Ngày nay, chúng ta đang chứng kiến những bước phát triển mạnh mẽ của quá trình khu vực hoá, toàn cầu hoá. Sự phát triển mới trong quan hệ giao lưu quốc tế đòi hỏi mỗi quốc gia, dân tộc phải khẳng định tính độc lập tự chủ của mình. Nhân tố quan trọng nhất để đảm bảo cho sự phát triển toàn diện của mỗi nước chính là sức mạnh văn hoá. Chính vì vậy, vấn đề gìn giữ và phát triển những tinh hoa văn hoá truyền thống không còn là vấn đề của từng quốc gia riêng rẽ mà đã mang tính toàn cầu và khu vực.
Việt Nam là một quốc gia có nền văn hoá lâu đời. Trải qua nhiều thời kỳ lịch sử nhân dân ta vẫn giữ gìn và tiếp tục phát triển những tinh hoa trong vốn văn hoá truyền thống của dân tộc. Tuy nhiên, mới đi vào kinh tế thị trường và mở cửa giao lưu chưa lâu, nền văn hoá truyền thống Việt Nam đã gặp những thách thức không nhỏ.
Hoàn cảnh kinh tế mới với những tiêu cực trong xã hội đặc biệt là tham nhũng lãng phí, lối sống chạy theo đồng tiền bất chấp lương tâm đã gây ra những hậu quả xấu cho truyền thống đạo đức như sự tan vỡ của gia đình cổ truyền, tỷ lệ li hôn cao, các tệ nạn xã hội gia tăng, mối quan hệ thân thiện trong họ tộc, làng xóm dần phai nhạt. Việt Nam ngày càng trở thành vấn đề thời sự được truyền tải trên những trang báo dành cho nhân dân trong nuức cũng như trên cả những trang báo đối ngoại. Do đó việc nghiên cứu tìm hiểu vấn đề này là rất cần thiết, đặc biệt là đối với những ai quan tâm đến những chuyển biến vốn rất khó nhận ra của nó.
Chính vì thế, chúng tôi chọn vấn đề “Vấn đề bảo tồn và phát huy tinh hoa văn hoá truyền thống trong thời đại mở cửa, giao lưu và hội nhập quốc tế” qua sự phản ánh của báo “Nhân dân”, “Thể thao và Văn hoá”, “Văn hoá Chủ nhật”, tạp chí “Quê hương” và “Heritage” (từ năm 1997 đến nay) làm đề tài khoá luận tốt nghiệp đại học của mình.
48 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1667 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề bảo tồn và phát huy tinh hoa văn hoá truyền thống trong thời đại mở cửa, giao lưu và hội nhập quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI:
Ngày nay, chúng ta đang chứng kiến những bước phát triển mạnh mẽ của quá trình khu vực hoá, toàn cầu hoá. Sự phát triển mới trong quan hệ giao lưu quốc tế đòi hỏi mỗi quốc gia, dân tộc phải khẳng định tính độc lập tự chủ của mình. Nhân tố quan trọng nhất để đảm bảo cho sự phát triển toàn diện của mỗi nước chính là sức mạnh văn hoá. Chính vì vậy, vấn đề gìn giữ và phát triển những tinh hoa văn hoá truyền thống không còn là vấn đề của từng quốc gia riêng rẽ mà đã mang tính toàn cầu và khu vực.
Việt Nam là một quốc gia có nền văn hoá lâu đời. Trải qua nhiều thời kỳ lịch sử nhân dân ta vẫn giữ gìn và tiếp tục phát triển những tinh hoa trong vốn văn hoá truyền thống của dân tộc. Tuy nhiên, mới đi vào kinh tế thị trường và mở cửa giao lưu chưa lâu, nền văn hoá truyền thống Việt Nam đã gặp những thách thức không nhỏ.
Hoàn cảnh kinh tế mới với những tiêu cực trong xã hội đặc biệt là tham nhũng lãng phí, lối sống chạy theo đồng tiền bất chấp lương tâm đã gây ra những hậu quả xấu cho truyền thống đạo đức như sự tan vỡ của gia đình cổ truyền, tỷ lệ li hôn cao, các tệ nạn xã hội gia tăng, mối quan hệ thân thiện trong họ tộc, làng xóm dần phai nhạt. Việt Nam ngày càng trở thành vấn đề thời sự được truyền tải trên những trang báo dành cho nhân dân trong nuức cũng như trên cả những trang báo đối ngoại. Do đó việc nghiên cứu tìm hiểu vấn đề này là rất cần thiết, đặc biệt là đối với những ai quan tâm đến những chuyển biến vốn rất khó nhận ra của nó.
Chính vì thế, chúng tôi chọn vấn đề “Vấn đề bảo tồn và phát huy tinh hoa văn hoá truyền thống trong thời đại mở cửa, giao lưu và hội nhập quốc tế” qua sự phản ánh của báo “Nhân dân”, “Thể thao và Văn hoá”, “Văn hoá Chủ nhật”, tạp chí “Quê hương” và “Heritage” (từ năm 1997 đến nay) làm đề tài khoá luận tốt nghiệp đại học của mình.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Trên báo chí Việt Nam những năm gần đây đã có rất nhiều bài báo đề cập đến vấn đề văn hoá truyền thống trong tiến trình lịch sử của dân tộc. Tuy nhiên trong phạm vi khoá luận của mình, chúng tôi chỉ khảo sát vấn đề qua 706 tin, bài trên 3 tờ báo tiêu biểu, rất quen thuộc đối với công chúng cả nước là báo “Nhân dân” (từ đây viết tắt là ND), báo “Thể thao và Văn hoá” (viết tắt và TT-VH), báo “Văn hoá Chủ nhật” (viết tắt là VHCN) và 2 tạo chí thông tin đối ngoại là “Quê hương” (viết tắt là QH), “Heritage” (viết tắt là HT).
Những tờ báo và tạp chí trên là những tờ báo và tạp chí trên là những tờ báo ngày tuần báo và tạp chí định kỳ đề cập nhiều đến vấn đề văn hoá truyền thống Việt Nam và sự giao lưu văn hoá Việt Nam với văn hoá quốc tế, có số lượng tin, bài đáng kể hình thành nêu diện mạo vấn đề.
III. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
Trong khoá luận tốt nghiệp, chúng tôi muốn áp dụng những kiến thức chuyên ngành đã học để nghiên cứu, tìm hiểu kỹ cách phản ánh của 3 tờ báo ND, TT-VH, VHCN, 2 tạp chí QH và HT về vấn đề bảo tồn và phát triển những tinh hoa văn hoá truyền thống trong thiên niên kỷ mới, đồng thời qua đó học tập cách viết của các nhà báo, phóng viên đi trước có nhiều kinh nghiệm để phục vụ cho hoạt động công việc của mình sau này.
Trên cơ sở tài liệu đã sưu tập được, chúng tôi đã đề ra những nhiệm vụ chính khi viết khoá luận tốt nghiệp này:
- Nghiên cứu các khía cạnh của nền văn hoá truyền thống Việt Nam trong thời đại mới được phản ánh qua 3 tờ báo và 2 tờ tạp chí từ năm 1997 đến nay, cụ thể là một số vấn đề về văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần và văn hoá - nghệ thuật truyền thống trong thời kỳ hội nhập quocó tế.
- Nghiên cứu các hình thức báo chí do báo ND, TT-VH, VHCN và tạp chí QH, HT đã sử dụng để chuyển tải các nội dung trên.
- Đưa ra những ý kiến đánh giá của mình về những ưu, nhược điểm của mỗi tờ báo và đề xuất một số kiến nghị cụ thể để góp phần nâng cao chất lượng báo chí ngày một gần gũi hơn với văn hoá nước ngoài. Giới trẻ hầu như đã quên bẵng cái loại hình nghệ thuật dân tộc mà “sôi nổi” tiếp nhận nghệ thuật phương tây. Rất nhiều loại hình nghệ thuật đặc sắc của Việt Nam như tuồng, chèo, rối nước... đang dần bị mai một.
Để khắc phục ngay những biểu hiện tiêu cực đó, theo đường lối chung Việt Nam vẫn giữ vững và thực thi nguyên tắc bảo vệ bản sắc dân tộc trong khi tăng cường việc giao lưu văn hoá thế giới. Việt Nam đã hết sức khuyến khích việc bảo vệ, tôn tạo các di tích văn hoá lịch sử, khai thác bảo tồn phổ biến các di sản văn hoá phi vật thể hàng ngàn năm của tổ tiên. Đồng thời Việt Nam cổ vũ cho những sáng tạo văn hoá mang đậm màu sắc dân tộc trong văn nghệ như âm nhạc, hội hoạ, sân khấu...
Thế kỷ XXI sẽ đem lại nhiều cơ may và vận hội mới nhưng cũng có cả không ít khó khăn và vấn đề mới mà đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam phải khắc phục và giải quyết tốt mới đạt được mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, tham gia vào sự phát triển chung của toàn nhân loại. Nền văn hoá giàu truyền thống cũng là một nguồn sức mạnh cần gìn giữ và phát huy, góp phần xây dựng vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
Với những đặc điểm phong phú, phức tạp và vai trò to lớn, văn hoá truyền thống.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Để thực hiện nhiệm vụ đã đề ra một cách có hiệu quả, trong quá trình thu thập và xử lý thông tin chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản như: sưu tầm, thống kê, phân loại các tin bài theo nội dung và hình thức, dựa trên cơ sở tư tưởng trong những văn kiện của Đảng và Nhà nước. Tham khảo các số liệu, luận điểm, ý kiến của các tác giả có uy tín. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phương pháp so sánh về cách phản ánh vấn đề của 3 tờ báo và 2 tờ tạp chí để làm nổi bật những đặc trưng của cơ quan thông tin đại chúng.
V. CẤU TRÚC CỦA KHOÁ LUẬN:
Với mục tiêu và nội dung trên, khoá luận có cấu trúc như sau: ngoài phần MỞ ĐẦU, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, khoá luận có 3 chương chính.
Chương một: Những quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam về việc xây dựng nền văn hoá mới.
Trong chương này, chúng tôi xin tự xác định một số khái niệm về văn hoá có liên quan đến đề tài khoá luận, những quan điểm cơ bản về văn hoá của Chủ tịch Hồ Chí Minh và định hướng một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc của Đảng và Nhà nước ta (qua các văn kiện của Đảng, chính sách của Nhà nước).
Chương hai: Việc phản ánh vấn đề bảo tồn và phát huy những văn hoá truyền thống Việt Nam trong thời đại mở cửa, giao lưu và hội nhập quốc tế trên báo “Nhân dân”, “Thể thao và Văn hoá”, “Văn hoá Chủ nhật”, tạp chí “Quê hương” và “Heritage” từ năm 1997 đến nay.
Trong chương này, chúng tôi nghiên cứu, phân tích nội dung trong các tin, bài phản ánh đời sống văn hoá kế tiếp truyền thống của người Việt, việc gìn giữ và phát triển tinh hoa văn hoá dân tộc đi đôi với công cuộc hội nhập quốc tế và khu vực.
Chương ba: Một số hình thức chuyển tải thông tin về vấn đề bảo tồn và phát huy nền văn hoá truyền thống Việt Nam trong thời đại mở cửa giao lưu và hội nhập quốc tế trên báo “Nhân dân”, “Thể thao và Văn hoá”, “Văn hoá Chủ nhật”, tạp chí “Quê hương” và “Heritage” từ năm 1997 đến nay.
Trong chương này, chúng tôi nghiên cứu, phân tích, học hỏi một số thể loại báo chí như tin, bài phản ánh, ký chân dung và phóng sự mà các báo và tạp chí trên đã sử dụng để phản ánh vấn đề văn hoá truyền thống trong thời đại ngày nay.
Kết luận: Trong phần này, chúng tôi nêu lên những ưu, nhược điểm của mỗi tờ báo, tạp chí và đưa ra những ý kiến đánh giá của mình đối với từng tờ báo và tạp chí cụ thể để góp phần nâng cao chất lượng báo chí nói chung.
Chương một
NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH,
ĐẢNG CỘNG SẢN VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỀ VIỆC
XÂY DỰNG NỀN VĂN HOÁ MỚI
Trong thời đại hội nhập và giao lưu quốc tế, văn hoá được coi là một động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp phát triển của nước ta trong thiên kỷ mới. Đánh giá cao vai trò của nền văn hoá dân tộc, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương, chính sách về việc ta đã có những chủ trương, chính sách về việc xây dựng nền văn hoá mới trong bối cảnh chung của văn hoá thế giới. Vì thế nên trong Chương một này chúng tôi sẽ tìm hiểu một số khái niệm liên quan đến đề tài khoá luận, một số ý kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh và những chủ trương, chính sách của Đảng ta về việc xây dựng nền văn hoá mới, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay.
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ VĂN HOÁ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI KHOÁ LUẬN.
Trước khi đi vào nghiên cứu cụ thể những vấn đề của khoá luận chúng tôi tự xác định cho mình một số khái niệm liên quan tới văn hoá, tìm hiểu ý kiến của các nhà lý luận văn hoá ở trong và ngoài nước.
1. Định nghĩa văn hoá:
Hiện nay trên thế giới có hơn 400 định nghĩa về văn hoá như dưới đây, theo chúng tôi, là những định nghĩa đáng chú ý nhất:
1.1. Định nghĩa của UNESCO
Tổ chức Văn hoá, khoa học và giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO) đã từng đưa ra nhiều định nghĩa về văn hoá theo cả nghĩa rộng và hẹp. Quan điểm của UNESCO về văn hoá được thể hiện rõ hơn cả là vào năm 1994 như sau: “Đó là một phức thể - tổng thể các đặc trưng - diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm... khắc hoạ nên bản sắc của một cộng đồng, gia đình, xóm, làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội (...). Văn hoá không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương mà cả những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những truyền thống, tín ngưỡng...”(1)
1.2. Định nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Trong trang cuối của bản thảo tập “Nhật ký trong tù” (1943) Bác hồ đã việt: “Vì lẽ sinh tồn cũng như vì mục đích cuộc sống con người sáng tạo ra, phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, nghệ thuật, văn học, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở... và phương tiện, phương thức sử dụng... Toàn bộ những sáng tạo đó là văn hoá”.
Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với những nhu cầu đời sống, những đòi hỏi của sự sinh tồn. (2)
Hai định nghĩa vừa nêu về văn hoá là tương đối toàn diện có thể sử dụng để làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu những vấn đề của nền văn hoá mới Việt Nam.
2. Định nghĩa văn hoá truyền thống Việt Nam.
Về văn hoá truyền thống hiện nay có rất nhiều cách hiểu không giống nhau. Tuy nhiên cũng có những điểm khá thống nhất là: những gì được lưu truyền trao từ thế hệ này sang thế hệ khác, có thể là tính cách, đạo đức, phong tục, tập quán, lối sống, thói quen... chính là văn hoá truyền thống.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Hồng Hà cho rằng văn hoá truyền thống là “toàn bộ giá trị, thành quả, thành tựu vật chất và tinh thần của công đồng các dân tộc Việt Nam được lưu giữ trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam”(1).
“Bản sắc văn hoá thường thể hiện ở tổng thể di sản văn hoá vật chất tinh thần của xã hội ở cảnh quan thiên nhiên đã được văn hoá, ở cốt cách tâm hồn, tập quán dân tộc, ở thị hiếu thẩm mỹ, cách sống và mô thức ứng xử của toàn dân tộc”(2).
Còn di sản văn hoá được coi như sự hiện thực hoá bản sắc văn hoá trong cuộc sống, vì:
“Di sản văn hoá là toàn bộ tạo phẩm chứa đựng trong quá trình hoạt động thực tiễn xã hội, là thành tựu của thế hệ trước trao truyền cho thế hệ sau. Di sản văn hoá được phân chia làm di sản văn hoá vật thể (hữu hình) và văn hoá phi vật thể (vô hình)”(3).
4. Khái niệm tiếp xúc, giao lưu văn hoá.
Thuật tiếp xúc vào giao lưu văn hoá được sử dụng khá rộng rãi trong nhiều ngành khoa học xã hội. Các nhà khoa học Mỹ R. Rit-di-phin, R.Lin-tơn và M.Héc-kô-vích vào năm 1936 đã định nghĩa khái niệm này như sau: “Dưới từ acculturation (tiếp xúc giao lưu văn hoá), ta hiểu hiện tượng xẩy ra khi những nhóm người có văn hoá khác nhau, tiếp xúc lâu dài và trực tiếp, gây ra sự biến đổi mô thức (pattern) văn hoá ban đầu của một hay cả hai nhóm”(1).
Theo GS Trần Quốc Vượng và một số nhà nghiên cứu văn hoá Việt Nam: “Giao lưu và tiếp xúc văn hoá là sự vận động thường xuyên của xã hội, gắn bó với tiên shoá của xã hội nhưng cũng gắn bó với sự phát triển của văn hoá, là sự vân động thường xuyên của văn hoá”(2) và “Ngày nay, chúng ta đã nhận thức rằng tiếp xúc và giao lưu văn hoá là quy luật phát triển của văn hoá, quy luật tất yếu của đời sống, một nhu cầu tự nhiên của con người hiện tại”(3)
II. MỘT SỐ Ý KIẾN CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ TRUYỀN THỐNG VĂN HOÁ DÂN TỘC VỀ VIỆC XÂY DỰNG NỀN VĂN HOÁ MỚI:
1. Về truyền thống văn hoá dân tộc:
Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời hay nói về truyền thống tốt đẹp của ông cha ta, về những tinh hoa văn hoá dân tộc. Người đã nhấn mạnh “truyền thống yêu nước, cần cù, tiết kiệm, tinh thần quật cường, sẵn sàng hy sinh tất cả để phục vụ tổ quốc... nhân dân ta sống với nhau có tình có nghĩa; kính già, mến trẻ, trọng nghĩa, khinh tài, ý thức cộng đồng, tình cảm gia tộc quê hương...”(4). Các nhà nghiên cứu cho rằng quan điểm trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “các giá trị vĩnh cửu có chức năng điều chỉnh xã hội, giúp cho xã hội Việt Nam duy trì được trạng thái cân bằng động, không ngừng tự hoàn thiện và thích ứng với những biến đổi của môi trường, làm chuẩn mực, định lượng và là động lực cho sự phát triển xã hội”(1).
2. Về việc xây dựng nền văn hoá mới với tư tưởng “lấy dân làm gốc”, Bác Hồ cho rằng việc xây dựng nền văn hoá mới cần phải kết hợp với việc phát triển con người Việt Nam trong thời đại mới. Người đã viết “Văn hoá phải thiết thực phục vụ nhân dân, góp phần vào việc nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân lao động”(2).
Theo Người “Chúng ta phải xúc tiến công tác văn hoá để đào tạo con người mới và cán bộ mới đồng thời phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hoá dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hoá tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền văn hoá Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng”(3).
Về mối quan hệ giữa văn hoá với kinh tế, chính trị, xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Văn hoá, văn nghệ cũng như các hoạt động khác không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị”(4).
Người coi văn hoá nghệ thuật là một mặt trận, cán bộ văn hoá nghệ thuật là chiến sĩ trên mặt trận đó. Người nói “Cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là phụng sự kháng chiến, phụng sự tổ quốc, phụng sự nhân dân, trước hết là công, nông, binh. Để làm tròn nhiệm vụ, chiến sĩ nghệ tuật cần có lập trường vững, tư tưởng đúng. Nói tóm lại là phải đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trước hết, trước hết”(1).
Bác Hồ cho rằng “cái bút là vũ khí sắc bén bài báo là tờ lịch cách mạng”, và các nhà văn, nhà báo phải “vừa góp phần trao đổi văn hoá, vừa góp phần xứng đáng chống chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân, đoàn kết các dân tộc để đấu tranh cho độc lập, dân chủ và hạn phúc cho cả loài người trên thế giới”(2).
II. ĐƯỜNG LỐI, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA VỀ VIỆC XÂY DỰNG NỀN VĂN HOÁ MỚI TRONG THỜI ĐẠI HIỆN NAY.
1. Những nhiệm vụ xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc:
Từ năm 1943, trong bản “Đề cương văn hoá Việt Nam” đã đề ra phương châm phát triển nền văn hoá nước nhà theo các nguyên tắc dân tộc, khoa học, đại chúng. Những năm gần đây, trong xu thế hội nhập với thế giới, Đảng ta tiếp tục đường lối xây dựng nền văn hoá mới đã được định hình từ hơn nửa thế kỷ trước, nhưng đã được cụ thể hoá hơn trong những nhiệm vụ say đây:
Thứ nhất: “Con người Việt Nam là sự kết tinh của nền văn hoá Việt Nam. Vì vậy, quá trình xây dựng nền văn hoá Việt Nam cũng chính là quá trình thực hiện chiến lược con người, xây dựng và phát huy nguồn lực con người. Đây là khâu trung tâm của sự nghiệp xây dựng nền tảng tinh thần, tiềm lực văn hoá và chế độ xã hội chủ nghĩa của chúng ta”(1).
Thứ hai: “Bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá dân tộc, các giá trị văn hoá, nghệ thuật, ngôn ngữ, chữ viết và thuần phong mỹ tục của dân tộc; tôn tạo các di tích lịch sử văn hoá. Tiếp thu tinh hoa và góp phần làm phong phú thêm nền văn hoá nhân loại”(2).
Thứ ba: “Bảo đảm tự do, dân chủ cho mọi sáng tạo văn hoá, năm học, nghệ thuật, tạo điều kiện thuận lợi để phát huy hiệu quả của lao động nghệ thuật”(3).
Thứ tư: “Hướng báo chí, xuất bản làm tốt chức năng tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phát hiện những nhân tố mới, cái hay, cái đẹp trong xã hội, giới thiệu gương người tốt, việc tốt, những điển hình tiên tiến, phê phán các hiện tượng tiêu cực, uốn nắn những nhận thức sai lệch, đấu tranh với những quan điểm sai trái”(4).
2. Về những định hướng phát triển văn hoá.
Coi trọng vai trò của gia đình trong việc xây dựng lối sống văn hoá, Đảng cộng sản Việt Nam chủ trương đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, “xây dựng nếp sống văn minh gia đình văn hoá” và phong trào “người tốt việc tốt”. Để xây dựng thành công nền văn hoá mới Đảng ta cho rằng cần phải “phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo tồn và tôn tạo các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể làm nền tảng cho sự giao lưu văn hoá giữa các cộng đồng, giữa các vùng cả nước và giao lưu văn hoá với bên ngoài”(1).
Đảng ta đã khẳng định: “Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hoá dân tộc, kế thừa và phát huy đạo đức truyền thống, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc. Tiếp thu tinh hoa của các dân tộc trên thế giới làm giầu thêm nền văn hoá Việt Nam, đấu tranh chống sự thâm nhập của văn hoá độc hại, những khuynh hướng sùng ngoại lai căng, mất gốc...”(2).
Nhìn chung, những chủ trương, chính sách trên đây không chỉ thể hiện sự quan tâm đặc biệt đến hệ thống di sản văn hoá dân tộc của Đảng, Nhà nước mà còn tạo điều kiện gìn giữ, phát huy những bản sắc văn hoá Việt Nam trong giao lưu, hội nhập quốc tế.
*
* *
Trong bối cảnh quốc tế hoá hiện thời, trong thực tiễn lịch sử cụ thể của Việt Nam hiện nay thì tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về văn hoá chính là con đường giúp đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển giao lưu, hội nhập quốc tế và khu vực mà không xa rời những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc.
Chương ba
MỘT SỐ HÌNH HTỨC CHUYỂN TẢI THÔNG TIN VỀ VẤN ĐỀ
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY TINH HOA VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG
VIỆT NAM TRONG THỜI ĐẠI MỞ CỬA, GIAO LƯU, HỘI NHẬP
QUỐC TẾ TRÊN BÁO “NHÂN DÂN”, “THỂ THAO VÀ VĂN HOÁ”,
“VĂN HOÁ CHỦ NHẬT”, TẠP CHÍ “QUÊ HƯƠNG” VÀ
“HERITAGE” TỪ NĂM 1997 ĐẾN NAY
Báo chí là phương tiện thông tin đại chúng quan trọng và thiết yếu đối với đời sống xã hội: Hiệu quả cao của báo chí chính là nhờ sự kết hợp thành công của cả nội dung và hình thức. Do đó bên cạnh nội dung, hình thức của báo chỉ có một vai trò rất quan trọng. Nó không chỉ góp phần nâng cao tính hấp dẫn của bài viết mà còn làm sáng tỏ nội dung vấn đề, đáp ứng nhu cầu về thông tin của công chúng. Do ý nghĩa đó nên trong Chương ba này, chúng tôi xin đề cập tới một số hình thức tiêu biểu mà báo ND, TT-VH, VHCN và tạp chí QH, HT đã sử dụng để chuyển tải nội dung thông tin. Dưới đây là bảng thống kê các thể loại báo chí đã được sử dụng:
Thể loại
Tin
Bài phản
ánh
Ký
chân dung
Phóng
sự
Các thể
loại khác
Tổng số tin
bài ở mõi tờ báo
Báo,
tạp chí
“Nhân dân”
71
58
23
8
2
162
“Thể thao và Văn hoá”
62
40
50
15
4
171
“Văn hoá Chủ nhật”
47
45
19
36
3
150
“Quê hương”
49
58
27
13
2
149
“Heritage”
15
35
21
8
5
84
Tổng số tin, bài ở 5 tờ báo
244
236
140
70
16
706
I. CÁC THỂ LOẠI ĐÃ ĐƯỢC SỬ DỤNG:
Qua bảng thống kê trên đây có thể thấy tin, bài phản ánh, ký chân dung, phóng sự là những thể loại được sử dụng nhiều nhất. Do đó trong phần này, chúng tôi sẽ phân tích kỹ hình thức của những thể loại đó để làm nổi bật đặc điểm, ý nghĩa cũng như lợi thế của các thể loại này khi thông tin về vấn đề văn hoá truyền thống.
1. Tin:
Đây là thể loại