Ngày 1/4/1990 hệ thống Kho Bạc Nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính chính thức được thành lập và đi vào hoạt động trên phạm vi cả nước. Suốt chặng đường 17 năm xây dựng và phát triển, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, cấp ủy chính quyền các cấp và sự phối kết hợp chặt chẻ của các cơ quan Ban ngành Trung ương, địa phương, bằng sự phấn đấu nổ lực không mệt mỏi của các thế hệ cán bộ, hệ thống Kho bạc Nhà nước đã có những bước phát triển nhanh, toàn diện và bền vững, khẳng định được vai trò là một công cụ quan trọng không thể thiếu trong bộ máy hành chính công quyền của Nhà nước thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về quỹ Ngân sách nhà nước, các quỹ Tài chính của Nhà nước, huy động vốn cho Ngân sách Nhà nước và cho đầu tư phát triển và là đầu mối duy nhất thực hiện nhiệm vụ tổ chức công tác kế toán Ngân sách Nhà nước.
Sự ra đời của hệ thống Kho bạc Nhà nước có thể khẳng định đó là kết quả tất yếu, khách quan xuất phát từ yêu cầu của quá trình đổi mới quản lý kinh tế, cải cách nền Tài chính quốc gia, khẳng định sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng và hoàn thiện bộ máy hành chính nhà nước để vận hành một cơ chế quản lý mới-cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, mà trong đó việc tập trung, phân phối và sử dụng có hiệu quả các quỹ tiền tệ của Nhà nước nói chung và quỹ Ngân sách Nhà nước nói riên có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là một trong những nhân tố quyết định đến tốc độ phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế, góp phấn không nhỏ vào kết quả chung của ngành Tài chính trong khu vực.
46 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 2134 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của Kho bạc Nhà nước trong quản lý quỹ ngân sách Nhà nước trên địa bàn Tỉnh Trà Vinh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày 1/4/1990 hệ thống Kho Bạc Nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính chính thức được thành lập và đi vào hoạt động trên phạm vi cả nước. Suốt chặng đường 17 năm xây dựng và phát triển, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, cấp ủy chính quyền các cấp và sự phối kết hợp chặt chẻ của các cơ quan Ban ngành Trung ương, địa phương, bằng sự phấn đấu nổ lực không mệt mỏi của các thế hệ cán bộ, hệ thống Kho bạc Nhà nước đã có những bước phát triển nhanh, toàn diện và bền vững, khẳng định được vai trò là một công cụ quan trọng không thể thiếu trong bộ máy hành chính công quyền của Nhà nước thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về quỹ Ngân sách nhà nước, các quỹ Tài chính của Nhà nước, huy động vốn cho Ngân sách Nhà nước và cho đầu tư phát triển và là đầu mối duy nhất thực hiện nhiệm vụ tổ chức công tác kế toán Ngân sách Nhà nước.
Sự ra đời của hệ thống Kho bạc Nhà nước có thể khẳng định đó là kết quả tất yếu, khách quan xuất phát từ yêu cầu của quá trình đổi mới quản lý kinh tế, cải cách nền Tài chính quốc gia, khẳng định sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng và hoàn thiện bộ máy hành chính nhà nước để vận hành một cơ chế quản lý mới-cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, mà trong đó việc tập trung, phân phối và sử dụng có hiệu quả các quỹ tiền tệ của Nhà nước nói chung và quỹ Ngân sách Nhà nước nói riên có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là một trong những nhân tố quyết định đến tốc độ phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế, góp phấn không nhỏ vào kết quả chung của ngành Tài chính trong khu vực.
Nhằm mục đích tìm hiểu những tác động đến quá trình quản lý quỹ Ngân sách Nhà nước, những hiệu quả mà quá trình quản lý đó đã mang lại và để kiểm tra những kiến thức đã được các Thầy Cô trao dồi. Em xin phép trình bày đề tài:
“ Vai trò của Kho bạc Nhà nước trong quản lý quỹ ngân sách Nhà nước trên địa bàn Tỉnh Trà Vinh ”.
Qua đó giúp cho Em thấy rõ hơn về chức năng, nhiệm vụ của ngành Kho Bạc đối với sự phát triển kinh tế nước nhà cũng như việc áp dụng chính sách, chế độ, nguyên tắc về quản lý quỹ Ngân sách Nhà nước trên địa bàn, từ đó giúp cho bản thân có được những kiến thức mới nhằm phục vụ cho công tác chuyên môn ngày một hoàn thiện hơn.
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ QUẢN LÝ QUỸ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
I.Lịch sử hình thành NSNN
1. Sự ra đời của Ngân sách Nhà nước:
Trong lịch sử tiến hóa và phát triển của xã hội loài người, Nhà nước xuất hiện trong xã hội có giai cấp, để thực hiện chức năng duy trì trật tự xã hội.
Trong thời kỳ đầu của chế độ cộng sản nguyên thủy, xã hội chưa có giai cấp, nên chưa có Nhà nước. Quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, xã hội đã phân chia thành giai cấp và Nhà nước ra đời, đại diện cho quyền lực của giai cấp thống trị. Muốn duy trì quyền lực này thì phải có quỹ tiền tệ được hình thành từ sự đóng góp của người dân, để nuôi dưỡng bộ máy quyền lực trên, đó chính là thuế.
Nguồn tài chính dùng để chi tiêu cho hoạt động của tổ chức bộ máy Nhà nước từ trung ương đến địa phương như chi quốc phòng, an ninh, xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng, chi về văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục, phúc lợi công cộng....
Quỹ tiền tệ được hình thành và sử dụng như trên chính là Ngân sách Nhà nước.
Ngân sách không tách rời Nhà nước, bởi lẽ một Nhà nước ra đời trước hết cần phải có nguồn tài chính để chi tiêu cho mục đích tồn tại ngày càng vững mạnh của mình. Tất cả các nhu cầu chi tiêu tài chính của Nhà nước đều được thỏa mãn từ các nguồn thu từ thuế và các nguồn khác như vay dân, viện trợ…
Vì lẽ đó để Ngân sách Nhà nước được ổn định và phục vụ nhu cầu chi tiêu của Nhà nước một cách tối ưu, điều cần thiết là phải có kế hoạch thu, chi, phải tập hợp, cân đối các khoản thu, chi của Nhà nước và bắt buộc các khoản thu, chi phải thực hiện theo luật định, nhất là các khoản chi phải theo tiêu chuẫn, định mức, dự toán được duyệt.
2. Khái niệm về Ngân sách Nhà nước:
Một số khái niệm về Ngân sách Nhà nước:
-Theo tự điển bách khoa toàn thư về kinh tế của Pháp cho rằng: Ngân sách là một văn kiện được Nghị viện hoặc Hội đồng thảo luận và phê chuẩn mà trong đó các nghiệp vụ tài chính (thu, chi) của một tổ chức công (Nhà nước, Chính quyền địa phương) hoặc tư (Doanh nghiệp, Hiệp hội) được dự kiến và cho phép.
- Quan niệm của Bộ tài chính Pháp: Ngân sách Nhà nước là văn kiện trong đó các khoản thu và các khoản chi hàng năm của Nhà nước được dự kiến và cho phép là toàn bộ các tài khoản phản ánh tất cả các nguồn thu và tất cả các nhiệm vụ chi của Nhà nước trong một năm dân sự là toàn bộ các tài khoản phản ánh hạn mức kinh phí của một Bộ trong năm dân sự.
-Theo đại từ điển kinh tế thị trường của Trung quốc Ngân sách Nhà nước là kế hoạch thu chi hàng năm của Nhà nước được xét duyệt theo trình tự pháp định.
-Theo tự điển bách khoa toàn thư của Nga Ngân sách Nhà nước là bảng liệt kê các khoản thu chi bằng tiền của Nhà nước được lập ra cho một thời gian nhất định.
- Theo luật Ngân sách Nhà nước Việt Nam số 01/2002/QH11 ngy 16 thng 12 năm 2002. Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước.
Như vậy, hầu hết các Nước điều quan niệm Ngân sách Nhà nước là một kế hoạch hoặc dự toán thu chi của Nhà nước trong một thời gian nhất định thường là một năm.
Như vậy, Ngân sách Nhà nước có đặc trưng là:
-Dự toán hay kế hoạch thu chi bằng tiền phải được cấp có thẩm quyền thảo luận và quyết định theo một trình tự pháp định và có giá trị pháp quy.
-Ngân sách thường tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định thường là một năm.
Hai đặc trưng trên là cơ sở để xác định khái niệm về Ngân sách Nhà nước.
3. Bản chất của Ngân sách Nhà nước:
Khi bàn về bản chất Ngân sách Nhà nước, có một số ý kiến cho rằng: Ngân sách Nhà nước là “Kế hoạch tài chính cơ bản của Nhà nước” là “Quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước” là “Bộ phận chủ đạo trong hệ thống tài chính”.
Cách nhìn nhận như trên về Ngân sách Nhà nước chưa thật đầy đủ cả về mặt xác định khái niệm và về mặt tìm hiểu nội dung bản chất của Ngân sách Nhà nước.
Đối với Ngân sách Nhà nước, chúng ta thấy rằng các hiện tượng biểu hiện của nó rất đa dạng, phong phú nhưng cũng rất rời rạc. Đó là bảng tổng hợp các khoản thu và các khoản chi của Nhà nước, là mức động viên các nguồn tài chính vào tay Nhà nước, là các khoản cấp phát của Nhà nước cho các nhu cầu tiêu dùng và đầu tư. Bên cạnh đó, cũng không thể phủ nhận là hoạt động của Ngân sách Nhà nước không hề mang tính chất tự phát hoặc nằm ngoài sự kiểm soát của Nhà nước. Ngược lại khi phân tích các hiện tượng chúng ta thấy rằng chúng luôn luôn bị ràng buộc bởi những nội dung bên trong hết sức chặt chẽ, cụ thể là:
-Các khoản thu của Ngân sách Nhà nước (thuế) phần lớn đều mang tính chất bắt buộc còn các khoản chi lại mang tính chất cấp phát. Đây là một nội dung rất quan trọng có vai trò quyết định sự tồn tại của Ngân sách Nhà nước. Nội dung này xuất phát từ quyền lực của Nhà nước và nhu cầu về tài chính để thực hiện chức năng quản lý điều hành kinh tế, xã hội của Nhà nước.
- Bất kỳ một Nhà nước nào cũng có quyền lập pháp, do nhu cầu chi tiêu của mình, Nhà nước sử dụng quyền đó để quy định hệ thống pháp luật tài chính và thuế khóa bắt mọi pháp nhân và thể nhân phải nộp một phần thu nhập của mình cho Nhà nước với tư cách là một chủ thể thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước. Tất nhiên tính cưỡng bức của các khoản thu Ngân sách không hề mang ý nghĩa tiêu cực bởi lẽ đây là sự cần thiết. Đối với mọi đối tượng nộp thuế đều ý thức đượcđó là quyền và nghĩa vụ của mình trong việc đảm bảo sự tồn tại và phát triển của Nhà nước, của Quốc gia. Nhà nước muốn có nguồn thu ổn định, vững chắc và để thực hiện được các chính sách kinh tế xã hội của mình, đương nhiên phải tiến hành bằng phương pháp cưỡng chế của luật pháp. Điều này làm sáng tỏ vấn đề bản chất giai cấp Nhà nước đã quyết định bản chất của thuế.
Điều đó chứng tỏ sự tồn tại và vai trò của Nhà nước chính là một trong những yếu tố quyết định tính chất hoạt động của Ngân sách Nhà nước.
- Mọi hoạt động của Ngân sách Nhà nước đều là hoạt động phân phối các nguồn tài chính nên nó thể hiện các mối quan hệ trong phân phối. Đó là quan hệ giữa một bên là Nhà nước một bên là xã hội.
- Việc coi Ngân sách Nhà nước là hoạt động phân phối, thể hiện các mối quan hệ trong phân phối có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình nhận thức về bản chất của Ngân sách Nhà nước.
- Trong quá trình phân phối, vấn đề cần được giải quyết giữa các đối tượng tham gia, các chủ thể chính là vấn đề về lợi ích kinh tế. Vì vậy, quan hệ giữa Nhà nước và xã hội qua Ngân sách Nhà nước cũng chính là quan hệ kinh tế.
Thật vậy, việc phân phối các nguồn tài chính để hình thành nguồn thu của Nhà nước, dù thực hiện dưới hình thức nào thực chất cũng là quá trình giải quyết quyền lợi kinh tế giữa Nhà nước và xã hội. Với kết quả phân phối đó nguồn tài chính được chia làm hai phần: một phần nộp vào Ngân sách Nhà nước và một phần để lại cho các thành viên của xã hội. Phần nộp vào Ngân sách Nhà nước sẽ tiếp tục phân phối lại thể hiện qua các khoản cấp phát từ Ngân sách cho các mục đích tiêu dùng và đầu tư phát triển.
Cơ sở để tạo ra các nguồn tài chính là sản xuất mà chủ thể chính là các thành viên của xã hội. Mọi thành viên đều có lợi ích kinh tế của mình và đấu tranh bảo vệ lợi ích đó. Nghĩa là Nhà nước không thể dựa vào quyền lực để huy động đóng góp với bất kỳ giá nào. Quyền lực đó phải có giới hạn, phải giải quyết hài hòa lợi ích kinh tế và xã hội. Chính vì vậy, việc khẳng định Ngân sách Nhà nước thể hiện các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và xã hội có ý nghĩa rất quan trọng, không chỉ đơn thuần về mặt lý luận mà còn thật sự cần thiết trong quá trình quản lý và điều hành Ngân sách Nhà nước. Nó đòi hỏi Ngân sách Nhà nước phải có chính sách Ngân sách đúng đắn, tôn trọng các quy luật kinh tế khách quan, không được coi thường lợi ích của xã hội để huy động một cách tùy tiện các nguồn thu nhập của các thành viên trong xã hội . Đồng thời mọi khoản chi tiêu của Nhà nước phải được tính toán thận trọng, thể hiện tính tiết kiệm hiệu quả và công bằng xã hội.
Từ sự phân tích trên thì bản chất của Ngân sách Nhà nước là hệ thống các mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng các nguồn tài chính, nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện các chức năng quản lý điều hành nền kinh tế xã hội của mình.
Từ đó chúng ta thấy rõ chức năng của Ngân sách Nhà nước là:
+Huy động nguồn tài chính và đảm bảo các nhu cầu chi tiêu theo dự toán của Nhà nước.
+Thực hiện cân đối giữa các khoản thu và các khoản chi bằng tiền của Nhà nước.
Do bản chất và chức năng của Ngân sách Nhà nước được thể hiện như trên đòi hỏi phải có một bộ phận quản lý quỹ Ngân sách Nhà nước. Bộ phận đó được chính phủ ta thành lập với tên gọi là Kho bạc Nhà nước (Nước ngoài gọi là Ngân khố Quốc gia). Việc hình thành của hệ thống Kho bạc Nhà nước là một bước trong quá trình củng cố và tăng cường hiệu lực quản lý tài chính của Nhà nước, là phù hợp với chức năng nhiệm vụ và tính chất hợp lý của hệ thống quản lý tài chính Nhà nước.
II.Vai trò của Ngân sách nhà nước trong nền kinh tế xã hội.
Được xác định trên cơ sở các chức năng và các nhiệm vụ cụ thể của nó trong từng giai đoạn. Với quan điểm đó có thể khẳng định vai trò của Ngân sách Nhà nước trong giai đoạn hiện nay như sau:
- Ngân sách Nhà nước là công cụ huy động nguồn lực tài chính đảm bảo các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước: vai trò này gắn với lịch sử ra đời của Ngân sách khác nhau ở mức độ động viên vào Ngân sách, hình thức huy động, phạm vi huy động.
- Ngân sách Nhà nước có vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế xã hội, vai trò này rất quan trọng bởi lẽ nền kinh tế thị trường có khuyết điểm cần Nhà nước can thiệp, Nhà nước dùng luật pháp tạo hành lang pháp lý cho các chủ thể kinh tế hoạt động.
Vai trò của Ngân sách Nhà nước trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, thị trường như sau:
1. Về mặt kinh tế:
Sự cần thiết phải có Nhà nước can thiệp để khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường. Đó là vai trò của Nhà nước trong việc định hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền. Rõ ràng, Nhà nước không thể bỏ qua công cụ Ngân sách khi thực hiện vai trò này, Ngân sách Nhà nước cung cấp nguồn kinh phí để Nhà nước đầu tư cho cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt để trên cơ sở đó tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Mặt khác, việc sử dụng công cụ Ngân sách thông qua các nguồn hình thành của nó cũng có ý nghĩa rất lớn. Bởi lẽ các khoản thuế và chính sách thuế sẽ đảm bảo thực hiện vai trò định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế kinh doanh.
2. Về mặt xã hội:
Kinh phí của Ngân sách Nhà nước cấp phát cho tất cả các lĩnh vực điều chỉnh của Nhà nước. Đồng thời khối lượng và kết quả quản lý và sử dụng nguồn kinh phí này cũng quyết định mức độ thành công của chính sách xã hội.
Mặt khác, trong việc giải quyết các vấn đề xã hội Nhà nước cũng sử dụng công cụ thuế để điều chỉnh. Thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp có vai trò quan trọng nhằm điều tiết thu nhập cao để phân phối lại cho các đối tượng có thu nhập thấp…
3. Về mặt thị trường:
Ngân sách Nhà nước có vai trò quan trọng đối với việc thực hiện các chính sách về ổn định giá cả thị trường và chống lạm phát. Bằng công cụ thuế và các chính sách chi Ngân sách, Nhà nước có thể điều chỉnh được giá cả thị trường một cách chủ động. Mối quan hệ giữa giá cả, thuế, dự trữ Nhà nước có ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình thị trường, cả 3 yếu tố này không tách rời hoạt động của Ngân sách Nhà nước. Việc chống lạm phát là nội dung quan trọng trong quá trình điều chỉnh thị trường, Ngân sách Nhà nước kiềm chế lạm phát thông qua các công cụ thuế phí, lệ phí và các khoản vay.
III. Phân cấp quản lý Ngân sách
1.Hệ thống Ngân sách Nhà nước:
Ngân sách Nhà nước nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là một hệ thống thống nhất, bao gồm: ngân sách Trung ương và ngân sách các cấp chính quyền địa phương.
Mỗi cấp ngân sách được phân định cụ thể nguồn thu, nhiệm vụ chi của mỗi cấp ngân sách được quy định theo Luật ngân sách Nhà nước, Nghị định 60/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách Nhà nước.
Ổn định tỷ lệ phần trăm phân chia các nguồn thu và số bổ sung của ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới từ 3 - 5 năm, thời gian cụ thể của từng thời kỳ do Thủ tướng Chính phủ quyết định khi giao dự toán ngân sách Nhà nước năm đầu của thời kỳ ổn định.
Dự toán ngân sách Nhà nước được lập và quyết định chi tiết nguồn thu, nhiệm vụ chi của từng đơn vị cơ sở và theo đúng mục lục ngân sách Nhà nước hiện hành. Đối với các khoản thu nhập ngân sách Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam của từng đơn vị được giữ lại một phần để chi cho các mục tiêu theo chế độ và các khoản thu được sử dụng để chi cho các mục tiêu đã được xác định cũng phải lập dự toán đầy đủ và được cấp có thẩm quyền duyệt.
Việc điều chỉnh dự toán ngân sách được thực hiện theo thẩm quyền, quy trình quy định tại Nghị định 60/2003/NĐ-CP và theo nguyên tắc cấp nào quyết định thì cấp đó điều chỉnh.
Các tổ chức, cá nhân, kể cả các tổ chức, cá nhân nước ngoài đang hoạt động trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nghĩa vụ nộp đầy đủ, đúng hạn các khoản thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác vào ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật.
Cơ quan thu (Thuế, Hải quan, Tài chính và các cơ quan khác phải được cho phép hoặc được Bộ Tài chính ủy quyền) phối hợp với Kho bạc Nhà nước tổ chức quản lý, tập trung nguồn thu ngân sách phải kịp thời vào quỹ ngân sách Nhà nước.
Tất cả các khoản chi ngân sách Nhà nước phải được kiểm tra, kiểm soát trước, trong và sau quá trình cấp phát thanh toán. Các khoản chi phải có trong dự toán ngân sách Nhà nước có thẩm quyền quy định và được thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách chuẩn chi. Người chuẩn chi chịu trách nhiệm về quyết định của mình, nếu chi sai phải bồi hoàn cho công quỹ.
Mọi khoản thu, chi ngân sách Nhà nước đều phải được hạch toán bằng đồng Việt Nam theo đúng niên độ ngân sách và mục lục ngân sách. Các khoản thu, chi ngân sách Nhà nước bằng ngoại tệ, hiện vật, ngày công lao động được quy đổi ra đồng Việt Nam theo tỷ giá ngoại tệ hoặc giá hiện vật, ngày công lao động do cơ quan có thẩm quyền quy định để hạch toán thu ngân sách Nhà nước tại thời điểm phát sinh đúng niên độ ngân sách.
Các tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ thu nộp ngân sách Nhà nước, sử dụng ngân sách Nhà nước phải tổ chức hạch toán kế toán, báo cáo và quyết toán việc thu nộp ngân sách hoặc việc sử dụng kinh phí theo đúng quy định của chế độ kế toán Nhà nước.
2.Phân định thu chi giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương:
Phân định thu giữa các cấp ngân sách là việc phân chia các khoản thu các cấp ngân sách
Nguyên tắc phân định thu:
-Phải đảm bảo tập trung vào bộ phận thu nhập ngân sách các cấp.
-Phải đảm bảo cho mỗi cấp ngân sách có nguồn thu ổn định từ đó mỗi cấp ngân sách có thể chủ động khai thác và sử dụng nguồn thu
-Đảm bảo đều hòa nguồn thu giữa các cấp ngân sách từ đó giúp cho các cấp ngân sách cân đối được ngân sách.
- Thu Ngân sách Trung ương gồm:
+ Các khoản thu ngân sách Trung ương hưởng 100%
+ Các khoản thu theo tỷ lệ % giữa ngân sách Trung ương và
ngân sách địa phương.
- Chi Ngân sách Trung ương gồm:
+ Chi đầu tư phát triển;
+ Chi thường xuyên;
+ Chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền do chính phủ vay;
+ Chi viện trợ;
+ Chi cho vay theo quy định của pháp luật;
+ Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính;
+ Chi bổ sung ngân sách địa phương;
-Thu Ngân sách địa phương gồm:
+ Các khoản thu Ngân sách địa phương hưởng 100%
+ Các khoản thu theo tỷ lệ % giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương.
+ Thu bổ sung từ ngân sách Trung ương
+ Thu từ huy động đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng
- Chi Ngân sách địa phương gồm:
+ Chi đầu tư phát triển
+ Chi thường xuyên
+ Chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền hoạt động cho đầu tư
+ Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính
+ Chi bổ sung ngân sách cấp dưới.
IV. Kho Bạc Nhà nước và vai trò của Kho Bạc Nhà nước trong quản lý quỹ NSNN.
Việc chuyển sự quản lý từ Ngân hàng Nhà nước về Bộ tài chính của Kho bạc Nhà nước đánh dấu một bước đổi mới trong hệ thống đổi mới Tài chính - Tín dụng và Kho bạc Nhà nước ngày nay được tiếp nhận với tư cách là một chủ thể độc lập tương đối của xã hội. Với sự độc lập tương đối có được, Kho bạc Nhà nước đã và sẽ phát huy tốt hơn các chức năng vốn có của mình để thể hiện qua các vai trò sau đây:
- Quản lý các nguồn vốn Tài chính Nhà nước (quỹ Ngân sách Nhà nước)
Việc quản lý quỹ tài chính của Kho bạc nói chung cũng như việc quản lý quỹ Ngân sách Nhà nước nói riêng là chức năng quan trọng nhất của Kho bạc, chức năng này thể hiện khi Kho bạc Nhà nước tham gia quá trình kế hoạch hóa Ngân sách Nhà nước từ khâu chuẩn bị đến khâu lập chấp hành và quyết toán Ngân sách Nhà nước. Tổ chức thu chi và quản lý quỹ Ngân sách Nhà nước phải phản ánh đầy đủ vào Ngân sách Nhà nước và được xử lý chung theo cân đối Ngân sách Nhà nước đảm bảo thu đúng, thu đủ các khoản thu theo luật định, thực hiện nghiêm chỉnh tỉ lệ điều tiết Ngân sách Nhà nước và quỹ Ngân sách từng cấp cũng được quản lý theo chế độ phân cấp hiện hành.
- Vai trò Ngân hàng chính phủ:
Với vai trò là Ngân hàng đặc biệt của chính phủ, Kho bạc Nhà nước đứng ra huy động vốn cho Ngân sách Nhà nước dưới hình thức phát hành tín phiếu, trái phiếu Kho bạc để bù đắp bội chi Ngân sách và để đầu tư phát triển.
Kho bạc Nhà nước tổ chức mở tài khoản và thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt cho các đối tượng theo quy định. Ngoài ra việc phát hành tín phiếu, trái phiếu không chỉ nhằm bù đắp thiếu hụt Ngân sách và đầu tư phát triển mà còn có tác dụng điều hòa lượng tiền mặt trong lưu thông góp phần ổn định tiền tệ.
- Vai trò tổng kế toán Quốc gia:
Để thực hiện tốt