Đề tài Xây dựng mô hình quản lý khai thác khu du lịch Chùa Hương

Chùa Hương! hai tiếng ấy dường như đã quá đỗi gần gũi mà thiêng liêng với tất thảy mỗi người Việt Nam, để rồi: "Chẳng đi thì nhớ thì thương Ra đi mến cảnh chùa Hương không về" Nhưng Hương Sơn không chỉ là một chốn non kỳ thuỷ tú, là danh thắng biệt chiếm "nhất Nam thiên". Mà nơi đây còn là cội nguồn của các tín ngưỡng dân gian, là cõi tâm linh huyền ảo, một trong những trung tâm lớn nhất của Phật giáo Việt Nam đương đại. Theo như Phật tích còn lưu lại cho đến nay thì đây là nơi lưu dấu Đức Quan Thế Âm Bồ Tát ứng thân làm công chúa Diệu Thiện con vua Diệu Trang Vương đã tẩy bụi trần tại suối Giải Oan rồi tu hành đắc đạo tại Hương Tích Bảo Động, trở thành bà mẹ độ lượng, bao dung cho mọi sinh linh mà ngày nay linh tượng của người còn lưu lại ở nơi đây mà dân gian vẫn gọi là Bà Chúa Ba. Theo những tư liệu lịch sử cho thấy chùa Hương có thể đã ra đời từ thời Lê Thánh Tông niên hiệu Quang Thuận thứ 8 (1476). Khi đi tuần phú phương Nam ngài đã nghỉ ở chốn này và cho đến khi Tĩnh đô vương Trịnh Sâm xa giá đến đây vào năm Canh Dần (1770) thì ông đã khẳng định đây chính là "Nam Thiên đệ nhất động" và cho tạc vào cửa động dòng chữ này.

docx65 trang | Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1633 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng mô hình quản lý khai thác khu du lịch Chùa Hương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Chùa Hương! hai tiếng ấy dường như đã quá đỗi gần gũi mà thiêng liêng với tất thảy mỗi người Việt Nam, để rồi: "Chẳng đi thì nhớ thì thương Ra đi mến cảnh chùa Hương không về" Nhưng Hương Sơn không chỉ là một chốn non kỳ thuỷ tú, là danh thắng biệt chiếm "nhất Nam thiên". Mà nơi đây còn là cội nguồn của các tín ngưỡng dân gian, là cõi tâm linh huyền ảo, một trong những trung tâm lớn nhất của Phật giáo Việt Nam đương đại. Theo như Phật tích còn lưu lại cho đến nay thì đây là nơi lưu dấu Đức Quan Thế Âm Bồ Tát ứng thân làm công chúa Diệu Thiện con vua Diệu Trang Vương đã tẩy bụi trần tại suối Giải Oan rồi tu hành đắc đạo tại Hương Tích Bảo Động, trở thành bà mẹ độ lượng, bao dung cho mọi sinh linh mà ngày nay linh tượng của người còn lưu lại ở nơi đây mà dân gian vẫn gọi là Bà Chúa Ba. Theo những tư liệu lịch sử cho thấy chùa Hương có thể đã ra đời từ thời Lê Thánh Tông niên hiệu Quang Thuận thứ 8 (1476). Khi đi tuần phú phương Nam ngài đã nghỉ ở chốn này và cho đến khi Tĩnh đô vương Trịnh Sâm xa giá đến đây vào năm Canh Dần (1770) thì ông đã khẳng định đây chính là "Nam Thiên đệ nhất động" và cho tạc vào cửa động dòng chữ này. Để rồi cùng với tạo hoá, con người đã góp công cho chùa Hương trở thành một quần thể kiến trúc nguy nga tráng lệ giữa ngàn non mà có "cao chất ngất mấy toà cổ soái". Nhưng đáng tiếc thay, trải qua bao dâu bể thăng trầm giặc ngoại xâm bao lần gây binh lửa can qua, xoá đi bao công trình tú lệ. Nhưng không vì thế mà "Hương Tích" ngớt hương thơm, ngược lại hàng năm chùa Hương vẫn rộng mở thiền môn đón hàng chục vạn chúng Phật tử hành hương về đất phật. Tạo ra một lễ hội tôn giáo lớn và kéo dài bậc nhất ở nước Nam ta và cũng là lễ hội dài hiếm thấy trên thế giới. Đây chính là cơ hội lớn cho ngành du lịch nước nhà, vì thế từ nhiều năm nay khu danh thắng di tích Hương Sơn đã được đưa vào khai thác phục vụ ngành du lịch, là một trong những địa chỉ quan trọng trên bản đồ du lịch Việt Nam. Tuy nhiên cũng như hầu hết các điểm du lịch khác, nhiều tiềm năng của khu danh thắng Hương sơn chưa được khai thác hoặc khai thác chưa đúng mức, nhiều giá trị về tín ngưỡng, tâm linh, khảo cổ học, dân tộc học… còn chưa được biết đến. Trong khi đó, nhiều vấn đề đặt ra đã ở mức báo động. Vì vậy, đề tài “Xây dựng mô hình quản lý khai thác khu du lịch Chùa Hương” là một đề tài mới mẻ và có nhiều ý nghĩa thực tiễn. Qua đó người viết muốn góp một cái nhìn nhỏ bé cho sự phát triển của khu danh thắng này trong quá trình chuẩn bị cho việc đề nghị trở thành di sản văn hoá thế giới. Cũng nhân đây, người viết xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Tiến sĩ Trần Nhạn, các thầy cô giáo thuộc trường đại học Văn hoá Hà Nội, Sở du lịch Hà Tây, Ban tổ chức lễ hội chùa Hương, Ban quản lý thư viện quốc gia – TT Thông tin Khoa học Xã Hội và Nhân văn, các cơ quan tập thể và cá nhân đã giúp đỡ tôi hoàn thành khoá luận này A. PHẦN MỞ ĐẦU. 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI. Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật hiện đại cũng như nền kinh tế trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, du lịch đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được trong cuộc sống con người. Trong xu thế mới, với mong muốn hiểu biết về văn hoá, nâng cao dân trí, tiếp nối truyền thống thì niềm khát khao được đi du lịch để tìm hiểu và tận mắt chứng kiến các di tích lịch sử, các phong cảnh hữu tình ngày càng mạnh mẽ hơn. Đây cũng chính là một động lực chủ yếu thúc đẩy du lịch phát triển. Du lịch Việt Nam với khẩu hiệu “ Việt Nam - điểm đến của thiên niên kỷ mới” sẽ cố gắng để tạo được các sản phẩm du lịch có chất lượng cao vừa mang tính dân tộc, vừa mang tính hiện đại, có sức hấp dẫn lớn đối với du khách trong và ngoài nước. Du lịch Hà Tây cũng không nằm ngoài guồng máy đó. Đặc biệt, Chùa Hương là một trong những tài sản du lịch vô giá của Hà Tây nói riêng và của Việt Nam nói chung. Đây là một quần thể di tích và danh lam thắng cảnh nổi tiếng, bao gồm một hệ thống hang động, đền chùa xen lẫn trong rừng núi, hoa lá cỏ cây ở một vùng văn hoá đặc sắc với các lễ hội và phong tục nếp sống sinh hoạt đặc trưng của làng quê Việt Nam. Đây còn là miền đất của đạo Phật với nhiều truyền thuyết mang ý nghĩa tôn giáo đặc biệt là lễ hội chùa Hương có sức hấp dẫn đặc biệt với người dân Việt ở mọi miền đất nước. Có thể nói, khu Du lịch thắng cảnh chùa Hương là một bức tranh “ sơn thuỷ hữu tình” rất đep, rất nên thơ do thiên nhiên và con người tạo dựng. Chẳng thế Chùa Hương đã được thi sĩ Tản Đà phác họa bằng bốn câu thơ : “ Chùa Hương trời điểm lại trời tô Một bức tranh tình trải mấy thu Xuân lại xuân đi không dấu vết Ai về ai nhớ vẫn thơm tho” Theo Quy hoạch tổng thể phát triển Việt Nam nói chung và Quy hoạch tổng thể phát triển Du lịch Hà Tây nói riêng thời kì 1995 ( 2010 đã xác định Chùa Hương là điểm Du lịch quan trọng có ý nghĩa quốc gia và Quốc tế ở khu Du lịch Bắc Bộ. Do cách Hà Nội không xa và tương đối thuận lợi trong giao thông, chùa Hương là một trong những điểm du khách quốc tế quan tâm hàng đầu khi đặt chân đến thủ đô Hà Nội. Tuy nhiên, việc khai thác các hoạt động du lịch ở Chùa Hương thực sự vẫn chưa tương xứng với những tiềm năng to lớn về tài nguyên nhân văn và tự nhiên của khu vực. Trong những năm gần đây đã xuất hiện nhiều vấn đề cần quan tâm nghiên cứu một cách nghiêm túc trước những thực trạng đang đặt ra đối với vấn đề phát triển của khu du lịch. Một trong những vấn đề bức xúc kìm hãm sự phát triển của Chùa Hương là cho đến nay khu Du lịch thắng cảnh chùa Hương vẫn chưa tìm được mô hình quản lý phù hợp làm cơ sở cho sự phát triển của khu vực. Việc xây dựng một mô hình quản lý khai thác tài nguyên khu Du lịch chùa Hương là một yêu cầu cấp thiết mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao không chỉ đối với sự phát triển của du lịch Hà Tây mà còn góp phần tích cực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Ngoài ra, sự phát triển bền vững của khu Du lịch thắng cảnh chùa Hương còn đáp ứng được yêu cầu chiến lược, phát triển trung tâm Du lịch Hà Nội và phụ cận, cũng như của vùng Bắc Bộ và Du lịch cả nước. Với những lý do trên, được sự giúp đỡ tận tình của TS. Trần Nhạn cùng các thầy cô giáo khoa Văn hoá du lịch trường ĐH Văn Hoá, ban lãnh đạo, các chuyên viên tại Sở du lịch Hà Tây em đã mạnh dạn chọn vấn đề: “ Xây dựng mô hình quản lý khai thác khu du lịch Chùa Hương” làm đề tài nghiên cứu cho khoá luận tốt nghiệp của mình. 2. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU. - Đối tượng: Mô hình quản lý khai thác tài nguyên khu Du lịch - thắng cảnh – lễ hội chùa Hương. - Phạm vi nghiên cứu: + Về không gian lãnh thổ: Đề tài có giới hạn phạm vi nghiên cứu trong khu vực địa bàn xã Hương Sơn và các xã liền kề, và một số đặc điểm chung khu vực huyện Mỹ Đức. Nhưng chủ yếu tập trung vào khu di tích thắng cảnh, lễ hội chùa Hương đặc biệt là một số khu quan trọng như Đền Trình, động Hương Tích... + Về thời gian : Phân tích dựa trên cơ sở số liệu theo báo cáo tổng kết các năm 1997 đến năm 2003 và dự báo phát triển toàn khu đến năm 2010 + Nội dung: Mô hình quản lý hiện tại và giải pháp cho tương lai. 3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU. - Mục tiêu chung: Xây dựng một mô hình quản lý tối ưu cho khu Du lịch chùa Hương phù hợp với vị trí tiềm năng phát triển, trở thành khu Du lịch Văn hoá có sức hấp dẫn đặc biệt của Hà Tây nói riêng và của trung tâm Du lịch Hà Nội và phụ cận nói chung. - Mục tiêu cụ thể: + Đánh giá đúng tiềm năng của khu Du lịch chùa Hương + Nghiên cứu xem xét hiện trạng phát triển chùa Hương (1997 - 2003) đặc biệt là những mô hình tổ chức quản lý khai thác tài nguyên khu Du lịch chùa Hương, tìm ra những mặt đã đạt được cần phát huy và những mặt hạn chế tồn tại cần khắc phục. + Đề xuất một mô hình quản lý khai thác mới cho khu Du lịch chùa Hương nhằm khắc phục những hạn chế đến sự phát triển du lịch, phát huy được tiềm năng, lợi thế để có thể phát triển đa dạng và bền vững. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. Nhằm thực hiện những mục tiêu đã đặt ra ở trên trong quá trình thực hiện tuỳ theo từng giai đoạn công việc khác nhau, các phương pháp được sử dụng thích hợp bao gồm các phương pháp sau: Duy vật lịch sử, duy vật biện chứng, phương pháp thu nhập số liệu (thứ cấp, sơ cấp), phương pháp khảo sát thực địa, thống kê, phân tích, tổng hợp. 5. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI. Ngoài phần mở đầu và kết luận đề tài nghiên được bố cục làm 3 chương: Chương 1: Khái quát về khu Du lịch chùa Hương. Chương 2: Thực trạng phát triển Du lịch và tổ chức quản lý khai thác tài nguyên khu Du lịch chùa Hương. Chương 3: Một số kiến nghị xây dựng mô hình quản lý khai thác tài nguyên khu Du lịch chùa Hương. B. PHẦN NỘI DUNG. CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT VỀ KHU DU LỊCH CHÙA HƯƠNG. 1.1. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ CỦA KHU DU LỊCH CHÙA HƯƠNG. Khu Du lịch thắng cảnh chùa Hương bao gồm phân giới hành chính của 4 xã Hương Sơn, An Tiến, Hùng Tiến và An Phú thuộc huyện Mỹ Đức tỉnh Hà Tây, với diện tích 5131 ha. Khu Du lịch chùa Hương nằm trong toạ độ địa lý từ 20029' đến 20024' vĩ độ Bắc và 105041' kinh độ Đông. Phía Nam giáp tỉnh Nam Hà, phía Bắc và Đông thuộc tỉnh Hà Tây, phía Tây giáp tỉnh Hoà Bình. Khu Du lịch thắng cảnh chùa Hương cách Hà Nội về phía Tây- Nam khoảng 60km. 1.2. ĐIỀU KIỆN DÂN SỐ VÀ LỊCH SỬ. 1.2.1. Dân số. Khu Du lịch Hương Sơn nằm ngay trong khu dân cư bao gồm 4 xã Hương Sơn, An Tiến, Hùng Tiến, An Phú. Trong đó Hương Sơn là xã đông dân cư nhất với gần 7000 hộ có 32.210 nhân khẩu.Đây là vùng đất nông nghiệp nên nhân dân chủ yếu sống bằng nghề nông. Khi vào hội nhân dân trong vùng tập chung chủ yếu là phục vụ khách du lịch. Nhân dân xã Yến Vĩ chủ yếu sống bằng nghề chèo đò còn các xã khác chủ yếu là bán hàng lưu niệm hoặc gánh hàng thuê cho khách. 1.2.2. Lịch sử chùa Hương. Theo Phật Thoại thì đây là nơi Đức Quan Thế Âm Bồ Tát tu hành đắc đạo . Bồ Tát đã ứng thân làm công chúa Diệu Thiện, con vua Diệu Trang Vương ở nước Hưng Lâm, tu hành trong 9 năm trong động Hương Tích. Khi đắc đạo rồi Người trở về chữa bệnh cho cha ,trừ nghịch cho đất nước và phổ độ chúng sinh. Khi câu chuyện này được truyền bá ra, các thiền sư , cổ đức đã chống gậy tích tới đây, nhàn du mây nước. Kết quả ba vị hoà thượng đời vua Lê Thánh Tông (1442-1497) đã tìm thấy động Hương Tích và dựng lên thảo am Thiên Trù . Kể từ đó động Hương Tích thường được gọi là Chùa Trong, Thiên Trù được gọi là Chùa Ngoài, rồi người ta lấy tên chung cả hai chùa và cả khu vực là Chùa Hương, hay “Hương Thiên Bảo Sái”. Hương Tích có nghĩa là dấu vết thơm tho, ý nói đây từng là nơi tu hành của Bồ Tát Quan Thế Âm, còn Thiên Trù đọc theo âm Hán Việt nghĩa là Bếp Trời, vì chùa nằm trong khu vực ứng với một ngôi sao chủ về việcẩm thực. Do đó nói đi trẩy hội Chùa Hương tức là đi chiêm bái cả khu vực Hương - Thiên của vùng núi Hương Sơn. Hàng năm có mấy chục vạn lượt người hành hương tới đây để dâng lên đức Phật một lời nguyện cầu, một nén tâm hương hoặc thả hồn bay bổng hoà quyện với thiên nhiên ở vùng rừng núi thơm tho in dấu Phật này. Kể từ khi vua Lê Thánh Tông đi tuần thú Phương Nam lần thứ II và chư vị Liệt Tổ chống tích trượng khai sơn phát hiện đến nay. Trải qua mấy trăm năm với chiều sâu lịch sử và bề dầy truyền thống văn hoá đã tô bồi cho vùng thiên nhiên hùng vĩ này một bức tranh “kỳ sơn tú thuỷ”. Dãy núi đã bị sự xâm thực lâu đời của thiên nhiên nên mạch nước khoét núi đã tạo thành nhiều hang động với nét đẹp tự nhiên. Năm 1687 hoà thượng Trần Đạo Viên Quang mới chống thiền trượng hoằng truyền và xiển dương đạo Phật khiến vùng này trở thành nơi linh sơn phúc địa. Đến đầu năm 1947 chùa Hương đã trải qua 9 đời tổ sư nối tiếp xây dựng và luôn được sự ủng hộ của thiện tín muôn phương và nhân dân sở tại. Ngày 17/02/1947 giặc Pháp đã tàn phá Thiên Trù và Tiên Sơn nhưng sau hoà bình lập lại với sự chỉ đạo của nghành văn hoá và chủ trương đúng đắn của nhà nước, thắng cảnh chùa Hương không những được khôi phục mà ngày càng được mở rộng và phát triển đến hôm nay. 1.3. TÀI NGUYÊN DU LỊCH CHÙA HƯƠNG. Toàn bộ khu thắng cảnh là một bức tranh toàn mỹ cả về bố cục lẫn màu sắc, nội dung và đường nét. Âm hưởng chính của bức tranh ấy là sự hoà quện của đạo với đời, của thiên nhiên hoang sơ với bóng dáng con người. Hàng năm Chùa Hương đón tiếp đông đảo nhân dân ở các mọi miền đất nước, kiều bào ở nước ngoài và khách quốc tế đến thăm. Trong tâm trí của mỗi người dân Việt Nam, Chùa Hương được coi là báu vật của quốc gia, một tài sản vô giá của hôm qua, hôm nay và mai sau. Đây là nơi hội tụ của những giá trị to lớn về tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn đã khiến Chùa Hương trở thành điểm du lịch nổi tiếng trong và ngoài nước. 1.3.1. Tài nguyên Du lịch tự nhiên. 1.3.1.1. Vị trí địa lý. Vị trí địa lý của Du lịch chùa Hương có lợi thế hơn hẳn các điểm Du lịch khác. Từ thủ đô Hà Nội hoặc các tỉnh đồng bằng có thể liên hệ thuận tiện với khu Du lịch bằng đường bộ, đường sông. Ngoài ra, nơi dừng chân của khách quốc tế ở khu vực phía Bắc thường là Hà Nội nên chùa Hương chính là điểm thu hút khách tới tham quan để tìm hiểu phong tục tập quán của người Việt Nam cũng như tín ngưỡng Phật Giáo. Đây là điểm du lịch văn hoá, tham quan, nghiên cứu có ý nghĩa quốc gia và quốc tế, không chỉ đối với Hà Tây mà còn với trung tâm du lịch Hà Nội và phụ cận, vùng du lịch Bắc Bộ. 1.3.1.2. Địa hình, địa mạo, địa chất. Khu Du lịch chùa Hương thuộc phần cuối của dẫy núi đá vôi kéo dài từ Lan Nhi Thăng, cao nguyên Sơn La, cao nguyên Mộc Châu, vùng đá vôi Hoà Bình - Ninh Bình đến tận bờ biển Nga Sơn - Thanh Hoá, với độ cao từ 1444m (đỉnh Bu Lan Nha Thăng) giảm xuống 100m - 300m về phía biển đi xuống. Khu vực này tiếp giáp với châu thổ sông Hồng, đây chính là ranh giới giữa rừng núi, đồng bằng về phía Tây Nam, đồng bằng sông Hồng. Do vậy, dẫy núi Hương Sơn cũng chỉ là núi thấp, đỉnh cao nhất là 381m. Tuy nhiên, do độ chia cắt ngang dày đặc với hệ thống hố rụt, phễu, máng trũng; những dẫy chuỗi, các hố nhỏ riêng biệt dạng tháp và tháp cụt được liên kết với nhau ở mạng phức tạp, các hệ thống khe dòng chẩy, những mảng rừng nhiệt đới gió mùa xen kẽ đã tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về một vùng núi non hùng vĩ, đa dạng cạnh đồng bằng. Địa hình, địa mạo của khu du lịch mang đặc điểm của một thời kỳ chấn động của vỏ trái đất được tạo thành từ thời Triat cách đây xấp xỉ 250 triệu năm. Hiện nay, do quá trình xâm thực, rửa lũ vẫn đang diễn ra nên khối núi Hương Sơn chính là mẫu tiêu biểu cho quá trình địa chất, đã và đang diễn biến. Mang đặc trưng rất rõ nét của karst nhiệt đới ẩm đa dạng về hình thái trong các thung lũng đã tạo thành những phong cảnh trông như viện bảo tàng đá tuyệt đẹp. Khu vực Chùa Hương có ba nhóm dạng địa hình : +Nhóm dạng địa hình nguồn gốc karst xâm thực tích tụ. +Nhóm dạng địa hình nguồn gốc karst. +Nhóm dạng địa hình bãi bồi. Một số hang động dạng karst ngầm đẹp nh Hinh Bồng, Long Vân, đặc biệt Hương Tích được chúa Trịnh Sâm khắc vào động: "Nam thiên đệ nhất động" với chiều dài từ 20-25m, cao 10-15m. Hệ thống núi ở đây không chỉ đẹp ở chiều cao mà còn đẹp ở chiều dầy, chiều rộng ở các quần tụ bố cục nhịp nhàng giữa núi với núi và núi với nước. Những dãy núi ở đây đều có hình dáng độc đáo và có ý nghĩa ở chốn cửa phật như núi mâm xôi với hình ảnh mâm xôi con gà hay núi voi phục mang vẻ đẹp tự nhiên của tạo hoá. Đánh giá chung về địa hình, địa mạo khu vực Chùa Hương cho thấy đây là nơi có địa hình núi thấp xâm thực nhưng nằm ngay cạnh đồng bằng, có phong cảnh “sơn thuỷ hữu tình” có lợi thế rất lớn về mức độ hâp dẫn du khách. 1.3.1.3. Khí hậu, thời tiết. Khí hậu thời tiết luôn là yếu tố ảnh hưởng lớn tới khách du lịch. Chính khí hậu tạo ra từng loại thời tiết và định ra mùa du lịch. Khu du lịch chùa Hương nằm hoàn toàn trong vành đai khí hậu nóng, hàng năm có hai lần mặt trời đi qua thiên đỉnh. Đặc biệt với lễ hội chùa Hương thì thời tiết mùa xuân là quan trọng vì nó trực tiếp tác động tới hoạt động của lễ hội. Thòi tiết mùa xuân với nhiệt độ dễ chịu 16-200C. Mặt trời chuyển dịch lên cao,nắng xuân ấm dịu. Mưa chủ yếu là mưa bay, mưa bụi, mưa phùn lên một màn trắng hư ảo, mong manh trước cổng chùa và trên cả núi rừng Hương Sơn. Đó là yếu tố thuận lợi cho khách vì khách sẽ cảm thấy bầu không khí khác lạ, yên tĩnh, tôn nghiêm, linh thiêng và phần nào bớt mệt khi leo núi. - Tổng nhiệt độ đạt từ 80000C – 85000C/năm. Nhiệt độ trung bình năm là 23.30C/năm. Một năm chia làm hai mùa nóng lạnh rõ rệt. Thời kỳ nóng nhất nhiệt trung bình là 270C . Thời kỳ lạnh nhất có nhiệt độ trung bình 180C. Thời kỳ tháng 3,4,9,10,11 tương đối thích nghi với sức khoẻ con người thuận lợi cho tham quan, nghỉ dưỡng. Chế độ gió nói chung không gây tác động xấu đến sức khoẻ con người, tạo độ thông thoáng vừa phải tương đối thuận lợi cho các hoạt động tham quan Du lịch, nghỉ dưỡng. - Chế độ bức xạ nắng,mây, mưa tương đối thích nghi với sức khoẻ con người thuận lợi cho hoạt động tham quan nghỉ dưỡng. - Lượng mưa trung bình 1800-2000mm /năm với ngày mưa 140-150 ngày/năm ở ngưỡng thích hợp đến khá thích hợp .Tuy có lượng mưa nhiều nhưng số ngày mưa không quá cao do vậy ít cản trở đến hoạt động tham quan du lịch ngoài trời. Với số giờ nắng cao và lượng nhiệt như vậy nên ở đây cây cối có thể ra hoa kết quả quanh năm. Các học giả ấn Độ đã đưa ra các chỉ tiêu khí hậu sinh học đối với con người như sau : Bảng 1: Chỉ tiêu khí hậu sinh học đối với con người. Hạng  Ý nghĩa  Nhiệt độ trung bình năm (độ C)  Nhiệt độ trung bình tháng (độ C)  Biên độ của t0 độ trung bình (độ C)  Lượng mưa trung bình năm (mm)   1  Thích nghi  8-24  24-27  <6  1250-1902   2  Khá thích nghi  24-27  27-29  6-8  1900-2550   3  Nóng  7-29  29-32  8-14  >2550   4  Rất nóng  29-32  32-35  14-19  <1250   5  Ko thích nghi  >32  >35  >19  <650   (Nguồn : Viện nghiên cứu và phát triển du lịch) Qua bảng số liệu trên và tình hình khí hậu khu du lịch Chùa Hương ta thấy khí hậu ở đây thuộc vào loại thích nghi và khá thích nghi, phù hợp với sức khoẻ con người. Đây là một trong những yếu tố hấp dẫn thu hút khách du lịch. Trên cơ sở đó khu du lịch cần khai thác triệt để khía cạnh này, một mặt cũng cần có những biện pháp phòng chống những khó khăn do khí hậu gây ra như nhiệt độ vào mùa hè cao, cần có những thiết bị chống nóng trong nhà nghỉ cho khách, hay trồng nhiều cây để lấy bóng mát và tạo cảnh quan thêm đẹp. 1.3.1.4. Thuỷ văn. Để phục vụ cho khách du lịch thì nguồn nước đóng vai trò quan trọng. Nguồn nước ảnh hưởng tới môi trường sống còn lại trong khu vực và phục vụ cho môi trường sinh hoạt vệ sinh của dân c và khách du lịch.Mạng lới thuỷ văn của huyện Mỹ Đức rất phong phú gồm lưu lượng nước của hai con sông lớn: sông Đáy, sông Thanh Hà và hệ thống suối : suối Yến, suối Long Vân … đều do nguồn nước ngầm Karst cung cấp tạo ra dòng chảy quanh năm. Đặc biệt với dòng suối Yến hiền hoà thơ mộng uốn lượn quanh co chạy dài 3km mất khoảng một giờ đi đò đưa du khách đến chùa Thiên Trù để vào động Hương Tích. Không chỉ đóng vai trò là dòng chảy đón đưa du khách mà suối Yến còn tạo cho du khách cảm giác lãng mạn, thả hồn trước cảnh “Sơn thuỷ hữu tình “. Chẳng thế mà Chu Mạnh Trinh đã phải thốt lên khi tới Chùa Hương “ kìa non non, nước nước, mây mây\ Đệ nhất động hỏi rằng đây có phải”. Đây chính là một yếu tố tăng sức hấp dẫn ở Chùa Hương. Theo điều tra nghiên cứu của Viện nghiên cứu và phát triển du lịch thì hệ thống thuỷ văn rất phong phú, với tầng nước ngầm dồi dào sẽ là một điểm mạnh để cung cấplượng nước đảm bảo cho việc khai thác, phục vụ các nhu cầu du lịch, sinh hoạt của khách và dân cư. Bảng 2: Thành phần cán cân nước trong khu vực P (mm)  R(mm)  E(mm)  α   1900  1083  817  0.57   ( Nguồn : Viện nghiên cứu và phát triển du lịch) P : lượng nước mưa năm E : lượng bốc hơi năm R : lượng dòng chảy năm α : hệ số dòng chảy Tóm lại, nhìn chung về mặt tài nguyên nước ở khu vực có thể thấy lượng nước trong khu vực là khá đủ, và sạch phục vụ cho nhu cầu du lịch và sinh hoạt .Nhưng do tính chất đặc biệt của cấu tạo địa chất nên cần có những biện pháp khai thác hợp lý để cho môi trường
Tài liệu liên quan