể khác nhau mà biểu hiện của mặt nào là nổi trội hơn. Chính vì vậy, nghiên cứu tính cộng đồng thường đi liền với tính cá nhân. Đây có thể coi là hai mặt của vấn đề. Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài này chúng tôi chỉ đềcập đến tính cộng đồng qua việc sử dụng thổ ngữ (tiếng địa phương).
1.1. Nghiên cứu tính cộng đồng ở nước ngoài.
Ngành khoa học đi đầu trong việc nghiên cứu tính cộng đồng thì phải kể đến khoa học triết học “khoa học của mọi khoa học. Ngay từ thế kỷ V (trước công nguyên) thì Platon là Socrates đã phản đối quan điểm ngụy biện Hylạp cho rằng: “Cá nhân có thể quyết định xem mình cần ứng xử như thế nào không cần phải tuân theo chuẩn mực của nhóm”. Platon và Socrates cho là “không có các chuẩn mực thế nào là tốt và thích hợp”. Sự tranh cãi là nền móng cho sự ra đời của các nghiên cứu về tính cá nhân và tính cộng đồng. Một trong những người ủng hộ cho tập thể luận là Jócquos Kousean và J.Cam bell.
Cùng với triết học, nhân học cũng xem xét tính cộng đồng cùng với tính cá nhân khi nghiên cứu các bộ lạc, các tộc người sống ở các vùng văn hoá, địa lý khác nhau. Họ cho rằng: “ở phương đông tính cộng đồng thường thể hiện trội hơn tính cá nhân và ở người Phương Tây thì ngược lại. Người sống trong xã hội nông nghiệp thì thường gắn kết với nhau chặt chẽ, tôn trọng truyền thống tổ tiên, ưu tiên cho gia đình và cộng đồng, kìm hãm cái tôi phát triển.
Dưới góc độ tâm lý học cũng có rất nhiều công trình nghiên cứu tính chính sách ở các cấp độ khác nhau.
-Tâm lý học Xô Viết.
Từ lâu tâm lý học Xô Viết đã nghiên cứu rất nhiều về tính cộng đồng và tính cá nhân.
Thoe V.h.Chontsicos, người Nga có tính cộng đồng khá cao, có nguồn gốc từ thế kỷ IX cho đến nay. Điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt (mùa đông lạnh kéo dài, nhiều đầm lầy, đất có độ axit cao…) vì tình trạng phân tán, biệt lập của các làng ở vùng nông thôn đã làm cho người Nga liên tục phải đối phó với những khó khăn và rủi ro. Cuộc sống khó khăn kéo dài đã làm cho nhóm có ưu thế hơn cá nhân. Vì sự sinh tồn của cả cộng đồng. Biểu hiện của tính cộng đồng đầu tiên là dòng tộc, thổ ngữ…” Sau đó đến cộng đồng nông thôn.
Sau này, khi cách mạng tháng 10 Nga thành công, nước Nga Xô Viết ra đời, tâm lý học xô Viết thường đề cập đến tính cộng đồng trong khuôn khổ của nghiên cứu về lối sống mà cụ thể là những sinh hoạt trong xã hội chủ nghĩa. Theo đó xã hội chủ nghĩa được nói đến là lối sống dựa trên nền tảng của chủ nghĩa tập thể, định hướng tập thể trong đó con người hành động vì lợi ích tập thể,cộng đồng.
Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng: Trong hơn một thập kỷ qua, kể từ khi Liên Xô bị sụp đổ, nước Nga đã có nhiều thay đổi mang tính bước ngoặt, định hướng giá trị và hành vi trong mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng của người Nga đã thay đổi căn bản. Nghiên cứu về “tính ích kỷ” trong nhân các của người Nga đã được Muzôđưbaev tiến hànhvào năm 2000 cho thấy: có thể hiện rõ hơn ở những người trẻ tuổi, những người làm dịch vụ trong khu vực kinh tế tư nhân, những người quản lý và sinh viên. Thể hiện rõ nhất là trong nhóm thanh niên Nga dưới 30 tuổi.
Theo ĐônXốp, khi nghiên cứu cá nhân và tập thể thì đáng lưu ý nhất là nghiên cứu tính cố kết, mà tính cố kết trên ba phương diện. Một là: hành vi hợp tác, sự tương đồng về định hướng giá trị và cách nhìn nhận và cuối cùng là lòng tin đối với các thành viên khác.
Ngoài ra, các nhà khoa học phương Tây và phương Đông đã tiến hành nghiên cứu và có những quan điểm khác nhau nhưng nội dung của những quan điểm ấy mang tính tương đối đồng nghĩa. Theo Tai-Hocha (người Hàn Quốc) khi nghiên cứu các thay đổi và định hướng giá trị, hành vi của người Hàn Quốc trong một thế kỷ (1870 - 1970) đã đi đến kết luận rằng: Trong tính cộng đồng ở một số khía cạnh có yếu đi và sự thay đổi diễn ra theo xu hướng cá nhân, nhưng tính cộng đồng trong xã hội Hàn Quốc khá nổi trội. Các nghiên cứu của Kim và đồng nghiệp cũng cho thấy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Nhật Bản đã làm cho mối quan hệ giao tiếp qua lại với làng xóm láng giềng của người Nhật ngày càng lạnh nhạt, lỏng lẻo và thưa thớt, nhưng nhìn chung nó không làm thay đổi một cách đáng kể các giá trị văn hoá cơ bản vốn nhấn mạnh với mối quan hệ con người.
Tóm lại, vấn đề tính cộng đồng được rất nhiều nhà khoa học trên thế giới quan tâm và nghiên cứu. Các nghiên cứu lúc đầu thường tập trung nói về sự khác biệt hay tương phản của tính cá nhân và tính cộng đồng ở văn hoá phương Tây và văn hoá phương Đông phần lớn các nghiên cứu đều cho rằng: Tính cá nhân và tính cộng đồng là hai khái niệm mang tính đối lập và loại trừ nhau - đã có tính cộng đồng thì không tồn tại, tính cá nhân và ngược lại… Nhờ các nhà nghiên cứu ấn Độ Hàn Quốc, Nhật Bản… đã nhà nghiên cứu đã nhận ra rằng: cả tính cá nhân và tính cộng đồng đều có thể tồn tại ở một nước. ở một cá nhân tuy chúng mang tính lưỡng cực, tương phản nhưng không loại trừ nhau với tính cộng đồng. Các nghiên cứu đã đóng góp rất nhiều cho sự hiểu biết về các đặc điểm của tính cộng đồng và tính cá nhân.
1.2. Nghiên cứu tính cộng đồng ở Việt Nam.
Việt Nam là nước châu á, lại là một dân tộc có nên nông nghiệp lúa nước, hơn nữa chúng ta có lịch sử chống giặc ngoại xâm lâu dài. Tất cả những yếu tố đó đã góp phần làm nên con người Việt mang tinh thần đoàn kết, tương trợ nhau khá rõ nét, và tính cộng đồng có thể xem là một nét tính cách của người dân Việt Nam, đặc biệt là người nông dân. Chính vì vậy, việc nghiên cứu về vấn đề này là cần thiết. Tuy nhiên phải thừa nhận rằng, hiện nay có rất ít nhà nghiên cứu tâm lý học Việt Nam nói riêng và các nhà tâm lý học nước ngoài nói chung nghiên cứu về thái độ hay tình cảm của người Việt Nam đối với cộng đồng mà chủ yếu là tính cộng đồng vẫn chỉ là những phần nhỏ lẻ nằm trong các nghiên cứu của dân tộc học, sử học hay văn hoá học.
Các nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực, các ngành khoa học chuyên ngành đều đưa đến nhận định: “người Việt Nam có tính cộng đồng chính tính cộng đồng là nguyên nhân của hàng loạt cái hay cũng như cái dở trong tính cách của người Việt”.
Nhà tâm lý học Đỗ Long đã chú ý nghiên cứu tính cộng đồng ở Việt Nam. Trong những công trình nghiên cứu của ông về tính cộng đồng (và tính cá nhân) của người Việt Nam. Tác giả và các cộng sự đã khẳng định rằng: Người Việt Nam có tính cộng động và tinh thần cộng đồng là một đặc điểm nổi bật trong tầm thức của người Việt Nam. Ông chỉ ra tính cộng đồng qua hàng loạt các yếu tố của văn hoá làng như: Hội làng, hương ước, quan hệ dòng họ và yếu tố thổ ngữ. Tính cộng đồng cũng được ông nhấn mạnh khi nghiên cứu trên đối tượng cụ thể là người nông dân. Tác giả khẳng định rằng: tinh thần cộng đồng của người nông dân Việt Nam chính là một trong những yếu tố làm nên sức mạnh chiến thắng cả thiên tai, cả địch hoạ.
Phan Thị Mai Hương nghiên cứu đề tài “tính cộng đồng, tính cá nhân và cái tôi của người Việt Nam ngày nay” trên mẫu chọn là sinh viên và kết quả cho thấy “Mạc dù tính cộng đồng trong thanh niên vẫn nổi trội, nhưng cái “tôi của thanh niên càng thể hiện khá cao, khá rõ nét. Điều đó cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu mà nhiều tác giả đã tiến hành trong nhiều năm trước đây.
Ngoài ra tính cộng đồng và tính cá nhân cũng được. Lê Văn Hảo rất quan tâm, tác giả này có nhiều tác phẩm như:
* “Xung quanh một số nghiên cứu về tính cá nhân và tính tập thể” tạp chí Tâm lý học số 2/4/2001.
* “Khái niệm về tính cộng đồng và tính cá nhân” tạp chí tâm lý học, số 8, tháng 8/2002.
* Một số lý thuyết về tính cộng đồng và tính cá nhân” tạp chí tâm lý học, số 10, tháng 10/2004.
* Tính cộng đồng và tính cá nhân từ góc độ nhận thức và mô tả về cái tôi” Tạp chí Tâm lý học, số 10, tháng 11/2004.
Tuy vậy, đăng kí phải nói đến công trình cá nhân của người dân xã Tam Hiệp, Thanh Trì, Hà Nội” của ông. Đây có thể coi là công trình lớn và qui mô nhất, cụ thể nhất về tính cá nhân và tính cộng đồng biểu hiện trên ba mặt nhận thức: định hướng giá trị và hành vi, khách thể nghiên cứu là 415 người dân xã Tam Hiệp, Thanh Trì, Hà Nội. Kết quả cho thấy: tính cộng đồng tồn tại song song cùng với tính cá nhân, tính cá nhân biểu hiện khá rõ nét, nhưng tính cộng đồng (tập thể) vẫn chiếm ưu thế hơn, tính cá nhân của những khách thể nghiên cứu gắn với hoàn cảnh, tình huống. Các kết quả này đồng nhất với các kết quả của các tác giả khác.
2. Khái niệm cơ bản của đề tài.
a.Khái niệm về tính cộng đồng.
Định nghĩa tính cộng đồng.
Tính cộng đồng là một đặc điểm tâm lý rất đặc trưng của con người, tính cộng đồng xuất hiện ở mỗi cá nhân văn hoá khác nhau thì tính cộng đồng này thể hiện ở các mức độ không giống nhau. Nó có ảnh hưởng rất lớn đến nhiều mặt của đời sống xã hội.
Tác giả Trần Ngọc Thâm (21.191) định nghĩa: “Tính cộng đồng là sự liên kết các thành viên trong làng lại với nhau, mỗi người đều hướng tới những người khác - nó là đặc trưng dương tính, hướng ngoại”. Theo định nghĩa này, mỗi người trong cộng đồng đều hướng tới những người khác. Đó chính là một biểu hiện dẫn đến sự liên kết ở cấp độ làng.
Tác giả H.Trianchs cho rằng: “tính cộng đồng tập thể là xu hướng của con người, nhấn mạnh (ưu tiên) cho cách nhìn nhận nhu cầu, mục đích của nhóm nội hơn là bản thân; niềm vui làm mình hoà chung với nhóm nội hơn là niềm tin phân biệt mình với nhóm nội; Sự sẵn sàng hợp tác với thành viên nhóm nội; gắn bó về mặt cảm xúc với nhóm nội”. Nhìn vào định nghĩa của H.triandis chúng ta thấy định nghĩa của ông những hạn chế là ông quá nhấn mạnh đến tính cộng đồng trong nhóm nội, nhưng trong một số hoàn cảnh nhất định thì nhóm ngoại cũng có thể được ưu tiên.
S.Yamaguchi khi nghiên cứu về tính cộng đồng của người Nhật Bản cũng đưa ra định nghĩa: “Tính cộng đồng là xu hướng coi trọng các mục đích của nhóm hơn các mục đích của cá nhân, khi các mục đích này có mâu thuãn” theo chúng tôi thì định nghĩa này quá đơn giản, không nêu được hội hàm của khái niệm, nó chỉ nhấn mạnh đến biểu hiện của tính cộng đồng trong hoàn cảnh cụ thể là khi mục đích cá nhân và mục đích của nhóm bị mâu thuẫn, chứ không bao quát được hoàn cảnh khác.
Đỗ Long cho rằng: tính cộng đồng là một đặc trưng tâm lý xã hội của nhóm, thể hiện năng lực phối hợp, kết hợp ở sự thống nhất của các thành viên trong hành động và làm cho các quan hệ qua lại của các hoạt động diễn ra một cách nhịp nhàng nhất”. Theo định nghĩa này tính cộng đồng chính là một đặc điểm tâm lý của nhóm, một cộng đồng gồm nhiều cá thể người hợp thành. Nó là một yếu tố tạo nên sức mạnh của nhóm và sức mạnh ấy được thể hiện qua năng lực phối hợp hành động của các cá nhân trong nhóm. Nó không phải là phép cộng đơn thuần các đặc điểm cá nhân, mà khi đã có tính cộng đồng thì nhóm sẽ có sức mạnh lớn hơn rất nhiều so với sức mạnh của tất cả các thành viên gộp lại.
Từ quá trình tìm kiếm và phân tích các định nghĩa của các nhà nghiên cứu chúng tôi đã rút ra được kết luận: “Tính cộng đồng là một đặc điểm tâm lý thể hiện xu hướng đặt người khác, tập thể, cộng đồng vào vị trí ưu tiên trong nhận thức của cá nhân”. Ưu tiên, coi trọng các giá trị cộng đồng, tập thể hơn là định hướng vào các giá trị cá nhân, từ đó dẫn đến hoạt động ứng xử vì tập thể cộng đồng hơn và vì cá nhân”.
3. Một số đặc trưng của làng xã Việt Nam truyền thống.
Trần Ngọc Thêm cho rằng [21] làng là một hình thức tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú do nhu cầu liên kết với nhau chặt chẽ của những người sống gần nhau ở nông thôn, nhằm đối phó với môi trường tự nhiên và xã hội. Nó bộc lộ sự gắn bó với nhau không chỉ bằng các quan hệ máu mủ mà cả bằng các quan hệ sản xuất của các thành viên trong làng.
Hai tác giả Đỗ Long và Trần Hiệp [12] thì cho rằng: Làng ở Việt Nam là một đơn vị tương đối nhỏ của những cộng đồng định cư lâm - nông nghiệp và “sự tồn tại lâu dài trong mấy nghìn năm lịch sử của làng như một đơn vị hành chính, kinh tế, văn hoá, dân cư… cho phép nói tới ranh giới của nó. Như vậy, có thể cho làng là một đại lượng tâm lý trong những không gian xác định.
Có thể cho rằng, làng xã chính là một thực thể, một nhóm lớn với số lượng người đông đảo chủ yếu là làm nghề nông, có một truyền thống văn hoá, dân cư…cho phép nói tới ranh giới của nó. Như vậy, có thể cho làng là một đại lượng tâm lý trong những kông gian xác định.
Có thể cho rằng, làng xã chính là một thực thể, một nhóm lớn với số lượng người đông đảo chủ yếu là làm nghề nông, có một truyền thống văn hoá riêng và có đầy đủ các đặc trưng tâm lý của nó. Nó có vai trò và quan hệ trực tiếp nhất đối với mỗi người nông dân.
Do ý thức được vai trò của các mối quan hệ của những thành viên trong làng mà người nông dân thường có lối sống ứng xử rất linh hoạt nhằm điều hoà mối quan hệ giữa mình với một bên là dòng họ và một bên là làng xóm láng giềng. Nguyên tắc ứng xử này được thể hiện trong các câu ca dao, tục ngữ như: “bán anh em xa mua láng giềng gần”, “hàng xóm láng giềng tối lửa, tắt đèn có nhau”, hay “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”, “chẳng gì cũng là máu mủ ruột già”… nội dung hàm ý của các câu ca dao, tục ngữ ấy chẳng mâu thuẫn với nhau mà nó còn thể hiện lối ứng xử của người Việt hết sức linh hoạt “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”.
Sống trong làng lại biết rõ về nhau qua quá trình dài sinh hoạ, nên người Việt thường “vị tình chứ không vị lý”, “một bồ cái lý không bằng một tí cái tình”; “có tình, có lý”… Những người sống trong cùng một làng luôn luôn có sự hợp tác tương trợ dưới nhiều hình thức khác nhau như đổi công, giúp đỡ nhau trong các dịp hiếu, hỷ… điều này dẫn đến một hệ quả là người Việt có thói quen thích chia sẻ niềm vui, nỗi buồn với nhau, yếu tố này làm nên tình cảm cộng đồng.
Phạm Minh Thảo [ 19, 145 - 146] cho rằng: trước đông người dân sống quanh quẩn ở làng, chỉ làm ruộng là chủ yếu nên tâm thức tiểu nông phát triển. Đó là sự an phận thủ thường, ít chất phiêu lưu, chỉ dự trữ theo lối sống “ăn chắc, mặc bền” cuộc sống ấy có ưu điểm là “cố kết mọi người”, nhưng nhược điểm của nó là sức ỳ rất lớn, không muốn có sự xáo trộn, thay đổi. Cộng đồng có tính cố kết nhưng lại xét nét. Con người trước đây sinh ra sống và chết đi đều ở làng. Còn nay “cơ sở xã hội đã có sự thay đổi cơ bản về chất - cuộc sống ồn ảo, khẩn trương và quan niệm về tự do cá nhân phát triển đã khiến cho trật tự trên dưới không còn có tính bất di bất dịch như trước. Theem nữa ngày n