Đề tài Tự do hóa tài khoản vốn và ổn định khu vực tài chính ở Việt Nam

Trong bối cảnh hiện nay, vấn đề tự do hóa tài chính từng bước hội nhập kinh tế khu vực và thế giới không còn là sự lựa chọn của bất kỳ một quốc gia nào, mà nó đang là xu thế tất yếu bắt buộc các quốc gia phải thực hiện để đưa nền kinh tế của quốc gia mình đi vào quỹ đạo chung của kinh tế thế giới. Do đó, để đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển kịp với các quốc gia trong khu vực thì một trong những vấn đề quan trọng là từng bước cải cách hệ thống tài chính, hoàn thiện hệ thống ngân hàng theo hướng hội nhập. Để mọi người có cái nhìn tổng quát hơn về vấn đề này nhóm chúng em đã tìm hiểu,nghiên cứu chủ đề:”Tự do hóa tài khoản vốn và ổn định khu vực tài chính ở Việt Nam” dựa vào các tài liệu và các trang web sau: 1) Giáo trình tài chính học Chúng em xin trình bày bài nghiên cứu của cả nhóm dưới đây! Bài nghiên cứu của chúng em chắc chắn vẫn còn nhiều thiếu xót,mong cô góp ý để chúng em hoàn thiện hơn! Chúng em xin chân thành cảm ơn!

doc37 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1285 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tự do hóa tài khoản vốn và ổn định khu vực tài chính ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Học viện Ngân hàng -----š›&š›----- ĐỀ TÀI “Tự do hóa tài khoản vốn và ổn định khu vực tài chính ở Việt Nam” GV hướng dẫn: Cô Đào Minh Ngọc Trong bối cảnh hiện nay, vấn đề tự do hóa tài chính từng bước hội nhập kinh tế khu vực và thế giới không còn là sự lựa chọn của bất kỳ một quốc gia nào, mà nó đang là xu thế tất yếu bắt buộc các quốc gia phải thực hiện để đưa nền kinh tế của quốc gia mình đi vào quỹ đạo chung của kinh tế thế giới. Do đó, để đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển kịp với các quốc gia trong khu vực thì một trong những vấn đề quan trọng là từng bước cải cách hệ thống tài chính, hoàn thiện hệ thống ngân hàng theo hướng hội nhập. Để mọi người có cái nhìn tổng quát hơn về vấn đề này nhóm chúng em đã tìm hiểu,nghiên cứu chủ đề:”Tự do hóa tài khoản vốn và ổn định khu vực tài chính ở Việt Nam” dựa vào các tài liệu và các trang web sau: Giáo trình tài chính học (cổng thông tin của Bộ kế hoạch va đầu tư) (cổng thông tin của Bộ Tài Chính) Chúng em xin trình bày bài nghiên cứu của cả nhóm dưới đây! Bài nghiên cứu của chúng em chắc chắn vẫn còn nhiều thiếu xót,mong cô góp ý để chúng em hoàn thiện hơn! Chúng em xin chân thành cảm ơn! Phần I:Lý thuyết chung I. Kiềm chế tài chính Kiềm chế tài chính là khái niệm để chỉ luật và chính sách của chính phủ hoặc những biện pháp phi thị trường nhằm ngăn chặn các tổ chức trung gian tài chính của một kinh nền kinh tế vận hành tối đa năng lực. Các chính sách dùng trong việc kiềm chế tài chính bao gồm: trần lãi suất, yêu cầu về  tỷ lệ thanh khoản, nhu cầu dự trữ cao của các ngân hàng, kiểm soát vốn, ngăn chặn giới hạn việc gia nhập khu vực tài chính , trần tín dụng hoặc những biện pháp hạn chế phân phối tín dụng, quyền sở hữu hoặc chi phối nhà nước đối với các ngân hàng. Tác động của kiềm chế tài chính Kiềm chế tài chính dẫn đến việc phân phối kém hiệu quả ngồn vốn, làm tăng chi phí tài chính trung gian và tỷ lệ lãi từ tiết kiệm thấp, rõ ràng trên lý thuyết điều đó làm cản trở sự phát triển.Những phát hiện dựa trên kinh nghiệm về tính hiệu quả của việc xóa bỏ kiềm chế tài chính, ví dụ tự do hóa tài chính đã ủng hộ quan điểm này. Những ảnh hưởng không tốt từ kiềm chế tài chính lên sự phát triển của nền kinh tế  không hiển nhiên có nghĩa là những quốc gia nên lựa chọn chính sách phát triển thị trường tài chính tự do và loại bỏ tất cả nguyên tắc và sự kiểm soát đã tạo nên kiềm chế tài chính. Nhiều nước đang phát triển đã giải phóng thị trường tài chính trải qua những cuộc một phần vì những cú sốc bên ngoài do tự do tài chính gây ra. Tự do tài chính có thể tạo ra bất ổn trong ngắn hạn và tăng trưởng trong dài hạn (Kaminsky and Schmukler, 2002). Đồng thời, do thị trường không hoàn hảo và tính bất đối xứng của thông tin, việc xóa bỏ tất cả quy định tài chính công cộng có thể không tạo ra một môi trường tối ưu cho phát triển tài chính. Một biện pháp thay thế đối với việc giám sát tài chính có thể là một hệ thống các quy định mới nhằm đảm bảo cạnh tranh và những quy định cũng như việc giám sát cẩn trọng. II.Tự do hóa tài chính Khái niệm về tự do hóa tài chính: Tự do hóa tài chính là quá trình giảm thiểu và cuối cùng là hủy bỏ sự kiểm soát của nhà nước đối với hoạt động của hệ thống tài chính quốc gia làm cho hệ thống này hoạt động tự do hơn và hiệu quả hơn theo qui luật thị trường Bản chất của tự do hóa tài chính: Bản chất của tự do hóa tài chính là hoạt động tài chính theo cơ chế nội tại vốn có của thị trường chuyên vai trò điều tiết tài chính từ chính phủ sang thi trường ,muc tiêu là tìm ra sự phối hợp có hiệu quả giữa nhà nước và thị trường trong việc thưc hiện các mục tiêu nhiệm vụ kịnh tế xã hội .do đó kết quả của tự do hóa tài chính thường được thể hiện bằng tỷ số giữa tiền mở rộng trên thu nhập quốc dân Nội dung của tự do hóa tài chính Cải cách hệ thống tài chính Loại bỏ tín dụng chỉ định với lãi suất thấp Cổ phần hóa các NHTM nhà nước Tháo dỡ những quy định liên quan đến đồng ngoại tệ và nới lỏng hàng rào chình thức để hợp nhất thị trường Thực hiện đồng tiền chuyển đổi và đẩy mạnh tự do hóa tài khoản vốn với nhiều cấp độ khác nhau Tác động của tự do hóa tài chính lên nền kinh tế 1.1. Tự do hoá tài chính tác động đến quá trình chuyển tiết kiệm cho đầu tư Tự do tài chính sẽ đẩy mạnh việc sử dụng vốn nhàn rỗi của tư nhân vào tiến trình đầu tư, bởi vì khi đó, các ràng buộc về thủ tục vay vốn sẽ được đơn giản hoá, lãi suất huy động tương đối thấp do sự cạnh tranh của các tổ chức đầu tư tài chính. Tuy nhiên, một nhược điểm nổi bậc của quá trình luân chuyển tiền tệ là không thể chuyển hết toàn bộ số tiền tiết kiệm huy động được cho đầu tư, mà nó bị tiêu hao cho các giao dịch phát sinh và còn đọng lại trong các tổ chức kinh doanh tài chính (dưới dạng dự trữ bắt buộc, tiền mặt chờ luân chuyển...). Hơn nữa, tự do hoá tài chính bằng hình thức mở rộng các chi nhánh của các ngân hàng thương mại và giảm lượng dự trữ bắt buộc sẽ kích thích sự cạnh tranh trong khu vực kinh doanh tài chính, điều này làm giảm các khoản chi phí giao dịch, chi phí quản lý và đặc biệt là giảm sự khác biệt giữa lãi suất cho vay và lãi suất vay vốn. Chính điều này làm tỷ trọng tiền tiết kiệm dành cho đầu tư (f) ngày càng gia tăng 1.2. Tự do hoá tài chính góp phần nâng cao hiệu quả việc phân bổ nguồn lực đầu tư Bằng cách chuyển nguồn vốn vào các dự án đầu tư có khả năng sinh lời cao, tự do hoá tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả vốn đầu tư toàn xã hội. Quá trình tự do hoá tài chính đòi hỏi các tổ chức tín dụng phải làm việc thật sự cật lực nhằm xác định những dự án nào là những dự án mang lại khả năng sinh lợi cao, để quyết định việc cho vay vốn trong khoảng thời gian ngắn nhất với thủ tục nhanh gọn nhất. Như vậy, do áp lực cạnh tranh ngày càng tăng, các định chế tài chính ngày càng nâng khả năng làm việc. Kết quả là việc đánh giá, thẩm định dự án được thực hiện nghiêm túc và đạt hiệu quả cao hơn. Chính vì vậy, vốn đầu tư có thể được đưa vào những dự án mang tính sinh lợi và có hiệu quả cao. Hơn nữa, quá trình tự do tài chính sẽ giúp cho các cá nhân dễ dàng tiếp cận được các nguồn tín dụng. Thông qua việc kinh doanh hoặc học tập bằng các nguồn tín dụng vay mượn được, mỗi cá nhân có thể nâng cao kiến thức của mình. Ngoài ra, hiệu ứng lan tỏa (spillover/external effects) về “vốn tri thức” sẽ làm cho mặt bằng kiến thức của xã hội không ngừng nâng cao. Chính vì vậy, chất lượng nguồn nhân lực của xã hội được cải thiện một cách đáng kể. 1.3. Tự do hoá tài chính và tiết kiệm Việc tự do hoá tài chính sẽ đảm bảo cho lãi suất thực được dương bởi vì sự cân bằng giữa cung và cầu vốn trên thị trường tài chính. Do sự tự điều chỉnh bởi quy luật cung và cầu, lãi suất tiền gửi vào trong các tổ chức tín dụng loại trừ đi tốc độ lạm phát sẽ luôn luôn dương, khi đó người cho vay sẽ an tâm hơn khi gửi tiền vào các tổ chức tín dụng. Chính vì điều này sẽ thu hút vốn nhàn rỗi trong dân chúng, kết quả là làm gia tăng tín dụng cho các dự án đầu tư, kích thích tăng trưởng kinh tế. 1.4 tự do hóa tài chính gây bất ổn vĩ mô Dòng vốn chảy vào làm nâng giá nội tệ tăng lợi nhuận khu vực phi ngoại thương lợi nhuận khu vực ngoại thương giảm tăng thâm hụt tài khoản vãng lai tài trợ bằng nước ngoài dẫn đến: bong bóng tài sản, thâm hụt thương mại, lạm phát, chính sách tiền tệ thiếu tự chủ 1.5 tự do hóa tài chính làm giảm chi phí giao dịch Tự do hoá tài chính sẽ làm tăng thêm chất lượng các dịch vụ tài chính được cung cấp (do sự độc quyền bị loại bỏ). Người tiêu dùng có thể được hưởng những sản phẩm dịch vụ mới, đa dạng, tiện ích với chi phí và thời gian ít nhất. Tự do hoá các dịch vụ tài chính đem đến nhiều cơ hội cho việc chuyển giao công nghệ và làm giảm thiểu chi phí giao dịch 1.6 Làm cải thiện tính minh bạch “Tự do hóa” tài chính là quá trình nới lỏng những hạn chế về các quyền tham gia, cũng như tiếp cận dịch vụ trên TTTC cho các bên kiếm tìm lợi ích trong phạm vi kiểm soát được của Pháp Luật. Tự do hóa tài chính do đó trước hết luôn gắn chặt với năng lực minh bạch và khả năng kiểm soát khả năng thanh tra giám sát các dòng chu chuyển vốn trong nền kinh tế cũng như chu chuyển vốn giữa trong nước với nước ngoài của NHTW để thúc đẩy nền kinh tế nói chung, các chủ thể kinh tế nói riêng ngày càng phát triển một cách vững chắc. Điều đó cũng có nghĩa: không thể có cái gọi là tài chính tự do hoàn toàn ở bất kỳ quốc gia hay tổ chức kinh tế quốc tế nào. Phân loại : Tự do thị trường tài chính trong nước gồm: - Thị trường tiền tệ: là thị trường chỉ có những công cụ ngắn hạn (kỳ hạn thanh toán dưới một năm) được mua bán. Hàng hóa mua bán trên thị trường tiền tệ có tính thanh khoản rất cao. Chứng khoán ngắn hạn có giao động giá trị nhỏ hơn với các chứng khoán dài hạn, do vậy chúng là những khoản đầu tư an toàn. - Thị trường vốn: là thị trường trong đó diễn ra việc mua bán các công cụ nợ dài hạn như cổ phiếu, trái phiếu Thị trường vốn gồm ba bộ phận: + thị trường cổ phiếu – chiếm tỷ lệ lớn trong thị trường vốn + Các khoản vay thế chấp + Thị trường trái phiếu dài hạn của các công ty Tự do hóa tài khoản vốn Là việc cho tự do tiến hành chuyển đổi các trong nước thành tài sản tài chính ở nước ngoài và ngược lại theo quy định. Tức là tháo dỡ những ràng buộc: + Đối với người không cư trú đầu tư vào thị trường tài chính trong nước + Đối với người cư trú đầu tư ra thị trường quốc tế Kết cấu tài khoản vốn +Nguồn vốn FDI +Nguồn vốn PI +Vay nợ Ích lợi của việc tự do hóa TKV +Lợi ích tĩnh: Tái phân bổ vốnđầu tư từ nước giàu về vốn nhưng có suất sinh lợi thấp sang nước nghèo về vốn nhưng có suất sinh lợi cao. +Lợi íchđộng: Tạo ra cơ hội đa dạng hóa rủi ro (tài sản trong nước có thể được kết hợp trong một danh mục đầu tư quốc tế rộng lớn), từ đó giảm chi phí vốn cho các doanh nghiệp trong nước Bất cập:dẫn đến hiện tượng”Bay hơi TKV” Tự do hóa + Chính sách tiền tệ tồi = Bay hơi Chính sách kinh tế tồi: Bội chi ngân sách nhà nước cao Lạm phát cao Đồng tiền định giá thực cao Các định chế yếu kém Nếu bội chi ngân sách quá cao sẽ dẫn đến tình trạng thâm hụt NSNN, để bù đắp thâm hụt phải huy động từ nguồn vay trong nước và vay nợ nước ngoài, làm cho khoản nợ phải trả hàng năm tăng lên trong tổng chi ngân sách. Kết quả là đưa đến kích thích tiêu dùng quá lớn thì ở chu kỳ sau sẽ tăng tỷ lệ lạm phát mà lạm phát cao lại làm giảm đầu tư và hệ quả tất yếu là giảm mục tiêu tăng trưởng. Đồng tiền định giá thực cao, sẽ làm cho khối lượng xuất khẩu giảm, và tăng khối lượng nhập khẩu, làm giảm vị thế cạnh tranh thương mại quốc tế của quốc gia Tự do hóa tài chính trong điều kiện các định chế yếu kém là một tình trạng rất nguy hiểm cho nền kinh tế, xác suất rất lớn có khủng hoảng tài chính Phần II:Thực trạng tự do hóa thị trường vốn và tài chính Tự do hóa tài khoản vốn Từ đầu năm 2007 đến nay sau khi VN trở thành thành viên WTO thì tốc độ gia tăng đầu tư nước ngoài vào VN cũng như việc VN đầu tư ra nước ngoài đã rất mạnh trở lại so với những năm cuối thập niên 90 của thế kỷ trước và ở qui mô cao hơn.chúng ta sẽ cùng nhìn lại từng bước phát triển của việc tự do hóa tài khoản vốn của Việt nam. Đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI và vay nợ ODA Đối với FDI Tình hình thu hút và thực hiện Từ Năm 2000-2008 -Số liệu đăng ký FDI và giải ngân FDI từ năm 2000 đến 2008 TÌNH HÌNH FDI TỪ NĂM 2000 ĐẾN 2008 (ĐVT:Triệu đồng) Năm Số dự án Đăng ký Giải ngân 2000 391 2838.9 2413.5 2001 555 3142.8 2450.5 2002 808 2998.8 2591.0 2003 791 3191.2 2650.0 2004 811 4547.6 2852.5 2005 970 6839.8 3308.8 2006 987 12004.0 4100.1 2007 1544 21347.8 8300.0 2008 1171 64011.0 11500.0 (theo số liệu của bộ kế hoạch và đầu tư) * Đồ thị biểu diễn số FDI đăng ký và FDI giải ngân: cột bên trái là DI đăng ký, cột bên phải là FDI giải ngân - Giai đoạn 2000-2008:Tổng số vốn đăng ký 120,9 tỷ USD, tổng số giải ngân 40,16 tỷ USD. Tỷ trọng giải ngân 33%. Theo số liệu và đồ thị biểu diễn, FDI giai đoạn 2000-2005 có giá trị đăng ký thấp, nhưng tỷ trọng giải ngân khá cao (69%). Trong khi giai đoạn 2006-2008 cơ mức đăng ký cao, giá trị giải ngân tuyệt đối cũng cao nhưng tỷ trọng giải ngân so với đăng ký lại rất thấp (25%) Nguyên nhân: Việt Nam đang trong giai đọan mở cửa => tốc độ FDI phụ thuộc vào lộ trình hội nhập quốc tế. Giai đoạn đầu, FDI chủ yếu vào các ngành thương nghiệp, công nghiệp nhẹ do đó FDI đăng ký thấp nhưng tỷ trọng FDI giải ngân cao. -Giai đoạn 2006-2008, hội nhập trở thành nhu cầu bức xúc của Việt nam và thế giới =>tốc độ hội nhập cao =>lượng vốn đăng ký nhiều. Tuy nhiên cơ cấu FDI vào các ngành công nghiệp lớn, thời gian triển khai dự án dài, cộng với khả năng quản lý dòng vốn FDI của chính phủ chưa đáp ứng được tốc độ phát triển FDI =>Giải ngân chậm là 1 tất yếu Năm 2009-2010 Theo Cục Đầu tư Nước ngoài (FIA) thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong năm 2009, Việt Nam có 839 dự án đầu tư nước ngoài đăng ký mới và xin tăng vốn, với tổng vốn 21,48 tỉ USD, giải ngân xấp xỉ 10 tỉ USD, chỉ bằng 30% và 87% so với năm 2008. Tuy nhiên, đây là cũng là con số khả quan trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế. Đến tháng 7/2010, vốn FDI đăng ký đạt khoảng 700 triệu USD, nâng tổng số vốn cam kết 7 tháng đầu năm lên mức 9.13  tỷ USD, giảm 31.8% so với cùng kỳ năm trước. Con số này còn cách khá xa mục tiêu thu hút vốn FDI năm 2010 ở mức khoảng 22-25 tỷ USD. Vốn giải ngân FDI trong 7 tháng đạt 6.4 tỷ USD, tăng 1.6% so với cùng kỳ năm trước. FDI đăng ký và giải ngân theo tháng FDI qua từng năm   Nguồn: TCTK Nguồn: TCTK và Vietstock dự báo Nhận định: Dòng vốn FDI đăng ký giảm khá mạnh cho thấy tiềm năng thu hút vốn FDI Việt Nam đang giảm dần. Trong 3 năm gần đây Việt Nam thu hút những dự án hàng tỷ USD nhưng hiệu quả thực sự chưa cao Nhìn chung, lượng FDI vào Việt Nam ngày càng tăng dần cả về số vốn đăng kí và số vốn thực hiện. Sở dĩ như vậy vì Việt nam đã xây dựng những lợi thế riêng cho mình để trở thành một địa điểm hấp dẫn đầu tư đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Bằng chứng là theo tập đoàn tài chính đầu tư Goldman Sachs (Hoa Kỳ), Việt Nam nằm trong nhóm 11 nước (N-11) có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới trong năm 2010, mở ra những cơ hội cho các nhà đầu tư và là địa chỉ đầu tư tốt cho các nhà đầu tư thế giới trong các năm tiếp theo…Đặc biệt, theo nhận định của các chuyên gia, lượng FDI vào các ngành công nghiệp ngày càng giảm trong khi vào các ngành dịch vụ, y tế, các ngành công nghệ cao.. lại tăng mạnh. Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài, cơ cấu vốn FDI đã có sự thay đổi mạnh mẽ trong giai đoạn từ năm 2001 đến 2009. Nếu như năm đầu của thế kỷ này, vốn FDI đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm tới 85%, thì tới năm vừa qua, khu vực này chỉ còn chiếm 22% tổng vốn đầu tư. Trong khi đó, vốn FDI vào lĩnh vực dịch vụ có xu hướng ngược chiều, khi tăng từ 7% lên 77%, cũng trong cùng giai đoạn với các con số thống kê kể trên. b.Tác động của FDI đối với VN: b1)Tích cực: Về kinh tế: ● Nông nghiệp: i, FDI góp phần chuyển đổi cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng hiện đại, đa dạng hóa và nâng cao giá trị sản phẩm. Các dự án FDI đã góp phần không nhỏ trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát triển sản xuất hàng hoá quy mô lớn, nâng cao giá trị xuất khẩu cho nông sản Việt Nam, trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh và áp dụng các công nghệ mới, công nghệ cao, có khả năng cạnh tranh khi tham gia hội nhập. Với 758 dự án đã và đang triển khai, lĩnh vực FDI trong nông nghiệp đem lại doanh thu hàng năm khoảng 312 triệu USD, xuất khẩu trên 100 triệu USD/năm và tăng mạnh trong thời gian gần đây. ii, Các dự án đầu tư FDI vào nông nghiệp tuy không lớn  nhưng đã tạo ra công ăn việc làm, thu nhập ổn định. Các dự án FDI vào nông nghiệp giúp hàng vạn hộ nông dân tham gia lao động tạo nguồn nguyên liệu thường xuyên cho dự án hoặc theo mùa vụ (trồng mía đường, khoai mì…, góp phần quan trọng thực hiện công tác xoá đói, giảm nghèo.  ●Công nghiệp: Đầu tư FDI đem đến cho nền công nghiệp nước ta nhiều lợi ích: i, Đầu tư nước ngoài đã đóng góp đáng kể vào giá trị sản lượng công nghiệp, góp phần nâng cao tốc độ tăng trưởng công nghiệp của cả nước. Vai trò của đầu tư nước ngoài trong cơ cấu công nghiệp cả nước đang ngày càng được củng cố. Điều này được thể hiện thông qua tỷ trọng của đầu tư nước ngoài trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp tăng dần từ 16,9% (1991) lên 23,65% (1995), 26,5% (1996) lên tới 41,3% năm 2000, và 36,4% (2006) và 43,8% giá trị sản lượng công nghiệp (2007) tương đương với khu vực doanh nghiệp nhà nước. Tốc độ tăng trưởng cao của khu vực công nghiệp có vốn FDI đã đóng góp đáng kể vào việc nâng cao tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp. ii, Việc đầu tư nước ngoài trong công nghiệp phát triển nhanh cũng đã tạo ra một môi trường kinh doanh cạnh tranh, góp phần đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu, đổi mới và sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước. Khả năng cạnh tranh của các ngành công nghiệp cũng được nâng cao thông qua việc áp dụng các công nghệ, máy móc và thiết bị sản xuất hiện đại, phương pháp quản lý tiên tiến từ các dự án FDI, tạo điều kiện ra đời và thay đổi diện mạo của nhiều ngành công nghiệp như khai thác dầu khí, sản xuất, lắp ráp ôtô, điện tử và công nghệ thông tin, thiết bị kỹ thuật điện và điện gia dụng, chế biến thực phẩm và đồ uống, các ngành công nghiệp xuất khẩu chủ lực như dệt may, giày dép... thu hút hàng hàng trăm ngàn lao động... Ngoài ra, đầu tư nước ngoài trong ngành công nghiệp đã gián tiếp đào tạo cho Việt Nam một đội ngũ cán bộ, công nhân lành nghề, được tiếp xúc với công nghệ mới, cũng như các kỹ năng quản lý tiên tiến, kỷ luật công nghiệp chặt chẽ. ● Dịch vụ: FDI vào Việt Nam ngày càng nhiều va dòng vốn đang có sự chuyển dịch cơ cấu “chảy” mạnh vào lĩnh vực dịch vụ. Tổng vốn đăng kí vào dịch vụ chiếm 47,7% tổng vốn đăng ký của cả nước trong năm 2007 vừa qua, trong đó tập trung chủ yếu vào kinh doanh bất động sản, bao gồm: xây dựng căn hộ, văn phòng, phát triển khu đô thị mới, kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp (42% tổng vốn đầu tư nước ngoài trong khu vực dịch vụ), du lịch-khách sạn (24%), giao thông vận tải-bưu điện (18%). Với việc Việt Nam gia nhập WTO, cộng thêm với việc đời sống nhân dân Việt Nam ngày càng được nâng cao, việc đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ đang thu hút sự quan tâm đặc biệt của các nhà đầu tư quốc tế. Về mặt xã hội: Các dự án FDI đa góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước, tăng xuất khẩu qua đó cải thiện cán cân thương mại. Hơn nữa, việc thực hiện dự án FDI còn tạo ra việc làm cho người lao động của Việt Nam, giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp. Không chỉ có vậy, các lao động làm trong khu vực có vốn FDI còn được hưởng mức lương cao hơn các khu vực khác. Vì vậy, FDI góp phần cải thiện đời sống nhân dân, giảm tỷ lệ đói nghèo tại Việt Nam. b2) Hạn chế Mặc dù có những tác động tích cực đối với nền kinh tế Việt Nam,nhưng mức độ lan tỏa của khu vực FDI đối với nền kinh tế chưa cao. Điều đó được thể hiện ở chỗ: mức độ chuyển giao các nguồn lực kinh doanh thấp (công nghệ, kỹ năng quảnlý, kỹ năng kinh doanh) do vốn FDI tập trung nhiều trong những ngành thay thế nhập khẩu và có mức độ bảo hộ cao; nguồn vốn FDI từ các nước có công nghệ nguồn còn chiếm tỷ trọng nhỏ và tăng chậm; số lượng các TNC đầu tư chủ yếu là 100% vốn nước ngoài, hình thức liên doanh chưa thực sự có hiệu quả còn hình thức M&A hầu như chưa có; thiếu sự liên kết giữa các doanh nghiệp FDI, đặc biệt trong việc sản xuất các sản phẩm phụ trợ. Tiềm năng thu hút vốn FDI của Việt Nam lớn nhưng môi trường đầu tư của Việt Nam vẫn còn nhiều điều bất cập như:cơ sở hạ tầng lạc hậu (giao thông, nước, hệ thống viễn thông, hệ thống ngân hàng...); trình độ nguồn nhân lực còn thấp; hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn chưa đồng bộ, hay thay đổi, khó tiên đoán trước; công tác quy hoạch còn bất hợp lý, nặng về bảo hộ sản xuất trong nước và chưa phù hợp với cam kết quốc tế; thủ tục hành chính còn nhiều chồng chéo và thiếu nguồn kinh phí; công tác phân cấp đầu tư còn nhiều bất cập dẫn đến tình trạng “xé rào” trong ưu đãi đầu tư; thiếu sự hỗ trợ đối với các nhà đầu tư sau khi đầu tư đã
Tài liệu liên quan