Hiện nay, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, với cơ chế quản lý kinh tế thực hiện hạch toán kinh doanh. Bất kỳ doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển phải đảm bảo tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh và phải có lợi nhuận.
Để đạt được yêu cầu đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải thực hiện quản lý chặt chẽ việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả các loại tài sản, vật tư, lao động, tiền vốn của mình.
73 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1615 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tổ chức kế toán vật liệu - Công cụ dụng cụ tại Công ty Cổ phần may và dịch vụ Hưng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
------------------
Hiện nay, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, với cơ chế quản lý kinh tế thực hiện hạch toán kinh doanh. Bất kỳ doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển phải đảm bảo tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh và phải có lợi nhuận.
Để đạt được yêu cầu đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải thực hiện quản lý chặt chẽ việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả các loại tài sản, vật tư, lao động, tiền vốn của mình. Việc hạch toán đúng và đủ chi phí thực tế bỏ ra sẽ giúp cho các doanh nghiệp đánh giá được hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Tất cả các doanh nghiệp đều đặt ra mục tiêu là đạt được lợi nhuận cao nhất mà chi phí bỏ ra là ít nhất.
Bởi vậy, hạch toán vật liệu - công cụ dụng cụ có vai trò quan trọng vì đó là yếu tố cơ bản tạo ra thực thể sản phẩm và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí, tác động trực tiếp đến hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh. Nếu có sự thay đổi đột xuất về chi phí vật liệu - công cụ dụng cụ tất yếu sẽ ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm, từ đó ảnh hưởng đến thu nhập của doanh nghiệp.
Công ty Cổ phần may và dịch vụ Hưng Long là một doanh nghiệp mà trong những năm vừa qua đã không ngừng lớn mạnh và phát triển. Mặc dù trong điều kiện cơ chế thị trường có sự cạnh tranh diễn ra gay gắt, nhất là trong ngành công nghiệp may mặc - một ngành có nhiều doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia. Nhân tố quyết định sự thành công của Công ty là ở chỗ Ban lãnh đạo Công ty đã xác định được mặt hàng sản xuất với chất lượng cao, có uy tín trên thị trường trong và ngoài nước, có nhiều khách hàng lớn, ổn định được sản phẩm và tiêu thụ được số lượng lớn. Bên cạnh đó phải kể đến sự đóng góp có hiệu quả của công tác kế toán nói chung và công tác tổ chức kế toán vật liệu - công cụ dụng cụ nói riêng.
Sau một thời gian ngắn thực tập tại phòng kế toán của Công ty, được tìm hiểu về công tác kế toán ở đây. Tôi nhận thấy công tác kế toán vật liệu - công cụ dụng cụ của Công ty đã tương đối ổn định, đáp ứng được yêu cầu quản lý vật liệu - công cụ dụng cụ. Tuy nhiên cũng không tránh khỏi những mặt hạn chế, nếu được khắc phục thì vai trò kế toán vật liệu - công cụ dụng cụ sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Nhận thức được những mặt mạnh và những mặt còn hạn chế của công tác kế toán vật liệu - công cụ dụng cụ. Tôi đi sâu vào nghiên cưú đề tài “Tổ chức kế toán vật liệu - công cụ dụng cụ tại Công ty Cổ phần may và dịch vụ Hưng Long” nhằm hoàn thiện hơn nữa công tác tổ chức hạch toán vật liệu - công cụ dụng cụ tại Công ty.
Chuyên đề này gồm 3 phần:
Phần I: Lý luận chung về kế toán vật liệu - công cụ dụng cụ tại doanh nghiệp sản xuất.
Phần II: Thực trạng công tác kế toán nguyên vật liệu - công cụ dụng cụ ở Công ty Cổ phần May và dịch vụ Hưng Long
Phần III: Một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác kế toán vật liệu - công cụ dụng cụ tại Công ty Cổ phần May và dịch vụ Hưng Long.
Để hoàn thành chuyên đề này, tôi đã cố gắng rất nhiều trên cơ sở những kiến thức được các Thầy giáo, Cô giáo truyền đạt lại ở trường cùng với thời gian thực tập ở Công ty, nhưng chắc chắn sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết cả về nội dung cũng như hình thức trình bày. Tôi rất mong được sự góp ý, chỉ đạo của các Thầy, các Cô cùng các cán bộ phòng kế toán Công ty.
Tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn Lê thanh hương và các cán bộ phòng kế toán Công ty Cổ phần May và dịch vụ Hưng Long đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi rất nhiều để tôi có thể hoàn thành chuyên đề này.
Phần I
Lý luận về kế toán vật liệu - công cụ dụng cụ
tại doanh nghiệp sản xuất
I. Sự cần thiết của tổ chức công tác kế toán vật liệu - công cụ dụng cụ trong doanh nghiệp sản xuất:
1. Đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của vật liệu - công cụ dụng cụ:
1.1. Đặc điểm, vai trò của vật liệu - công cụ dụng cụ:
- Vật liệu là đối tượng lao động chủ yếu, một trong ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất là cơ sở vật chất cấu thành nên thực thể của sản phẩm.
- Công cụ dụng cụ là những tư liệu lao động không đủ điều kiện, về tiêu chuẩn quy định về giá trị và thời gian sử dụng của tài sản cố định.
a. Vật liệu - công cụ dụng cụ có đặc điểm sau:
* Vật liệu:
- Về mặt hiện vật: Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vật liệu không ngừng chuyển hoá, tham gia toàn bộ một lần vào quá trình sản xuất, không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu mà biến đổi cấu thành nên thực thể sản phẩm mới.
- Về mặt giá trị: Kết chuyển toàn bộ một phần giá trị vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ.
Trong quá trình đưa vật liệu vào sản xuất thì vật liệu có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, ở các công đoạn khác nhau như:
+ Công đoạn chuẩn bị sản xuất: Vật liệu ở dạng ban đầu chưa chịu tác động của một quy trình nào.
+ Công đoạn sản xuất khác: Vật liệu có thể là các sản phẩm dở dang, bán thành phẩm để tiếp tục đưa vào sản xuất để tạo ra thực thể của sản phẩm mới.
Ngoài ra, vật liệu còn chịu tác động của các yếu tố khác như: Môi trường, các yếu tố lý, hóa học.
* Công cụ - dụng cụ:
- Là tư liệu lao động có thể tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh nhưng vẫn giữ nguyên được hình thái vật chất ban đầu, chỉ có giá trị của nó bị hao mòn dần và chuyển dịch từ phần vào giá trị sản xuất (giống TSCĐ).
- Công cụ dụng cụ có giá trị nhỏ, thời gian sử dụng ngắn nên nó có thể tham gia một lần vào chu kỳ sản xuất kinh doanh (giống vật liệu).
b. Vật liệu - công cụ dụng cụ có vai trò quan trọng trong sản xuất sản phẩm:
- Vật liệu là yếu tố chi phí chính cấu tạo nên thực thể của sản phẩm, quyết định đến giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm. Đối với một sản phẩm hoàn chỉnh thì vật liệu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí và giá thành.
- Công cụ dụng cụ là tư liệu lao động mặc dù không trực tiếp cấu tạo nên thực tế sản phẩm nhưng cũng không thể không nói đến vai trò của nó, chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm nhưng chính công cụ - dụng cụ đã góp phần làm cho quá trình sản xuất được thực hiện một cách thuận lợi, nhanh gọn tạo điều kiện cho vật liệu được chuyển hoá nhanh hơn.
1.2. ý nghĩa và yêu cầu quản lý vật liệu - công cụ dụng cụ:
Để sản xuất ra sản phẩm có chất lượng và đảm bảo về số lượng, đúng yêu cầu về mẫu mã thiết kế, kỹ thuật của khách hàng thì vật liệu - công cụ dụng cụ có ý nghĩa vô cùng to lớn.
Nói chung, yếu tố vật liệu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí sản xuất để tạo ra sản phẩm, do đó việc cung cấp nguyên vật liệu có đầy đủ, kịp thời hay không sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, đồng thời chất lượng nguyên vật liệu cũng quyết định đến chất lượng của sản phẩm. Nên việc kiểm tra chất lượng của nguyên liệu, việc sử dụng nguyên liệu có hợp lý hay không, có tiết kiệm được hay không trên cơ sở các định mức dự toán chi phí sản xuất là một việc làm có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc hạ thấp chi phí sản xuất và giá thành của sản phẩm làm ra, từ đó có thể tăng thu nhập, tăng tích luỹ cho doanh nghiệp. Vì vậy khi có nhu cầu sử dụng nguyên liệu cần phải tổ chức tốt công việc ghi chép, phản ánh tình hình xuất dùng, sử dụng nguyên liệu trong sản xuất kinh doanh.
Đối với công cụ - dụng cụ cũng vậy, phải bảo đảm tổ chức tốt từ khâu cung cấp đến khâu bảo quản, sử dụng, từ số lượng đến chất lượng và sẽ tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được liên tục, giảm bớt những rủi ro thiệt hại cho doanh nghiệp, góp phần đảm bảo cho sự phát triển của doanh nghiệp.
Xuất phát từ những ý nghĩa đó thì các doanh nghiệp phải có biện pháp quản lý chặt chẽ, chính xác vật liệu - công cụ dụng cụ ở tất cả các khâu trong hoạt động sản xuất kinh doanh, phải đảm bảo và thực hiện tốt các yêu cầu trong quá trình sản xuất tránh tình trạng thừa, thiếu ứ đọng, lãng phí... Những việc làm đó quyết định đến thành công của công tác sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Quản lý chặt chẽ tình hình thu mua vật liệu - công cụ dụng cụ về số lượng, chất lượng... thực hiện kế hoạch mua theo đúng tiến độ phù hợp với kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được bình thường, không bị gián đoạn.
2. Nhiệm vụ của kế toán vật liệu - công cụ dụng cụ:
Trong hệ thống quản lý, kế toán là một công cụ quan trọng, kế toán được sử dụng như một công cụ sắc bén và có hiệu lực nhất để phản ứng một cách khách quan và giám đốc một cách toàn diện mọi mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong doanh nghiệp sản xuất, có nhiều hình thức khác nhau để quản lý tốt hoạt động sản xuất. Trong số các hình thức đó thì việc tổ chức kế toán vật liệu - công cụ dụng cụ một cách khoa học, hợp lý, đúng với chế độ tài chính - kế toán của Nhà nước sẽ đảm bảo phản ánh một cách chính xác tình hình nhập - xuất - tồn kho vật liệu - công cụ dụng cụ, tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất sản phẩm, do đó cần thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
- Tổ chức thực hiện đánh giá phân loại vật liệu - công cụ phù hợp với các nguyên tắc, yêu cầu quản lý thống nhất của Nhà nước và yêu cầu quản trị của doanh nghiệp.
- Tổ chức chứng từ, tài khoản, sổ kế toán phù hợp với phương pháp kế toán hàng tồn kho được áp dụng trong doanh nghiệp để ghi chép, phân loại, tổng hợp số liệu về tình hình hiện có và sự biến động tăng giảm của vật liệu - công cụ dụng cụ trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, cung cấp số liệu kịp thời để tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
- Tham gia việc phân tích đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch thu mua, tình hình thanh toán với người bán, người cung cấp, tình hình sử dụng vật liệu - công cụ dụng cụ trong quá trình sản xuất kinh doanh.
II - Phân loại, đánh giá vật liệu - công cụ dụng cụ:
1. Phân loại vật liệu - công cụ dụng cụ:
Để thuận tiện cho việc quản lý và tổ chức hạch toán chi tiết với từng loại, từng thứ vật liệu - công cụ thì cần thiết phải tiến hành phân loại chúng theo những nội dung và tiêu thức nhất định.
1.1. Phân loại vật liệu:
Căn cứ vào nội dung kinh tế, chức năng của vật liệu trong hoạt động sản xuất kinh doanh thì vật liệu được chia thành các loại sau:
+ Nguyên liệu chính: là đối tượng lao động khi tham gia vào quá trình sản xuất nó cấu thành thực thể vật chất, thực thể chính của sản phẩm, hàng hoá, VD: Sợi mua ngoài trong các doanh nghiệp dệt.
+ Vật liệu phụ: Là những loại vật liệu khi tham gia vào quá trình sản xuất không cấu thành nên thực thể chính cuả sản phẩm mà nó chỉ có tác dụng khi kết hợp với nguyên liệu chính làm tăng chất lượng của nguyên liệu chính, tăng chất lượng sản phẩm có thể thay đổi hình dáng bề ngoài của sản phẩm hoặc tạo điều kiện cho qúa trình chế tạo sản phẩm được thực hiện bình thường, hoặc phục vụ cho công tác quản lý, nhu cầu công nghệ, kỹ thuật, cho việc bảo quản bao gói sản phẩm như: Thuốc nhuộm, sơn, dầu nhờn...
+ Nhiên liệu: Thực chất đây có thể coi là loại vật liệu phụ nhưng nó có tác dụng cung cấp nhiệt lượng trong quá trình sản xuất kinh doanh, nó tồn tại ở các dạng như: Chất lỏng, chất khí, chất rắn dùng để phục vụ cho công nghệ sản xuất sản phẩm, cho các phương tiện vận tải, máy móc thiết bị hoạt động trong quá trình sản xuất như: Xăng, dầu, than củi...
+ Phụ tùng thay thế: Là những loại vật tư dùng để thay thế, sửa chữa máy móc thiết bị sản xuất, phương tiện vận tải.
+ Thiết bị xây dựng cơ bản: Là những thiết bị, phương tiện được sử dụng cho công việc xây dựng cơ bản. Đối với thiết bị xây dựng cơ bản bao gồm cả thiết bị cần lắp, công cụ khí cụ và vật kết cấu dùng để lắp đặt các công trình xây dựng cơ bản.
+ Vật liệu khác: Là các loại vật liệu thải loại ra trong quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm: Gỗ, sắt thép vụn hoặc phế liệu thu nhặt, thu hồi khi thanh lý tài sản cố định.
Tuỳ thuộc vào yêu cầu quản lý và hạch toán chi tiết, cụ thể của từng loại doanh nghiệp mà trong từng loại vật liệu nêu trên lại được chia thành từng nhóm, thứ... dựa vào qui cách, tính chất lý hoá học của chúng bằng cách lập sổ danh điểm vật liệu bởi vì cách phân loại trên chưa đảm bảo quản lý chặt chẽ và tiến hành kiểm tra một cách toàn diện, cụ thể.
Ngoài ra, để phục vụ cho yêu cầu quản lý và hạch toán vật liệu trên những giác độ khác người ta có thể phân loại vật liệu theo các tiêu thức khác. Chẳng hạn: Căn cứ vào mục đích công dụng của vật liệu cũng như nội dung qui định phản ánh chi phí vật liệu trên các tài khoản kế toán thì vật liệu của doanh nghiệp lại được chia thành:
- Nguyên vật liệu trực tiếp dùng cho sản xuất, chế tạo sản phẩm.
- Nguyên vật liệu dùng cho nhu cầu khác: Phục vụ quản lý ở các phân xưởng, cho nhu cầu bán hàng, quản lý doanh nghiệp...
1.2. Phân loại công cụ - dụng cụ:
Công cụ - dụng cụ trong các doanh nghiệp bao gồm các lán trại tạm thời, dụng cụ gá lắp chuyên dùng cho sản xuất, dụng cụ đồ nghề, quần áo bảo hộ lao động... Tuỳ thuộc vào yêu cầu quản lý mà công cụ - dụng cụ được phân làm 3 loại sau:
- Công cụ - dụng cụ.
- Bao bì luân chuyển
- Đồ dùng cho thuê
Cũng như vật liệu, để phục vụ cho yêu cầu quản lý và hạch toán chi tiết công cụ - dụng cụ thì công cụ - dụng cụ có thể phân loại chi tiết hơn thành từng nhóm, trong mỗi nhóm lại phân thành từng thứ...
2. Đánh giá vật liệu - công cụ dụng cụ:
Đánh giá vật liệu - công cụ dụng cụ là việc biểu hiện vật liệu - công cụ dụng cụ bằng thước đo tiền tệ theo những nguyên tắc nhất định đảm bảo yêu cầu chính xác, kịp thời, đầy đủ.
Đây là khâu quan trọng trong công tác quản lý vật liệu - công cụ dụng cụ. Vì thông qua đánh giá vật liệu - công cụ dụng cụ trong tổng chi phí sản xuất, từ đó mới tính toán một cách chính xác giá thành sản phẩm và xác định được định mức vật tư đã sử dụng trong kỳ và lập định mức cho kỳ sau.
Về nguyên tắc, vật liệu - công cụ dụng cụ được phản ánh, đánh giá theo giá vốn thực tế của chúng. Nhưng đối với các doanh nghiệp có qui mô lớn, chủng loại vật liệu - công cụ dụng cụ nhiều, sự biến động của vật liệu - công cụ dụng cụ diễn ra thường xuyên thì vật liệu - công cụ dụng cụ còn được đánh giá theo giá hạch toán để phục vụ cho hạch toán chi tiết hàng ngày tình hình nhập - xuất - tồn kho vật liệu - công cụ dụng cụ.
2.1. Đánh giá vật liệu - công cụ dụng cụ theo giá thực tế:
2.1.1. Giá thực tế nhập kho:
Tuỳ theo từng nguồn nhập mà nội dung giá thực tế của vật liệu - công cụ dụng cụ nhập kho được xác định cụ thể như sau:
- Đối với vật liệu - công cụ dụng cụ mua ngoài thì giá vốn thực tế nhập kho bao gồm: Giá mua theo hoá đơn (+) chi phí thu mua thực tế (bao gồm: Chi phí vận chuyển, bốc dỡ, bảo quản, chi phí thuê kho, thuê bãi...) (+) thuế nhập khẩu, thuế khác (nếu có) (-) các khoản giảm giá, triết khấu, giá trị hàng mua trả lại cho người bán (nếu có).
- Đối với vật liệu - công cụ dụng cụ do doanh nghiệp tự gia công chế biến thì giá vốn thực tế nhập kho bao gồm: Giá trị thực tể của vật liệu xuất gia công, chế biến (+) các chi phí gia công chế biến.
- Đối với vật liệu - công cụ dụng cụ thuê ngoài gia công chế biến giá vốn thực tế nhập kho bao gồm: Giá thực tế của vật liệu xuất đưa đi gia công, chế biến (+) chi phí vận chuyển bốc xếp khi đưa vật liệu đi và về nhập kho (+) số tiền phải trả cho đơn vị nhận gia công, chế biến.
- Đối với vật liệu - công cụ dụng cụ do các đơn vị, cá nhân khác góp vốn liên doanh thì giá thực tế nhập kho là giá do hội đồng các bên tham gia đánh giá và chấp nhận.
Đối với phế liệu thu hồi nhập kho, giá thực tế của chúng là giá ước tính có thể sử dụng, có thể tiêu thụ được chúng (giá có thể bán được trên thị trường).
2.1.2. Giá thực tế xuất kho:
Đối với giá vốn thực tế xuất kho, khi xuất dùng vật liệu - công cụ dụng cụ thì kế toán phải tính toán chính xác giá vốn thực tế của vật liệu - công cụ dụng cụ dùng cho các nhu cầu, đối tượng khác nhau.
Để tính giá thực tế xuất kho của vật liệu - công cụ dụng cụ thì doanh nghiệp có thể sử dụng một trong các phương pháp tính toán giá vốn thực tế vật liệu - công cụ dụng cụ xuất kho như sau:
a. Tính theo đơn giá thực tế bình quân tồn đầu kỳ:
Theo phương pháp này thì giá thực tế vật liệu - công cụ dụng cụ xuất kho được tính trên cơ sở số lượng vật liệu - công cụ dụng cụ xuất cùng và đơn giá bình quân vật liệu - công cụ dụng cụ tồn đầu kỳ và được xác định như sau:
=
Đơn giá bình quân vật liệu - Giá vốn thực tế VL - CCDC tồn đầu kỳ công cụ dụng cụ tồn đầu kỳ Số lượng VLCCD tồn đầu kỳ
Số lượng vật liệu - công cụ dụngcụ xuất trong kỳ
Giá vốn thực tế vật liệu - Đơn giá bình quân vật công cụ dụng cụ xuất = liệu -công cụ dụng cụ x kho trong kỳ tồn đầu kỳ
Phương pháp này tiện lợi, đơn giản nhưng không chính xác, đặc biệt là trong tình trạng có sự biến động giá cả vật tư lớn.
b. Tính theo giá thực tế bình quân gia quyền: (Giá thực tế bình quân của số tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ).
Theo phương pháp này, giá thực tế vật liệu - công cụ dụng cụ xuất kho cũng được tính căn cứ vào số lượng xuất kho trong kỳ và đơn giá thực tế bình quân để tính như sau:
=
Đơn giá thực tế
Giá thực tế tồn đầu kỳ + Giá thực tế nhập trong kỳ
bình quân
Số lượng tồn đầu kỳ + Số lượng nhập trong kỳ
Đơn giá thực tế bình quân
Số lượng vật liệu - công cụ dụng cụ xuất kho
Giá thực tế vật liệu -
công cụ dụng cụ xuất kho
= x
Việc xác định đơn giá thực tế bình quân có thể thực hiện cho cả kỳ hạch toán hoặc có thể xác định đơn giá thực tế bình quân sau mỗi lần nhập.
c. Tính theo giá thực tế nhập trước - xuất trước (FIFO):
Theo phương pháp này, trước hết ta phải xác định đơn giá thực tế nhập kho của từng lần nhập. Sau đó căn cứ vào số lượng xuất ra để tính giá thực tế xuất kho theo nguyên tắc: Tính theo đơn giá thực tế nhập trước đối với lượng xuất kho thuộc lần nhập trước, số còn lại (Tổng số xuất kho - số đã xuất thuộc lần trước) được tính theo đơn giá thực tế lần nhập tiếp sau:
Như vậy, giá thực tế của vật liệu - công cụ dụng cụ tồn cuối kỳ chính là giá thực tế của số vật liệu - công cụ dụng cụ nhập kho thuộc các lần nhập sau cùng.
d. Tính theo giá thực tế nhập sau - xuất trước (LIFO):
Theo phương pháp này, ta phải xác định được đơn giá thực tế của từng lần nhập kho. Sau đó căn cứ số lượng xuất kho tính ra giá trị thực tế xuất kho theo nguyên tắc: Tính theo đơn giá thực tế của lần nhập sau cùng hiện có trong kho đối với số lượng xuất kho thuộc lần nhập sau cùng, số còn lại được tính theo đơn giá thực tế của các lần nhập trước đó.
Như vậy giá thực tế của vật liệu - công cụ dụng cụ tồn kho cuối kỳ lại là giá thực tế vật liệu - công cụ dụng cụ thuộc các lần nhập đầu kỳ.
e. Tính theo giá thực tế đích danh:
Phương pháp này được áp dụng đối với những loại vật liệu - công cụ dụng cụ có giá trị lớn, phương pháp này đòi hỏi doanh nghiệp phải theo dõi vật liệu - công cụ dụng cụ theo từng lô hàng. Giá thực tế xuất kho được tính căn cứ vào đơn giá thực tế vật liệu - công cụ dụng cụ nhập kho từng lô hàng và số lượng xuất kho.
Nhìn chung mỗi phương pháp tính giá thực tế vật liệu - công cụ dụng cụ xuất kho nêu trên đều có những ưu điểm và hạn chế riêng và có những điều kiện áp dụng nhất định. Các doanh nghiệp phải căn cứ vào đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng và trình độ nghiệp vụ của cán bộ kế toán cũng như yêu cầu quản lý để có thể áp dụng phương pháp tính giá thực tế đảm bảo nguyên tắc nhất quán trong các niên độ kế toán.
2.2. Đánh giá vật liệu - công cụ dụng cụ theo giá hạch toán:
Đối với những doanh nghiệp có các nghiệp vụ nhập - xuất diễn ra thường xuyên đối hàng ngày thì việc xác định giá thực tế vật liệu - công cụ dụng cụ hàng ngày thì công việc hạch toán trở lên phức tạp, tốn nhiều công sức và có khi không thực hiện được. Trong trường hợp này kế toán phải sử dụng giá hạch toán để tiến hành hạch toán chi tiết hàng ngày tình hình nhập - xuất - tồn kho vật liệu - công cụ dụng cụ.
Giá hạch toán vật liệu - công cụ dụng cụ là giá qui định thống nhất trong phạm vi xây dựng và được sử dụng ổn định trong một thời gian dài. Sử dụng giá hạch toán trong kế toán chi tiết vật liệu - công cụ dụng cụ sẽ làm giảm khối lượng công việc hàng ngày của kế toán.
Tuy nhiên, cuối kỳ hạch toán phải điều chỉnh giá hạch toán theo giá thực tế nhằm đảm bảo chính xác giá vật liệu - công cụ dụng cụ xuất kho bằng cách sử dụng hệ số giá vật liệu - công cụ dụng cụ.
H =
Giá thực tế tồn đầu kỳ + giá thực tế nhập trong kỳ
Giá hạch toán tồn đầu kỳ + giá hạch toán nhập trong kỳ
- T