Đề tài Trọng tài thương mại trong tưpháp quốc tế

Trong bối cảnh Việt Nam gia nhập tổchức Thương mại quốc tế, quan hệ thương mại quốc tếngày càng mởrộng, khảnăng phát sinh tranh chấp càng lớn, không chỉcác dịch vụpháp lý mà cảNhà nước cũng phải bước vào những vấn đề pháp lý không quen thuộc. Việc giải quyết tốt những tranh chấp phát sinh là một trong những yếu tốthúc đẩy quá trình phát triển kinh tếvà hội nhập, góp phần xây dựng môi trường kinh doanh an toàn, bình đẳng, tạo tâm lý tốt cho các nhà kinh doanh và đầu tư. Thếnhưng, một dịch vụpháp lý quan trọng trong hoạt động thương mại quốc tếlà trọng tài thương mại vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu hội nhập nói trên. Hiện nay, vấn đềtrọng tài thương mại nhất là trong lĩnh vực tư pháp quốc tế đang thiếu trầm trọng cảlượng và chất. Vấn đềcần đặt ra hiện nay là hoàn thiện hệthống pháp lý của Việt Nam vềtrọng tài thương mại trong tư pháp quốc tếsao cho phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước Ởnhững nước có nền kinh tếthịtrường phát triển mạnh, việc giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực kinh tếthương mại bằng trọng tài là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp rất phổbiến. Với chủtrương phát triển kinh tế và hội nhập, yêu cầu đổi mới toàn diện và sâu sắc các phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế, trong đó có hình thức trọng tài, là vấn đềcấp bách. Tuy nhiên, nhìn chung, cho đến nay, các văn bản pháp luật hiện hành chưa thật sựtạo nên một khung pháp lý đầy đủ, thông thoáng và phù hợp với các nguyên tắc của pháp luật trọng tài thương mại quốc tế. Đồng thời, các văn bản bản này còn chứa nhiều bất cập so với thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Việt Nam

pdf56 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2133 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Trọng tài thương mại trong tưpháp quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MSSV HỌ TÊN TÊN ĐỀ TÀI ĐIỂM 5044047 Trương Văn Mạnh Trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế. 8.5 Giáo viên hướng dẫn: Th.s Bùi Thị Mỹ Hương GV: Bộ môn Kinh doanh thương mại DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA LUẬT ---oOo--- KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NIÊN KHÓA 2004 - 2008 Đề tài: TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ Cần Thơ, 5/2008 Sinh viên thực hiện: Trương Văn Mạnh Lớp: Luật Thương Mại – K30 MSSV: 5044047 I.Văn bản quy phạm pháp luật: 1. Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội số 08/2003/PL-UBTVQH11 ngày 25 tháng 02 năm 2003 về trọng tài thương mại. 2. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004. 3. Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004. 4. Nghị quyết số 05/2003/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh Trọng tài Thương mại. 5. Công ước New York về việc công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài năm 1958. 6. Luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế (UNCITRAL) năm 1976. II. Tài liệu nghiên cứu lý luận: 1. Những điều cần biết về tố tụng trọng tài; Luật sư. Phan Thông Anh; Tạp chí Dân chủ và pháp luật; NXB Bộ tư pháp; Số chuyên đề trọng tài thương mại quốc tế, 2005. 2. Quyền lựa chọn pháp luật áp dụng của các cá nhân, tổ chức trong lĩnh vực tư pháp quốc tế; ThS. Nguyễn Bá Chiến; Tạp chí Nhà nước và pháp luật; NXB Viện Nhà nước và pháp luật, Số 02, 2006. 3. Bài giảng Tư pháp quốc tế, Diệp Ngọc Dũng – Cao Nhất Linh, Khoa Luật, Trường Đại học Cần Thơ, 2002. 4. Pháp lệnh trọng tài thương mại Việt Nam với luật mẫu về trọng tài thương mại của UNCITRAL, TS. Trần Thái Dương, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Số 01, 2004. 5. Tranh chấp thương mại xử bằng trọng tài: Tại sao không?, Th. Dương, Báo kinh tế và đô thị, 2007. 6. Trọng tài thương mại Việt Nam trong tiến trình đổi mới, Dương Văn Hậu, NXB Chính trị quốc gia, 1999. 7. Giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế, Phan Huy Hồng, Báo Pháp luật Việt Nam, Chuyên đề số 02, 2007. 8. Thủ tục giải quyết các yêu cầu liên quan đến hoạt động của trọng tài thương mại Việt Nam, TS. Phan Chí Hiếu, Tạp chí Luật học, Số Đặc san về Bộ luật tố tụng dân sự, 2005. 9. Về những điểm mới của Pháp lệnh Trọng tài thương mại, Nguyễn Hồng Tuyến, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, 2003. 10. Pháp lệnh Trọng tài thương mại – những thử thách phía trước, LS Trần Hữu Huỳnh, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 04, 2003. 11. Trọng tài thương mại – Phương thức mới giải quyết hiệu quả các tranh chấp thương mại, Khắc Kiên, Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, 2007. 12. Về thẩm quyền của Trọng tài thương mại và những lưu ý trong hoạt động thụ lý các tranh chấp có thoả thuận trọng tài, ThS. Nguyễn Thị Hằng Nga, Tạp chí Luật học, Số 7, 2006. 13. Những điểm khác biệt về pháp luật trọng tài thương mại của Việt Nam so với các nước trên thế giới, ThS. Nguyễn Đình Thơ, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 09, 2006. 14. Một số ý kiến về Pháp lệnh trọng tài thương mại, Nguyễn Thái Phúc, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 02, 2003. 15. Về các giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ tố tụng trọng tài thương mại, ThS. Nguyễn Thị Hoài Phương, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Số 03, 2006. 16. Về các giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ tố tụng trọng tài thương mại, ThS. Nguyễn Thị Hoài Phương, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Số 03, 2006. 17. Công nhận và thi hành các quyết định của trọng tài thương mại tại Việt Nam, TS. Nguyễn Trung Tín, NXB Tư pháp, 2005. LỜI CẢM ƠN! Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thạc sĩ Bùi Thị Mỹ Hương, người đã tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp này. Đồng thời, tôi muốn gửi lời ảm ơn đến quý thầy cô trong Khoa Luật đã tạo nền tảng kiến thức cho tôi trong suốt khóa học. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Thư viện Khoa Luật Trường Đại học Cần Thơ, Thư viện Thành phố Cần Thơ đã giúp tôi có được những tài liệu tham khảo có giá trị trong quá trình thực hiện đề tài. Cuối cùng, tôi muốn gửi lời cảm ơn chân thành gia đình và bạn bè - những người đã động vên, giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp. Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn! Cần Thơ, tháng 5 năm 2008 Sinh viên thực hiện Trương Văn Mạnh LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại quốc tế, quan hệ thương mại quốc tế ngày càng mở rộng, khả năng phát sinh tranh chấp càng lớn, không chỉ các dịch vụ pháp lý mà cả Nhà nước cũng phải bước vào những vấn đề pháp lý không quen thuộc. Việc giải quyết tốt những tranh chấp phát sinh là một trong những yếu tố thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế và hội nhập, góp phần xây dựng môi trường kinh doanh an toàn, bình đẳng, tạo tâm lý tốt cho các nhà kinh doanh và đầu tư. Thế nhưng, một dịch vụ pháp lý quan trọng trong hoạt động thương mại quốc tế là trọng tài thương mại vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu hội nhập nói trên. Hiện nay, vấn đề trọng tài thương mại nhất là trong lĩnh vực tư pháp quốc tế đang thiếu trầm trọng cả lượng và chất. Vấn đề cần đặt ra hiện nay là hoàn thiện hệ thống pháp lý của Việt Nam về trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế sao cho phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước1. Ở những nước có nền kinh tế thị trường phát triển mạnh, việc giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế thương mại bằng trọng tài là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp rất phổ biến. Với chủ trương phát triển kinh tế và hội nhập, yêu cầu đổi mới toàn diện và sâu sắc các phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế, trong đó có hình thức trọng tài, là vấn đề cấp bách. Tuy nhiên, nhìn chung, cho đến nay, các văn bản pháp luật hiện hành chưa thật sự tạo nên một khung pháp lý đầy đủ, thông thoáng và phù hợp với các nguyên tắc của pháp luật trọng tài thương mại quốc tế. Đồng thời, các văn bản bản này còn chứa nhiều bất cập so với thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Việt Nam. Vấn đề trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế được điều chỉnh chủ yếu bởi Pháp lệnh số 08/2003/PL-UBTVQH11, và một số văn bản khác có liên quan như: Nghị quyết số 05/2003/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định của pháp lệnh trọng tài thương mại, Bộ luật tố tụng dân sự 2004,… Có thể nói, Pháp lệnh về trọng tài thương mại đã được ban hành hơn bốn năm, đã trở nên lỗi thời không còn phù hợp với tình hình mới của đất nước. Một mặt, các quy định về trong tài thương mại trong tư pháp quốc tế chưa được quy định thành một luật riêng, các quy định còn tản mạn ở các văn bản pháp luật khác nhau nên không thống nhất; mặt khác, các quy định giữa pháp luật Việt Nam và quốc tế về trọng 1Giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế, Phan Huy Hồng, Báo Pháp luật Việt Nam, Chuyên đề số 02, 2007. tài thương mại còn nhiều vấn đề chưa tương thích, đã gây khó khăn cho hoạt động của trọng tài khi tham gia giải quyết các vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Nhìn chung, pháp luật về trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế hiện nay còn nhiều bất cập và trở thành rào cản đối với hoạt động của trọng tài. Do đó, việc nghiên cứu và phân tích những vướng mắc về vấn đề trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế là một vấn đề cấp bách nhằm góp phần tìm ra giải pháp cho vấn đề này. Đó chính là lí do người viết chọn nội dung này làm trọng tâm nghiên cứu của đề tài khóa luận: “Trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế”. 2. Mục tiêu nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu nhằm tìm hiểu một cách tổng quát các quy định hiện hành của Việt Nam về vấn đề trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế, đồng thời phân tích những điểm còn vướng mắc trong các quy định đó. Qua đề tài này, người viết hy vọng góp phần nhỏ trong việc tìm ra giải pháp giải quyết vấn đề này từ việc phân tích các vấn đề tồn tại trong các quy định của pháp luật Việt Nam. 3. Nội dung nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề cơ bản bao gồm những nội dung cụ thể sau: Lời nói đầu Chương 1: Tổng quan về vấn đề trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế. Chương 2: Một số vấn đề về trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế theo pháp luật Việt Nam. Chương 3: Một số vướng mắc trong quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế. Kết luận. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, người viết vận dụng phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp phân tích luật viết, so sánh, tổng hợp khi xem xét những mặt còn hạn chế của pháp luật Việt Nam so với các quy định của quốc tế về vấn đề trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế. 5. Phạm vi nghiên cứu Do hạn chế về kiến thức pháp luật, nguồn tài liệu thực tiễn về các lĩnh vực liên quan cũng như trong khuôn khổ của đề tài khóa luận nên người viết chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản mang tính chất gợi mở cũng như những hạn chế trong các quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế. Do đó, sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Rất mong nhận đượ sự phê bình góp ý của quý thầy cô, các bạn sinh viên và những người quan tâm đến đề tài, để tôi rút kinh nghiệm và hiểu rõ hơn về vấn đề này. CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ 1.1. Khái quát chung về trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế 1.1.1. Khái niệm 1.1.1.1. Trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế Trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế khác với trọng tài thương mại quốc gia. Trọng tài thương mại của quốc gia được thành lập theo pháp luật quốc gia đó nhằm giải quyết các vấn đề tranh chấp trong phạm vi quốc gia. Trong khi đó, trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế là trọng tài do các bên lựa chọn hoặc thành lập nhằm giải quyết một tranh chấp nhất định nào đó trong thương mại quốc tế. Tranh chấp này có thể có một bên hoặc các bên là người nước ngoài; hoặc căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ có tranh chấp phát sinh ở nước ngoài hoặc tài sản có liên quan ở nước ngoài. Các bên trong quan hệ phát sinh tranh chấp có thể thỏa thuận chọn trọng tài của quốc gia mà một trong các bên mang quốc tịch hoặc của quốc gia thứ ba để giải quyết. Theo pháp luật Việt Nam, việc giải quyết tranh chấp có yếu tố nước ngoài được quy định như sau: Vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài theo thoả thuận của các bên, có thể giải quyết tại Hội đồng Trọng tài do Trung tâm Trọng tài tổ chức hoặc tại Hội đồng Trọng tài do các bên thành lập theo quy định của Pháp lệnh trọng tài. 1.1.1.2. Thỏa thuận trọng tài Về lý thuyết, thuật ngữ thỏa thuận trọng tài có thể đề cập tới hai loại thỏa thuận là: điều khoản trọng tài, có trong hợp đồng ký kết giữa các bên; và thỏa thuận trọng tài, các bên có thể lập vào thời điểm tranh chấp phát sinh và trong trường hợp các bên không quy định điều khoản trọng tài trong hợp đồng. Theo khoản 2 Điều 2 Pháp lệnh trọng tài thương mại: “Thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa các bên cam kết giải quyết bằng trọng tài các vụ tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh trong hoạt động thương mại” 2. Trong khi đó, ở những nước theo luật châu Âu lục địa, cả hai khái niệm trên đều được định nghĩa rõ ràng. Ví dụ: Ở Pháp, điều khoản trọng tài được gọi là “la clause compromissoire” trong khi thoả thuận trọng tài thì gọi là “le compromis d'arbitrage”. 2 Khoản 2, Điều 2, Pháp lệnh số 08/2003/PL-UBTVQH11 ngày 25 tháng 02 năm 2003 về trọng tài thương mại. Hiệu lực của một thỏa thuận trọng tài đặc biệt quan trọng. Nhìn chung, các nguyên tắc pháp lý được áp dụng để xác định hiệu lực của thỏa thuận trọng tài là những nguyên tắc được sử dụng trong việc xác định hiệu lực của một hợp đồng thương mại thông thường; bởi thực tế thỏa thuận trọng tài thường dưới dạng một điều khoản của hợp đồng thương mại. Điều khoản trọng tài thường được điều chỉnh bởi luật điều chỉnh những điều khoản còn lại của hợp đồng và hiệu lực của điều khoản trọng tài sẽ được xem xét theo luật đó. Tuy nhiên, có thể điều khoản trọng tài được điều chỉnh bởi một luật trong khi phần còn lại của hợp đồng được điều chỉnh bởi một luật khác. Thông thường, vấn đề về hiệu lực của một thỏa thuận trọng tài được một trong các bên nêu ra vào một giai đoạn nào đó trong quá trình tố tụng trọng tài. Khi bắt đầu tố tụng trọng tài, một bên có thể tìm kiếm khước từ thỏa thuận trọng tài với lý do thỏa thuận đó không có hiệu lực. Bên bị tố tụng trọng tài chống lại sẽ là bên đưa ra khước từ. Sự khước từ có thể đưa ra chính ủy ban trọng tài hoặc một toà án có thẩm quyền xem xét quyết định. 1.1.2. Đặc điểm 1.1.2.1. Phát sinh khi có thỏa thuận Một điều khoản trọng tài soạn thảo không rõ ràng, hoặc không đầy đủ sẽ đi ngược lại sự mong đợi của các bên, những người phải nhờ đến trọng tài. Giống như tòa án quốc gia, trọng tài cũng là một phương thức tài phán giải quyết tranh chấp thương mại. Nhưng trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp riêng tư và bí mật, dựa trên thỏa thuận của các bên. Nguyên tắc chung là “không có thỏa thuận giải quyết bằng phương thức trọng tài, không có tố tụng trọng tài”. Trừ một số ngoại lệ, các bên phải thỏa thuận trong hợp đồng là sử dụng phương thức này, và xác định chi tiết các quy tắc điều chỉnh tố tụng (chỉ định trọng tài viên, v.v...) hoặc dựa vào các quy tắc tố tụng trọng tài của một tổ chức trọng tài thường trực. Ngoài việc thỏa thuận giải quyết tranh chấp phát sinh bằng trọng tài, các bên còn có thể thỏa thuận về các vấn đề như: luật áp dụng, thời gian, địa điểm giải quyết tranh chấp, ngôn ngữ dùng trong xét xử,… 1.1.2.2. Thủ tục giải quyết đơn giản Nhìn chung, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có thủ tục giải quyết đơn giản, đảm bảo giải quyết nhanh chóng các tranh chấp, tiết kiệm thời gian của các bên. Tố tụng trọng tài được đánh giá là linh hoạt, đảm bảo tốt hơn quyền định đoạt của các bên trong vụ tranh chấp, cụ thể là: tự quyết định chọn hình thức trọng tài là ad-hoc hay thể chế, tổ chức trọng tài cũng như trọng tài viên mà mình tin tưởng, thời gian, địa điểm giải quyết,… Trong tố tụng trọng tài, các bên có thể tự do thay đổi thủ tục theo mong muốn và yêu cầu của mình trong giới hạn của luật áp dụng liên quan. Thông thường, ủy ban trọng tài sẽ phải tính đến mong muốn và nguyện vọng của các bên khi tiến hành tố tụng. Trong trọng tài quốc tế, tính độc lập của các bên được thể hiện rất rõ. Các bên tự do thiết lập thủ tục tố tụng bằng cách dẫn chiếu quy tắc tố tụng trọng tài sẵn có hoặc soạn thảo quy tắc của riêng họ. Các bên có thể chọn trọng tài viên, ấn định thời hạn hoặc để bên thứ ba ấn định thời hạn. Các bên tự do thỏa thuận về luật áp dụng cho nội dung và luật áp dụng cho thủ tục trọng tài. Các bên cũng tự do xác định ngôn ngữ dùng trong xét xử trọng tài và trong tài liệu đệ trình, phương pháp thu thập chứng cứ và lịch trình tố tụng. Tuỳ thuộc vào thỏa thuận giữa các bên, cách tiến hành tố tụng trọng tài có thể khác hoặc không khác cách tiến hành tố tụng tại một toà án quốc gia. Có thể nhận thấy rằng, các quy tắc tố tụng trọng tài thường linh hoạt hơn và ít thủ tục hơn các quy tắc của pháp luật quốc gia. Hơn nữa, do phán quyết của trọng tài là chung thẩm và bên thua kiện không được chống án, vì trọng tài thương mại chỉ đứng ra xét xử khi cả hai bên đương sự chấp nhận và thành lập ra để xét xử 3. Việc chấp nhận và thành lập ra trọng tài thể hiện hai bên đương sự tự nguyện và tin tưởng vào sự công bằng của trọng tài thể hiện ở phán quyết của cơ quan xét xử này. Vì vậy, khi trọng tài ra phán quyết cuối cùng, nó có giá trị chung thẩm và bắt buộc thi hành, trừ trường hợp quyết định trọng tài bị tòa án quốc gia hủy theo quy định của pháp luật. Các bên đương sự không phải đối mặt với những thủ tục chống án kéo dài tốn nhiều thời gian, công sức như trong tố tụng tòa án. Giải quyết nhanh chóng các tranh chấp phát sinh luôn được sự ưa chuộng của các doanh nghiệp trong nến kinh tế thị trường hiện nay. 1.1.2.3. Trọng tài không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố chính trị Bên cạnh những ưu điểm trên, trọng tài thương mại còn được lựa chọn bởi tính độc lập của nó với các yếu tố chính trị. Trọng tài không đại diện cho quyền lực nhà nước do vậy rất phù hợp để giải quyết các tranh chấp mà các bên có quốc tịch khác nhau (toà án nói là được độc lập nhưng cũng dễ bị chi phối bởi quyền lợi dân tộc, do đó các bên tranh chấp có quốc tịch khác nhau thường không thích 3 Bài giảng Tư pháp quốc tế, Diệp Ngọc Dũng – Cao Nhất Linh, Khoa Luật, Trường Đại học Cần Thơ, 2002. chọn toà án của nhau). Họ thường thích chọn trọng tài, nhất là trọng tài của nước thứ ba để đảm bảo tính khách quan trong việc giải quyết tranh chấp. Khi giải quyết tranh chấp, trọng tài thương mại có thể áp dụng luật của một quốc gia nào đó do các bên thỏa thuận hoặc không áp dụng luật của bất kỳ quốc gia nào, trọng tài có thể đưa ra phán quyết dựa trên tập quán thương mại quốc tế. Vì vậy, các bên trong vụ tranh chấp có thể yên tâm khi phán quyết đưa ra dựa trên những căn cứ mà họ cho rằng có lợi nhất cho mình. 1.1.2.4. Xét xử không công khai Có thể thấy, tính bí mật áp dụng cho trọng tài thường bảo đảm sự tĩnh lặng hơn trong tố tụng so với một toà án quốc gia, nơi mà những phiên xét xử là công khai. Nguyên tắc xét xử không công khai, tức là không ai có quyền tham dự phiên họp xét xử nếu không được sự đồng ý của các bên, đồng thời, phán quyết trọng tài cũng không được công bố rộng rãi. Cơ chế này đảm bảo bí mật kinh doanh và uy tín nghề nghiệp cho các thương nhân có liên quan tới vụ tranh chấp. Có thể nói đây là một trong những đặc điểm thu hút ngày càng nhiều doanh nhân lựa chọn trọng tài là phương thức giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động của mình. Thông thường, các doanh nghiệp không muốn cho các đối tác khác biết về tình hình kinh doanh của họ nhất là khi đang xảy ra tranh chấp. Điều đó sẽ ít nhiều ảnh hưởng đến việc kinh doanh cũng như uy tín của doanh nghiệp. Việc xét xử công khai, một mặt có thể tiết lộ bí mật kinh doanh của doanh nghiệp; mặt khác việc đưa tin về vụ tranh chấp của báo chí đôi khi không khách quan. Vì vậy, khi xảy ra tranh chấp họ luôn mong muốn giải quyết nhanh chóng và hạn chế đến mức thấp nhất việc đồn thổi những thông tin đó ra bên ngoài. Đáp ứng được yêu cầu đó, trọng tài trở thành phương thức giải quyết được lựa chọn. 1.1.2.5. Phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm Về nguyên tắc, phán quyết trọng tài có giá trị chung thẩm và bên thua kiện không được chống án. Cơ hội để bác phán quyết trọng tài thường bị giới hạn bởi các thiếu sót thủ tục căn bản. Phán quyết chung thẩm là phán quyết cuối cùng, giải quyết chung thẩm mọi vấn đề được chuyển cho ủy ban trọng tài. Phán quyết có tác dụng phân xử giữa các bên, đồng thời phán quyết cuối cùng sẽ chấm dứt tranh chấp giữa các bên. Một khi phán quyết được ban hành, ủy ban trọng tài sẽ hết trách nhiệm bởi ủy ban trọng tài đã hoàn thành nhiệm vụ của mình. Các phán quyết của trọng tài sẽ đương nhiên có hiệu lực thi hành nếu như bên thua kiện không yêu cầu tòa án xem xét hủy phán quyết trọng tài. Cần lưu ý là tòa án chỉ có quyền hủy phán quyết trọng tài theo thủ tục hủy phán quyết trọng tài, trong đó tòa án không xem xét lại sự việc mà chỉ xem xét việc tuân thủ các điều kiện và thủ tục tố tụng. Một khi phán quyết của trọng tài có hiệu lực, nó có giá trị bắt buộc thi hành như một bản án. Nếu, bên thua kiện không tự nguyện thi hành thì bên kia có quyền yêu cầu cơ quan có trách nhiệm thi hành án của quốc gia đảm bảo việc thi hành. 1.2. Cơ sở lý luận về vấn đề trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế 1.2.1. Lược khảo về trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế các nước trên thế giới Trên thế giới, nhất là ở những quốc gia có nền kinh tế phát triển, giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài là hình thức được các doanh nghiệp ưa chuộng nhất. Vì
Tài liệu liên quan