Do tuổi thọ con người ngày càng tăng, ung thư tuyến tiền liệt (UTTTL) trở nên
một bệnh ác tính phổ biến nhất ở đàn ông các nước phát triển
(3)
. T ại Hoa Kỳ,
năm 2000, 180 ngàn trường hợp bệnh mới đượcchẩn đoán UTTTL
(19)
. Nói đến
UTTTL là phải nhắc đến vai trò của kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt
(PSA), m ột serine protease thuộc họ kalllikrein, được xem như công cụ giúp
phát hiện và chẩn đoán sớm UTTTL. Bài viết này tổng kết lại những tranh luận
hiện nay về vai trò thật sự của PSA trong chẩn đoán sớm UTTTL.
PSA VÀ TUYẾN TIỀN LIỆT
Họ kallikrein có cấu trúc phân tử gồm 15 serine protease được giải mã bởi một
cụm gene trên nhiễm sắc thể 19q3. Các gene được đánh số thứ tự từ KLK1-15
và sản phẩm protein tương ứng có số thứ tự hK1-15. PSA là protein hK3
(7)
.
PSA được sản xuất dưới dạng preproenzyme gồm một chuỗi peptide tín hiệu,
sẽ được lấy đi trong quá trình tổng hợp. Sau khi được tổng hợp xong, phân tử
PSA chứa 237 amino acid và một chuỗi carbohydrate gắn với serine 45, có
tổng trọng lượng phân tử 28430 Da
(2)
.
Trong tuyến tiền liệt, PSA được tiết trực tiếp vào các ống tuyến. Nhiệm vụ của
PSA là làm tan chảy và “tiêu hóa” các chất gây đông trong tinh dịch
(semenogelin và fibronectin)
(15).
Bình thường chỉ một lượng rất nhỏ của PSA
thoát được vào hệ tuần hoàn. Trong tuyến tiền liệt ung thư, cấu trúc mô học bị
phá vỡ, khối u không nối với ống tiết của tuyến tiền liệt nên PSA được tiết trực
ti ếp vào khoảng gian bào, đi thẳng vào hệ tuần hoàn
(26)
. Do đó trong tuyến tiền
liệt ung thư, nồng độ huyết thanh của PSA trên mỗi gram mô tuyến cao gấp 30
l ần so với mô tuyến bình thường và gấp 10 lần so với mô tuyến tăng sinh lành
tính
(25)
mặc dù biểu hiện gene của PSA trong mô tuyến ung thư thấp hơn so với
mô tuyến tăngsinh lành tính
(1)
.
PSA đo được trong hệ tuần toàn bao gồm PSA phức hợp (cPSA) và PSA tự do
(fPSA). fPSA tiết rất nhiều khi xuất tinh nhưng chỉ một lượng nhỏ fPSA đi vào
tu ần hoàn. cPSA thường gắn kết với các chất ức chế protease: alpha-1-antichymotrypsin(ACT), alpha-2-macroglobulin (A2M) và alpha-1-protein
inhibitor (API).
Ở bệnh nhân UTTTL, nồng độ PSA-ACT cao hơn và nồng độ PSA tự do thấp
hơn so với bệnh nhân phì đại lành tính
(28,16)
. Nguyên nhân gây nên sự khác biệt
này chưa xác định rõ.
12 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1444 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vai trò của kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt (PSA), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VAI TRÒ CỦA KHÁNG NGUYÊN ĐẶC HIỆU TUYẾN TIỀN LIỆT
(PSA)
Do tuổi thọ con người ngày càng tăng, ung thư tuyến tiền liệt (UTTTL) trở nên
một bệnh ác tính phổ biến nhất ở đàn ông các nước phát triển(3). Tại Hoa Kỳ,
năm 2000, 180 ngàn trường hợp bệnh mới được chẩn đoán UTTTL(19). Nói đến
UTTTL là phải nhắc đến vai trò của kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt
(PSA), một serine protease thuộc họ kalllikrein, được xem như công cụ giúp
phát hiện và chẩn đoán sớm UTTTL. Bài viết này tổng kết lại những tranh luận
hiện nay về vai trò thật sự của PSA trong chẩn đoán sớm UTTTL.
PSA VÀ TUYẾN TIỀN LIỆT
Họ kallikrein có cấu trúc phân tử gồm 15 serine protease được giải mã bởi một
cụm gene trên nhiễm sắc thể 19q3. Các gene được đánh số thứ tự từ KLK1-15
và sản phẩm protein tương ứng có số thứ tự hK1-15. PSA là protein hK3(7).
PSA được sản xuất dưới dạng preproenzyme gồm một chuỗi peptide tín hiệu,
sẽ được lấy đi trong quá trình tổng hợp. Sau khi được tổng hợp xong, phân tử
PSA chứa 237 amino acid và một chuỗi carbohydrate gắn với serine 45, có
tổng trọng lượng phân tử 28430 Da(2).
Trong tuyến tiền liệt, PSA được tiết trực tiếp vào các ống tuyến. Nhiệm vụ của
PSA là làm tan chảy và “tiêu hóa” các chất gây đông trong tinh dịch
(semenogelin và fibronectin)(15). Bình thường chỉ một lượng rất nhỏ của PSA
thoát được vào hệ tuần hoàn. Trong tuyến tiền liệt ung thư, cấu trúc mô học bị
phá vỡ, khối u không nối với ống tiết của tuyến tiền liệt nên PSA được tiết trực
tiếp vào khoảng gian bào, đi thẳng vào hệ tuần hoàn(26). Do đó trong tuyến tiền
liệt ung thư, nồng độ huyết thanh của PSA trên mỗi gram mô tuyến cao gấp 30
lần so với mô tuyến bình thường và gấp 10 lần so với mô tuyến tăng sinh lành
tính(25) mặc dù biểu hiện gene của PSA trong mô tuyến ung thư thấp hơn so với
mô tuyến tăng sinh lành tính(1).
PSA đo được trong hệ tuần toàn bao gồm PSA phức hợp (cPSA) và PSA tự do
(fPSA). fPSA tiết rất nhiều khi xuất tinh nhưng chỉ một lượng nhỏ fPSA đi vào
tuần hoàn. cPSA thường gắn kết với các chất ức chế protease: alpha-1-
antichymotrypsin (ACT), alpha-2-macroglobulin (A2M) và alpha-1-protein
inhibitor (API).
Ở bệnh nhân UTTTL, nồng độ PSA-ACT cao hơn và nồng độ PSA tự do thấp
hơn so với bệnh nhân phì đại lành tính(28,16). Nguyên nhân gây nên sự khác biệt
này chưa xác định rõ.
Hình 1 – Thành phần của PSA phức hợp và tự do(12)
Bảng 1 – Tỷ lệ các thành phần của PSA trong huyết tương(12)
Loại PSA Tỷ lệ % trong huyết
tương
PSA phức hợp
PSA-ACT
PSA-API
PSA-A2M
60 – 95
60 – 90
1 – 5
10 - 20
PSA tự do 5 – 40
Giả thuyết được chấp nhận nhiều nhất là trong UTTTL, PSA đi vào hệ tuần
hoàn theo nhiều đường khác nhau so với trong tăng sinh lành tính(27). Trong
tăng sinh lành tính, để đến được hệ tuần hoàn, PSA phải thoát ra khoảng
gian bào. Tại đây PSA bị thoái hóa bởi các proteolytic cleavage(26). Trong
khi đó, ở mô tuyến ung thư, PSA vào hệ tuần hoàn ở dạng đã kích hoạt, gắn
kết với các chất ức chế protease (không bị thoái biến) nên nồng độ PSA-
ACT luôn cao hơn(29).
Một số nghiên cứu cho rằng có thể phát hiện một lượng rất nhỏ PSA trong
tuyến cạnh niệu đạo, nội mạc tử cung, mô tuyến vú bình thường, sữa mẹ,
ung thư tuyến vú, tuyến thượng thận và thận(9,8,34,36,35). Tuy nhiên lượng PSA
này không đáng kể nên PSA vẫn được tổ chức kiểm soát thực phẩm và thuốc
của Hoa Kỳ (FDA) công nhận là chất đánh dấu sinh học phát hiện
UTTTL(12).
PSA KHÔNG ĐẶC HIỆU CHO UNG THƯ TUYẾN TIỀN LIỆT
Kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt (PSA) là một dấu ấn sinh học nền tảng
để tầm soát, phát hiện sớm, chẩn đoán và theo dõi điều trị UTTTL(27). PSA thật
sự chỉ đặc hiệu cho cơ quan – tuyến tiền liệt – chứ không đặc hiệu cho ung
thư(27). Nồng độ PSA huyết thanh thay đổi không chỉ do UTTTL mà còn có thể
do viêm, chấn thương hoặc tăng sinh lành tính của tuyến tiền liệt(4,20). Bảng 2
trình bày một số tình huống làm tăng nồng độ PSA huyết tương.
Bảng 2: Các tình huống làm thay đổi nồng độ PSA huyết tương(12)
Các yếu tố làm
thay đổi PSA
PSA tăng PSA
giảm
Thay đổi ở từng cá
thể
30% 30%
Ung thư tuyến tiền
liệt
Có thể đến
10,000 lần
Phì đại tuyến tiền
liệt
Có thể đến 10
lần
Viêm tuyến tiền
liệt
Có thể đến 50
lần
Suy thận (giảm
GFR nặng)
Tăng nhẹ fPSA
Thao tác ở niệu
đạo
Có thể đến 10
lần
Bí tiểu Có thể đến 10
lần
Các yếu tố làm
thay đổi PSA
PSA tăng PSA
giảm
Phóng tinh Tăng không
đặc hiệu
Khám tuyến tiền
liệt bằng ngón tay
Tăng không
đặc hiệu
Sinh thiết tuyến
tiền liệt
Có thể đến 50
lần
Thay đổi thể tích
tuyến tiền liệt
Có thể đến 5
lần
Chế độ ăn của
người châu Á
Có thể
đến 25%
Sau giải quyết bí
tiểu
Có thể
đến 4 lần
Thuốc Finasteride Có thể
đến 50%
Thuốc GnRH Có thể
Các yếu tố làm
thay đổi PSA
PSA tăng PSA
giảm
antagonist hoặc cắt
2 tinh hoàn
đến 100
lần
PSA TRONG CHẨN ĐOÁN SỚM UNG THƯ TUYẾN TIỀN LIỆT
Một đặc điểm quan trọng của ung thư tuyến tiền liệt (UTTTL) là tính chất tiềm
ẩn của bệnh do đó tầm soát phát hiện sớm UTTTL là vấn đề rất quan trọng. Các
nghiên cứu tử thiết cho thấy khoảng 30% đến 60% đàn ông từ 50 – 70 tuổi có ít
nhất một sang thương vi thể ung thư trong tuyến tiền liệt(10,21). Ở Bắc Mỹ và châu
Âu, 15 – 30% những bệnh nhân có ung thư tiềm ẩn này được phát hiện UTTTL
trên lâm sàng nhờ thử nghiệm PSA máu(33,13). Tầm soát UTTTL bằng PSA giúp
bệnh nhân phát hiện UTTTL sớm hơn được 9 năm trước khi ung thư có biểu
hiện lâm sàng rõ rệt(18). Trong hai phần ba trường hợp UTTTL phát hiện được
bằng tầm soát PSA máu, khối u ung thư vẫn còn khu trú trong vỏ bao tuyến tiền
liệt. Trong khi đó nếu UTTTL phát hiện được qua khám trực tràng, tỷ lệ ung thư
còn khu trú trong vỏ bao tuyến tiền liệt chỉ 50 – 60%(11).
Bảng 3: PSA huyết thanh và khả năng UTTTL khi sinh thiết(12)
PSA huyết % khả năng ung
thanh thư
< 2,5 ng/mL <2
2,4 – 4,0 ng/mL 18%
4,0 – 10,0 ng/mL 25%
> 10,0 ng/mL 67%
Hiện nay mọi hướng dẫn điều trị của các hội Niệu Hoa Kỳ và châu Âu đều
dùng “giá trị ngưỡng” của PSA (cut-off level) từ 2 – 4ng/mL để chỉ định sinh
thiết tuyến tiền liệt(22). Khi sinh thiết tuyến tiền liệt do PSA > 4ng/mL, từ 25 –
30% đàn ông có kết quả ung thư và gần 75% có kết quả lành tính(12). Ngoài ra,
ở bệnh nhân UTTTL, chỉ 65 – 75% trường hợp có PSA tăng; 35% trường hợp
còn lại PSA vẫn ở mức “bình thường”(5). Trong một số trường hợp, trị số PSA
huyết thanh ở bệnh nhân UTTTL và không UTTTL có sự trùng lắp nhau, nhất
là khi PSA từ 4 – 10 ng/mL. Vì vậy trị số PSA trong khoảng này được gọi là
“vùng xám của chẩn đoán – diagnostic gray zone”(12). Điều cần lưu ý là vẫn có
thể gặp ung thư tuyến tiền liệt trong 15% bệnh nhân có PSA < 4ng/mL và 15%
trong số bệnh nhân đó có ung thư độ ác tính cao(32). Theo Thompson(31) và
Shariat(23) không có giá trị ngưỡng nào của PSA vừa có độ nhạy và độ chuyên
cao để chẩn đoán UTTTL và cũng chưa có giá trị ngưỡng nào của PSA có thể
giúp phân biệt được bệnh nhân nhiều nguy cơ UTTTL với bệnh nhân ít nguy
cơ. Hiện nay Mạng phổ biến ung thư Quốc gia của Hoa Kỳ (NCCN) đề xuất
giá trị ngưỡng của PSA để chỉ định sinh thiết tuyến tiền liệt ở Hoa Kỳ là 2,5
ng/mL(17).
Bảng 4 – Độ nhạy và chuyên của các giá trị ngưỡng PSA phát hiện UTTTL(31)
Giá trị ngưỡng
của PSA
(ng/mL)
Độ nhạy
(%)
Độ chuyên
(%)
1,1 83,4 38,9
2,1 52,6 72,5
3,1 32,2 86,7
4,1 20,5 93,8
6,1 4,6 98,5
8,1 1,7 99,4
10,1 0,9 99,7
Để tăng độ nhạy và chuyên biệt phát hiện UTTTL của PSA, nhiều tác giả(5) đã
sử dụng thêm một số biến thể của PSA:
Mật độ PSA (PSA density – PSAD): là tỷ lệ giữa nồng độ PSA huyết thanh với
thể tích tuyến tiền liệt tính (đo qua siêu âm trực tràng). PSAD không chính xác
vì cách tính thể tích tuyến tiền liệt rất chủ quan.
Mật độ PSA vùng chuyển tiếp (Transition Zone PSA Density – PSA-TZ)
Là tỷ lệ giữa nồng độ PSA huyết thanh với thể tích vùng chuyển tiếp của
tuyến tiền liệt tính. PSA-TZ dựa trên nguyên tắc: vùng chuyển tiếp là nơi
chủ yếu sản xuất PSA trong trường hợp phì đại lành tính tuyến tiền liệt.
PSA-TZ cũng ít được sử dụng vì mức độ kém chính xác khi tính toán thể
tích vùng chuyển tiếp trên siêu âm trực tràng.
Tốc độ PSA (PSA velocity – PSAV)
Dựa trên nguyên tắc tốc độ tăng của PSA ở bệnh nhân UTTTL nhanh và cao
hơn so với bệnh nhân phì đại tuyến tiền liệt. Cách tính: so sánh trị số của 3 lần
thử PSA trong thời gian 2 năm hoặc so sánh trị số giữa 2 lần thử cách nhau ít
nhất 12 – 18 tháng. Mạng phổ biến ung thư Quốc gia của Hoa Kỳ (NCCN) đề
nghị nên sinh thiết tuyến tiền liệt nếu PSAV > 0,5 ng/mL/năm(23). Tuy nhiên
giá trị ngưỡng của PSAV vẫn còn nhiều bàn cãi(24).
Bảng 5 – Độ nhạy và chuyên của các giá trị ngưỡng PSAV phát hiện UTTTL
(24)
Giá trị ngưỡng của Độ nhạy Độ
PSAV
(ng/mL/năm)
(%) chuyên
(%)
> 0,25 94,6 6,9
> 0,5 65,3 33,9
> 0,75 29,3 63,4
> 1 20,4 81,9
Tỷ lệ PSA tự do/PSA toàn thể (f/tPSA)
Ở bệnh nhân UTTTL tỷ lệ phần trăm của PSA tự do giảm. Theo Catalona (6) ở
bệnh nhân PSA từ 4 – 10 ng/mL: nếu f/tPSA < 10% thì khả năng UTTTL là
56%; nếu f/tPSA> 25% khả năng UTTTL chỉ khoảng 8%.
PSA VÀ TẦM SOÁT UNG THƯ TUYẾN TIỀN LIỆT
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về tầm soát UTTTL trong dân số bằng
PSA. Vấn đề chưa trả lời được là câu hỏi “liệu tầm soát đại trà UTTTL có làm
giảm tỷ lệ tử vong do ung thư hay không?”(5). Hội Ung thư Hoa Kỳ và Hội
Niệu Hoa Kỳ đề nghị mọi đàn ông từ tuổi 50 nên khám định kỳ hàng năm để
phát hiện sớm UTTTL. Nội dung khám gồm thử PSA máu và khám tuyến tiền
liệt ngả trực tràng. Tuy nhiên Học viện Y khoa Hoa Kỳ (American College of
Physician) và Hội Nội khoa Hoa Kỳ không chấp nhận việc tầm soát đại trà và
khuyến cáo chỉ nên tầm soát UTTTL theo đối tượng. Một số nghiên cứu tại
Trung Quốc và Thái Lan cho thấy tần suất UTTTL phát hiện khi tầm soát ung
thư ngày càng tăng và không thấp hơn so với các con số ở Âu – Mỹ(14,30). Nước
ta vẫn chưa có nghiên cứu dịch tễ học về trị số PSA ở người Việt Nam. Mọi trị
số PSA để chỉ định sinh thiết tuyến tiền liệt hiện nay đề dựa vào các chỉ số của
người da trắng theo các tài liệu của ngoại quốc. Do đó trước khi quyết định thử
PSA để tầm soát phát hiện UTTTL, thầy thuốc nên trao đổi thật kỹ với bệnh
nhân về những ưu điểm và khuyết điểm của thử nghiệm PSA. Trong tương lai
Việt Nam cần thực hiện nhiều nghiên cứu để đánh giá chính xác vai trò của
PSA trong tầm soát phát hiện sớm UTTTL ở đàn ông Việt Nam.