Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại, nhà văn hóa kiệt suất của dân tộc Việt Nam và của nhân loại đã để lại cho chúng ta một di sản tinh thần vô giá, một hệ tư tưởng có giá trị về nhiều mặt. Trong đó tư tưởng về đại đoàn kết là tư tưởng nổi bật, có giá trị trường tồn đối với quá trình phát triển của dân tộc ta.
58 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2834 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại, nhà văn hóa kiệt suất của dân tộc Việt Nam và của nhân loại đã để lại cho chúng ta một di sản tinh thần vô giá, một hệ tư tưởng có giá trị về nhiều mặt. Trong đó tư tưởng về đại đoàn kết là tư tưởng nổi bật, có giá trị trường tồn đối với quá trình phát triển của dân tộc ta.
Tư tưởng đại đoàn kết đã trở thành tình cảm, suy nghĩ của mọi người Việt Nam yêu nước, là sợi dây liên kết cả dân tộc tạo nên sức mạnh to lớn đưa tới thắng lợi vẻ vang của Cách mạng tháng Tám năm 1945, dân tộc Việt Nam độc lập hoàn toàn, đất nước Việt Nam thống nhất trọn vẹn năm 1975. Thực tiễn, minh chứng rõ rằng: khi nào Đảng ta, dân tộc ta đoàn kết một lòng, thực hiện triệt để tư tưởng đại đoàn kết của Người, thì cách mạng lúc đó thuận lợi, thu được nhiều thành công. Ngược lại lúc nào, nơi nào dân ta vi phạm đoàn kết, xa rời tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh, thì lúc đó nơi đó cách mạng gặp khó khăn, thậm chí tổn thất.
Trong giai đoạn hiện nay, để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải xây dựng và phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong thời gian qua, nhìn chung, khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức được mở rộng hơn, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, trong khi sự nghiệp đổi mới đang có yêu cầu cao về tập hợp sức mạnh của nhân dân thì việc đoàn kết tập hợp nhân dân vào Mặt trận và các đoàn thể, các tổ chức xã hội còn nhiều hạn chế ở một số vùng có đồng bào theo đạo, đồng bào dân tộc thiểu số... Do vậy chỉ có thể huy động sức mạnh đại đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta mới đưa đất nước tiến nhanh, tiến mạnh trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh.
Huyện Văn Yên có vị trí, vai trò quan trọng, nằm trên trục giao thông quan trọng cả đường thủy (sông Hồng), đường bộ (đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai), đường sắt (có tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai). Huyện lại có đông dân tộc anh em sinh sống với phong tục tập quán, trình độ học vấn, điều kiện kinh tế, chế độ tôn giáo và tín ngưỡng khác nhau... nên dễ bị các thế lực phản động lôi kéo, dụ dỗ gây mất tình đoàn kết trong cơ sở Đảng cũng như trong tổ chức quần chúng trên địa bàn huyện. Do đó vấn đề xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện là rất quan trọng và cần thiết.
Việc hiểu rõ và vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc nói chung và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái nói riêng là vấn đề hết sức quan trọng, có ý nghĩa to lớn trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy tác giả đã mạnh dạn chọn vấn đề: “Vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược quan trọng của cách mạng nước ta. Do đó, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, bài viết liên quan đến vấn đề này.
Có nhiều bài viết của các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã nhấn mạnh tầm quan trọng, vai trò và ý nghĩa của đại đoàn kết dân tộc, như: trong tác phẩm Trường Chinh Tuyển Tập (1937 - 1954), Nxb Sự Thật, Hà Nội có bài viết “Mặt trận dân tộc thống nhất và vấn đề đại đoàn kết”. Tổng bí thư Nông Đức Mạnh (2008) đã có bài viết “Thành tựu của đất nước là sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc”, Tạp chí cộng sản, số 2 (146). Đồng thời cũng khẳng định lời nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh “ Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Êđê, XêĐăng hay BaNa và các dân tộc thiểu số khác đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt… Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt”; Tô Huy Rứa (2009) đã khẳng định “Đại đoàn kết dân tộc là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu, yếu tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, Tạp chí cộng sản, số 22 (190); Phùng Hữu Phú (chủ biên) (1995) với tác phẩm “Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh”, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
Ngoài ra, còn có các bài viết liên quan như: “Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập Mặt trận dân tộc thống nhất và suốt đời xây đắp khối đại đoàn kết dân tộc” của Vũ Kim Trọng, Tạp chí xây dựng Đảng, năm 2010; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết rộng rãi và chặt chẽ”, của Hạnh Nguyễn, Tạp chí Mặt trận, số 72, năm 2009.
Trên địa bàn miền núi huyện Văn Yên (tỉnh Yên Bái) cho đến nay đã có một số công trình, bài viết đề cập đến nhưng ở nhiều góc độ khác nhau. Những tài liệu nêu trên sẽ giúp ích cho việc tham khảo trong quá trình thực hiện nghiên cứu của tác giả.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích:
Đề tài đi sâu tìm hiểu nội dung, ý nghĩa của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc để tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo, các nhân tố hăng hái tham gia phong trào cách mạng, xây dựng và củng cố chính quyền, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, tăng cường sự nhất trí về mặt chính trị và tinh thần của xã hội ta, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Vạch ra những nguyên nhân làm hạn chế việc vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh, cũng như đề xuất những biện pháp nhằm củng cố, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Làm rõ quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Tìm hiểu việc vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái.
Đề xuất những biện pháp nhằm củng cố, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái.
Nghiên cứu đề tài này tác giả còn hi vọng sẽ góp một tài liệu nhỏ của mình về tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh cho việc vận dụng vào công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị tại địa phương mình.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Ở địa bàn huyện Văn yên tỉnh Yên Bái.
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu việc vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh nhằm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên địa bàn huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu với sự vận dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp lôgich và lịch sử, so sánh và tổng hợp cùng với phương pháp điều tra xã hội học.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, các phụ lục, tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài gồm 2 chương.
Chương 1: Những vấn đề cơ bản trong tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh.
Chương 2: Vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG
ĐẠI ĐOÀN KẾT HỒ CHÍ MINH
1.1. Vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là một hệ thống những luận điểm, nguyên tắc, phương pháp giáo dục, tập hợp và tổ chức lực lượng cách mạng nhằm phát huy cao nhất sức mạnh dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là tư tưởng xây dựng, củng cố và mở rộng lực lượng cách mạng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người và xây dựng xã hội mới.
1.1.1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của cách mạng
Với Hồ Chí Minh “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và nhân dân ta” [15; 510]. Đoàn kết tạo ra sức mạnh trong mọi cuộc đấu tranh, Người cho rằng: muốn giải phóng các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động phải tự mình cứu lấy mình bằng đấu tranh vũ trang cách mạng, bằng cách mạng vô sản.
Là một người am hiểu sâu sắc lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc mình, Hồ Chí Minh nhận thức được trong thời phong kiến chỉ có những cuộc đấu tranh thay đổi triều đại nhưng chúng đã ghi lại những tấm gương tâm huyết của ông cha ta với tư tưởng: vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức và khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc là thượng sách giữ nước. Chính chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết của dân tộc trong chiều sâu và bề dày của lịch sử này đã tác động mạnh mẽ đến Hồ Chí Minh và được Người ghi nhận như những bài học lớn cho sự hình thành tư tưởng của mình.
Năm 1858, thực dân Pháp tấn công bán đảo Sơn Trà, mở đầu cho thời kỳ cai trị và áp bức của chúng đối với dân tộc ta trong suốt gần 80 năm trời ròng rã. Nhưng cũng chính trong vòng gần 80 năm đó, chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc lại sôi nổi hơn bao giờ hết. Nó kết thành một làn sóng vô cùng to lớn, mạnh mẽ, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn thông qua các xu hướng khác nhau để cứu nước dù cuối cùng tất cả các xu hướng đó đều bị thất bại.
Hồ Chí Minh đã cảm nhận được những hạn chế trong chủ trương tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước tiền bối và trong việc nắm bắt những đòi hỏi khách quan của lịch sử trong giai đọan này. Đây cũng chính là lý do, là điểm xuất phát để Người quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước. Hồ Chí Minh cho rằng, cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX bị thất bại có một nguyên nhân sâu xa là cả nước đã không đoàn kết thành một khối thống nhất. Người thấy rằng, muốn đưa cách mạng đến thành công phải có lực lượng cách mạng đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành công xã hội mới. Muốn có lực lượng cách mạng phải thực hiện đại đoàn kết, quy tụ mọi lực lượng cách mạng thành một khối vững chắc. Do đó, đoàn kết trở thành vấn đề chiến lược lâu dài của cách mạng, là nhân tố bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng.
Người đã vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng vô sản vào thực tiễn Việt Nam, xây dựng lý luận cách mạng thuộc địa, trong đó Người quan tâm nhiều đến vấn đề lực lượng cách mạng và phương pháp cách mạng. Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc luôn được Người nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng. Ví dụ như: tại sao Pháp - một đất nước có ưu thế về vật chất, về phương tiện chiến tranh hiện đại lại phải thua một Việt Nam nghèo nàn, lạc hậu trong cuộc chiến xâm lược?. Đó là vì đồng bào Việt Nam đã đoàn kết như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Toàn dân Việt Nam chỉ có một lòng: Quyết không làm nô lệ. Chỉ có một chí: Quyết không chịu mất nước. Chỉ có một mục đích: Quyết kháng chiến để tranh thủ thống nhất và độc lập cho Tổ quốc. Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng vững chắc xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại.
Để thấy rõ hơn vị trí của sức mạnh lực lượng toàn dân đoàn kết trong thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ ra: vì sao có cuộc thắng lợi đó?. Một phần là vì tình hình quốc tế thuận lợi cho ta. Nhất là vì lực lượng của toàn dân đoàn kết. Tất cả các dân tộc, các giai cấp, các địa phương, các tôn giáo đều nổi dậy theo lá cờ Việt Nam để tranh lại quyền độc lập cho Tổ quốc. Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai thắng được lực lượng đó. Từ thực tiễn đó, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận: Sử dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Và Người khuyên dân ta rằng: “Dân ta xin nhớ chữ đồng: Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh” [8; 206]. Đây chính là con đường đưa dân ta tới độc lập, tự do.
Hồ Chí Minh đã đưa ra nhiều luận điểm về vấn đề đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế: đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công, Đoàn kết là điểm mẹ: “Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu cũng tốt” [13; 392]; “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” [14; 607].
1.1.2. Đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Đối với Hồ Chí Minh, yêu nước phải thể hiện thành thương dân, không thương dân thì không có tinh thần yêu nước. Dân ở đây là số đông, phải làm cho số đông đó ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, sống tự do, hạnh phúc.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, chúng ta không chỉ thấy rõ việc Người nhấn mạnh vai trò to lớn của dân mà còn coi đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu cách mạng. Do đó, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Trong lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam ngày 3/3/1951, Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc.
Xem dân là gốc, là lực lượng tự giải phóng nên Hồ Chí Minh coi vấn đề đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân để tạo ra sức mạnh là vấn đề cơ bản của cách mạng. Hồ Chí Minh còn cho rằng, đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Bởi vì, đại đoàn kết dân tộc chính là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Đại đoàn kết dân tộc chính là đòi hỏi khách quan của quần chúng nhân dân, trong cuộc đấu tranh tự giải phóng, Đảng có nhiệm vụ thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần chúng đấu tranh một cách tự giác, có tổ chức thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người.
Như vậy, đại đoàn kết không đơn thuần là phương pháp tập hợp lực lượng cách mạng, mà đó là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Vì vấn đề cơ bản của cách mạng suy cho cùng là phải có bộ tham mưu đưa ra đường lối tập hợp sức mạnh toàn dân đánh giặc. Vấn đề đại đoàn kết dân tộc phải xuất phát từ đòi hỏi khách quan của cách mạng do quần chúng tiến hành. Đại đoàn kết dân tộc là chính sách chứ không phải là một thủ đoạn chính trị. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn, chuyển những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành hiện thực có tổ chức, thành sức mạnh vô địch của cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân.
1.2. Nội dung của đại đoàn kết dân tộc
1.2.1. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm Dân có nội hàm rất rộng. Người dùng các khái niệm này để chỉ “mọi con dân nước Việt”, “con Rồng cháu Tiên”, không phân biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người không tín ngưỡng, không phân biệt già, trẻ, gái trai, giàu, nghèo. Nói đến đại đoàn kết dân tộc cũng có nghĩa là phải tập hợp được mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. Người đã nhiều lần nêu rõ: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài… Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phụng sự nhân dân thì ta đoàn kết với họ” [12; 438]. Với tinh thần đoàn kết rộng rãi, Người đã dùng khái niệm đại đoàn kết dân tộc để định hướng cho việc xây dựng khối đoàn kết toàn dân trong suốt tiến trình cách mạng, bao gồm mọi giai cấp, dân tộc, tôn giáo.
Muốn thực hiện đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng với con người. Người đã nhiều lần nhắc nhở: “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ” [12; 438]. Để thực hiện được đoàn kết, Người còn căn dặn: cần xóa bỏ hết mọi thành kiến, cần phải thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ để phục vụ nhân dân.
Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh có lập trường giai cấp rõ ràng, đó là đại đoàn kết toàn dân với nòng cốt là khối liên minh công - nông - tri thức do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Muốn xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc rộng lớn như vậy, thì phải xác định rõ đâu là nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc và những lực lượng nào tạo nên cái nền tảng đó. Người đã chỉ rõ: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác” [12; 438]. Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất. Về sau, Người nêu thêm lấy liên minh công - nông - lao động trí óc làm nền tảng cho đại đoàn kết toàn dân. Nền tảng càng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết toàn dân tộc càng được mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
1.2.2. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, có tổ chức là Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng
Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là để tạo nên lực lượng cách mạng, làm cách mạng để xóa bỏ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới. Do đó, đại đoàn kết dân tộc không chỉ dừng lại ở quan niệm, ở tư tưởng, ở những lời kêu gọi, mà phải trở thành một chiến lược cách mạng, trở thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nó biến thành lực lượng vật chất có tổ chức và tổ chức đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất.
Cả dân tộc hay toàn dân tộc chỉ trở thành lực lượng to lớn, trở thành sức mạnh vô địch khi được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung, được tổ chức lại thành một khối vững chắc và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn, nếu không quần chúng nhân dân dù có hàng triệu, hàng triệu con người cũng chỉ là một số đông không có sức mạnh. Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước, xét trên một khía cạnh nào đó, chính là đi tìm sức mạnh để giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân lao động. Và sức mạnh mà Người đã tìm được là đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Từ khi tìm thấy con đường và sức mạnh để cứu nước, Hồ Chí Minh đã rất chú ý đến việc đưa quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với từng giai cấp, tầng lớp, từng giới, từng ngành nghề, từng lứa tuổi, từng tôn giáo… đó là các già làng, trưởng bản, các hội ái hữu, tương trợ, công hội, nông hội, đoàn thanh niên, hội phụ nữ, đội thiếu niên nhi đồng, hội phụ lão, hội Phật giáo cứu quốc, Công giáo yêu nước, các nghiệp đoàn... bao trùm nhất là Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận chính là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, tập hợp mọi người dân nước Việt, không chỉ ở trong nước mà còn cả những người Việt Nam định cư ở nước ngoài, dù ở bất cứ phương trời nào, nếu tấm lòng vẫn hướng về quê hương, về Tổ quốc Việt Nam.
Tùy theo từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xây dựng được Mặt trận dân tộc thống nhất có cương lĩnh, điều lệ phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng. Các tổ chức Mặt trận ở nước ta đều là tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi, tập hợp đông đảo các giai cấp tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu nước ở trong và ngoài nước, phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập, thống nhất của Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Để Mặt trận dân tộc thống nhất trở thành một tổ chức cách mạng to lớn, theo Hồ Chí Minh, nó cần được xây dựng theo những nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất, đoàn kết phải xuất phát từ mục tiêu vì nước, vì dân, trên cở sở yêu nước, thương dân, chống áp bức bóc lột, nghèo nàn lạc hậu.
Thứ hai, đại đoàn kết dân tộc phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công - nông - lao động trí óc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Thứ ba, hoạt động của Mặt trận theo nguyên tắc hiệp thương, dân chủ lấy việc thống nhất lợi ích của tầng lớp nhân