Những năm gần đây, thị trường Việt Nam được chứng kiến nhiều thành công phát triển rực rỡ của các sản phẩm trong nước và việc đẩy mạnh xúc tiến xuất khẩu nhiều loại hàng hoá như : dầu thô, dệt may, nông sản, thuỷ hải sản, da giày, thủ công mỹ nghệ sang thị trường Hoa Kỳ, các nước Châu Âu, đã đem lại những nguồn lợi to lớn.
33 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2149 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Hoa Kỳ - Những rào cản thương mại khó tránh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Lời mở đầu 3
Nội dung 4
LỜI MỞ ĐẦU
Những năm gần đây, thị trường Việt Nam được chứng kiến nhiều thành công phát triển rực rỡ của các sản phẩm trong nước và việc đẩy mạnh xúc tiến xuất khẩu nhiều loại hàng hoá như : dầu thô, dệt may, nông sản, thuỷ hải sản, da giày, thủ công mỹ nghệ…sang thị trường Hoa Kỳ, các nước Châu Âu, …đã đem lại những nguồn lợi to lớn.Một trong những mặt hàng xuất khẩu mang lại những đóng góp rất lớn trong kim ngạch xuất khẩu chính là mặt hàng dệt may. Hiện nay, ngành này có kim ngạch xuất khẩu đứng thứ 2 sau dầu thô. Đồng thời đây cũng là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta giai đoạn 2001 – 2010.
Tuy nhiên, bên cạnh việc hoàn thiện và thúc đẩy thì xuất khẩu dệt may còn gặp rất nhiều những khó khăn, thách thức do các rào cản thương mại phía chính phủ Hoa Kỳ đưa ra mà chúng ta còn phải tìm hiểu, nghiên cứu và tìm ra những giải pháp nhằm hạn chế, khắc phục và giảm thiểu những khó khăn đó.
Chính vì lẽ đó mà em quyết định lựa chọn đề tài : “Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Hoa Kỳ - những rào cản thương mại khó tránh”.
Em lựa chọn đề tài này với mong muốn được hiểu biết thêm về tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam nói chung và tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Hoa Kỳ nói riêng. Mặc dù em được rất cố gắng hoàn thành đề án này, nhưng do hạn chế về trình độ và thông tin cùng với thời gian có hạn nên không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy giáo hướng dẫn TS . Tạ Văn Lợi đã tận tình giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện đề án này.
Chương I
Xuất khẩu dệt may sang Mỹ, vừa làm vừa…đếm!
I. Các rào cản Hoa Kỳ áp dụng nhằm hạn chế xuất khẩu đối với hàng dệt may Việt Nam
1.Hạn ngạch và thuế quan nhập khẩu
Mới đây Bộ thương mại Mỹ được dựng lên “rào cản” kỹ thuật mới, đó chính là cơ chế giám sát nhập khẩu hàng dệt may vào nước này. Trước đây khi nói đến rào cản thương mại các doanh nghiệp Việt Nam chỉ biết đến thuế quan và hạn ngạch. Quá trình tự do hoá thương mại mang đến thành quả là việc dỡ bỏ những biện pháp bảo hộ truyền thống, đặc biệt là khi Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO và hưởng quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn thì hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ, trong đó có dệt may, sẽ có cơ hội tăng trưởng cao hơn.
Về tính pháp lý của cơ chế này, ông Lê Quốc Ân, chủ tịch hiệp hội dệt may Việt Nam, chủ tịch tập đoàn dệt may(Vinatex) cho rằng cơ chế này không phù hợp với WTO. Bởi vì, cơ chế này chỉ nhằm giám sát riêng hàng dệt may Việt Nam, điều này trái với tinh thần chống phân biệt đối xử của WTO dành cho tất cả các thành viên của mình.
2. Các quy định cuả hải quan Hoa Kỳ
2.1> Những quy định về các sản phẩm dệt
Tem, mark, mã theo quy định tại "Texxtile Fiber Products Identification Act", trừ khi được miễn trừ.
2.2>Quy định về thương hiệu,nhãn hiệu và bản quyền
Hàng hoá mang nhãn hiệu gi hoặc sao chép, bắt chước một nhãn hiệu đã đăng ký bản quyền của một công ty Mỹ hoặc nước ngoài, sẽ bị cấm nhập khẩu vào Mỹ. Một bản sao đăng ký nhãn hiệu ở Mỹ sẽ phải nộp cho Uỷ ban Hải quan và được lưu giữ theo quy định.
3.Tiêu chuẩn xanh - sạch (Greentrade Barrier)
Trong xu thế hội nhập cạnh tranh gay gắt khi đưa hàng ra các thị trường lớn,đặc biệt la Hoa Kỳ,dệt may Việt Nam cũng đang gặp phải không ít khó khăn trước những rào cản thương mại, những tiêu chuẩn mà đối tác đặt ra. Trong số hàng loạt các tiêu chuẩn bắt buộc đặt ra đối với hàng dệt may, các nhà nhập khẩu hiện quan tâm nhiều đến tiêu chuẩn xanh, sạch đối với sản phẩm ngay từ khâu nguyên liệu đến thành phẩm...
4.Sự giám sát chặt chẽ trong việc chống bán phá giá hàng dệt may của chính phủ Hoa Kỳ
Trong bối cảnh tranh chấp thương mại đang trở nên một “đặc trưng” của hội nhập,việc Hoa Kỳ đưa ra các cơ chế giám sát chống bán phá giá các mặt hàng nhập khẩu vào nước này trong đó có hàng dệt may của Việt Nam là một điều dễ hiểu.
Nhưng để đảm bảo cạnh tranh thật công bằng, trong suốt 8 tháng qua, hầu hết đối với các mã hàng nhạy cảm, sản phẩm Dệt may của Việt Nam vào Mỹ không những không tăng về số lượng, không hạ giá bán mà còn duy trì như trước thời điểm quốc gia này áp dụng cơ chế giám sát.
II. Ảnh hưởng của các rào cản này tới tỷ trọng xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ
Tuy hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chiếm tới 50% tổng số hàng dệt may của Việt Nam xuất đi các nước, nhưng so với tổng khối lượng mà Mỹ nhập khẩu từ các nước khác trên thế giới thì hàng dệt may Việt Nam chỉ chiếm khoảng 3%. Đặc biệt, các nước này lại chưa bị áp đặt cơ chế này. Rõ ràng đây là 1 điều không hợp lý.
Mặc dù phải đến đầu tháng 8, phía Mỹ mới công bố những kết quả đầu tiên về việc giám sát hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ, nhưng từ mấy tháng trước đó, ngành dệt may Việt Nam được phải hứng chịu nhiều tác động tiêu cực của cơ chế này. Các đơn đặt hàng cho quý 3 và những tháng cuối năm 2007 sụt giảm đáng kể. Theo ông Lê Hồng Phoa, Giám đốc công ty may mặc Bình Dương, đơn hàng xuất khẩu sang Mỹ hiện được giảm 50% với cùng kỳ năm trước, do các đối tác lo ngại khả năng hàng dệt may của Việt Nam sẽ bị đánh thuế cổ phần hoá.
Theo Vinatex, do ảnh hưởng của việc giám sát tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam từ phía Chính phủ Mỹ, mục tiêu xuất khẩu 7,35 tỷ USD hàng dệt may trong năm 2007 sẽ khó có thể hoàn thành bởi trong 5 tháng đầu năm, kim ngạch chỉ tăng có 24,3%, giá trị bình quân tháng khoảng 537 triệu USD/tháng.
Với mức bình quân như vậy, kim ngạch cả năm chỉ có thể đạt khoảng 6,5 tỷ USD. Hiện, khách hàng Mỹ chưa ký hợp đồng cho quý III do còn theo dõi diễn biến của Chính phủ Mỹ. Nếu trong tháng 8 tới có những nhận xét bất lợi từ Bộ Thương mại Mỹ thì các nhà nhập khẩu có thể sẽ rút Việt Nam khỏi danh sách các nước xuất khẩu. Trong khi chờ đợi kết quả chính thức của đợt đánh giá đầu tiên, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam vẫn phải nỗ lực để duy trì và tăng trưởng xuất khẩu trên thị trường Mỹ bởi đây là 1 thị trường lớn đầy tiềm năng. Thêm vào đó hàng hoá được thị trường Mỹ chấp nhận sẽ như được cấp 1 tấm giấy thông hành để hàng hoá đi vào các thị trường khác 1 cách dễ dàng hơn.
Với những nỗ lực không ngừng đó, thời gian gần đây đơn hàng được trở lại với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
Tuy nhiên, cơ chế giám sát hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam của Bộ thương mại Mỹ chưa được gỡ bỏ, do vậy dù hợp đồng đang có xu hướng tăng lên nhưng các nhà xuất khẩu luôn phải dặn dò nhau vừa làm vừa…đếm.
Chương II
Phân tích tình huống
I. Cơ sở lý luận của hoạt động xuất khẩu
Xuất khẩu là động lực tăng thu ngoại tệ, tạo điều kiện cho nhập khẩu và phát triển cơ sở hạ tầng. Xét 1 cách cụ thể, xuất khẩu có vai trò rất lớn trong nền kinh tế.
Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, công nghiệp hoá đất nước…Do đó việc xuất khẩu được càng nhiều hàng hoá sẽ tạo điều kiện thu được nhiều nguồn vốn nhằm phát triển đất nước. Đồng thời, xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu.
Xuất khẩu góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế hướng ngoại. Sự tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế có thể được nhìn nhận theo các hướng sau : Xuất khẩu các sản phẩm của nước ta ra nước ngoài, xuất khẩu tạo điều kiện thuận lợi cho những ngành liên quan phát triển, xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, khai thác tối đa sản xuất trong nước, cung cấp đầu vào cho sản xuất.
Xuất khẩu là cơ sở tạo thêm vốn và kỹ thuật, công nghệ tiên tiến từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế nước ta.
Thông qua xuất khẩu, hành hoá của Việt Nam sẽ được tiếp xúc và tăng được khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới cả về giá cả, chất lượng.
Xuất khẩu còn giúp các doanh nghiệp có động lực tự phấn đấu vươn lên hoàn thiện chất lượng và hạ giá thành cho các sản phẩm của mình. Từ đó, sản phẩm của họ có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế đầy khốc liệt, với sức đào thải lớn đối với những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả.
Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta.
II. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ thời gian qua dưới sức ép của những rào cản
1. Đặc điểm và vai trò của ngành dệt may Việt Nam
1.1>Đặc điểm của ngành dệt may Việt Nam
Ngày nay, khi đời sống con người ngày càng được nâng cao thì nhu cầu thẩm mỹ ăn mặc cũng được nâng cao theo đó. Và các sản phẩm hàng dệt may chính là biểu tượng của trình độ và tình trạng tiêu dùng của xã hội.
1.2>Vai trò của ngành dệt may Việt Nam
Ngành dệt may Việt Nam cũng như nhiều ngành kinh tế khác đã có những đóng góp to lớn trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, góp phần tạo công ăn việc làm, tăng thu ngoại tệ…thông qua đẩy mạnh xuất khẩu sang các nước có nền kinh tế phát triển. Hiện nay, dệt may đứng ở vị trí thứ 2 sau dầu thô về giá trị xuất khẩu.
Sau Hiệp định thương mại Việt Mỹ, việc xuất khẩu ngành dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ gặp nhiều thuận lợi hơn. Do đó, hoạt động xuất khẩu mặt hàng này được thu hút được nhiều ngoại tệ đẩy mạnh phát triển kinh tế xược hội.
Có thể nói thông qua việc xuất khẩu dệt may sang thị trường thế giới được và đang đem lại cho chúng ta cơ hội phát triển nền kinh tế, giảm thiểu tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao đời sống nhân dân.
2.Phân tích các rào cản của Hoa Kỳ áp dụng đối với hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
2.1>Hạn ngạch nhập khẩu
Theo quy định của hải quan Hoa Kỳ,phần lớn các quota nhập khẩu do Cục hải quan Mỹ(US Customs Service) quản lý. Hội đồng hải quan (Commissioner of Customs) kiểm soát việc nhập khẩu hàng theo quota nhưng không có quyền cấp, hay thay đổi quota.
Quota nhập khẩu của Mỹ có thể chia thành 2 loại:
- Hạn ngạch giảm thuế (Tariff - rate quota): quy định số lượng của mặt hàng đó được nhập vào với mức thuế giảm trong một thời gian nhất định. Không có hạn chế về số lượng nhập vào đối với mặt hàng này, nhưng số lượng nhiều hơn mức quota cho thời gian đó sẽ bị đánh thuế nhập khẩu cao hơn.
- Hạn ngạch tuyệt đối (Absolute quota) là hạn ngạch về số lượng, tức là số lượng vượt quá hạn ngạch cho phép sẽ không được nhập vào Mỹ trong thời hạn của quota. Một số quota là áp dụng chung, còn một số thì chỉ áp dụng riêng đối với một số nước. Hàng nhập quá số lượng theo quota sẽ phải tái xuất hoặc lưu kho trong suốt thời hạn của quota.
Các điều khoản vi phạm luật lệ trong thương mại:
- Người vi phạm luật pháp về nhập khẩu hàng hoá, kể cả hàng giả sẽ bị phạt tù hoặc phạt tiền. Hàng hoá của người vi phạm có thể bị tịch thu, hoặc bị tạm giữ để đảm bảo việc nộp phạt.
- Luật Mỹ quy định các vi phạm việc kê khai sai lệch với Hải quan Mỹ có thể bị tù tối đa 2 năm, hoặc 5000 USD hoặc cả hai loại cho mỗi lần vi phạm hoặc cố tìm cách vi phạm.
-Các vi phạm về nhập khẩu hàng hoá trái phép có thể bị xử tù đến 20 năm hoặc phạt tiền đến 500.000 USD hoặc cả hai, cho mỗi lần vi phạm.
Chính điều này đã gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam khi muốn xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ.Rất nhiều doanh nghiệp dệt may vừa và nhỏ Việt Nam mới chỉ chân ướt chân ráo làm quen với thị trường Hoa Kỳ đã vấp phải những cú sốc về hạn ngạch nhập khẩu và thuế của nước này.Chính cú sốc đó đã khiến nhiều doanh nghiệp đang hăm hở với dự định xâm nhập vào thị trường tiềm năng này đành phải rút lui trong luyến tiếc.Có hiện tượng này là do,các doanh nghiệp dệt may vừa và nhỏ của Việt Nam có lượng vốn thấp,ít kinh nghiệm cạnh tranh trên thị trường quốc tế,nên chưa kịp thu lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ thì đã bị những khó khăn về thuế nhập khẩu quá cao,hạn ngạch nhập khẩu thì quá chặt chẽ đánh gục.
2.2>Các quy định của hải quan Mỹ
2.2.1>Những quy định về những sản phẩm là hàng dệt
Các sản phẩm sợi dệt nhập khẩu phi có tem, mark, mã theo quy định tại "Texxtile Fiber Products Identification Act", trừ khi được miễn trừ theo như điều khoản 12 của luật này:
- Tên và tỷ lệ trọng lượng của các thành phần sợi lớn hơn 5% trong sản phẩm, các thành phần sợi nhỏ hơn 5% được ghi là "các sợi khác".
- Tên hãng sản xuất và tên hoặc số đăng ký do Federal Trade Commission (FTC) cấp, của một hoặc nhiều người bán các sản phẩm sợi này. Tên nhãn hiệu đã được đăng ký tại Mỹ có thể được ghi trên nhãn mark, nếu nhãn mark này được gửi đến FTC.
- Tên của nước nơi đã gia công hoặc sản xuất.
Chính vì những quy định khắt khe này nên các doanh nghiệp Việt Nam đôi khi vì thiếu hiểu biết,hay ít cập nhật thông tin,hoặc do đơn đặt hàng của các đối tác Hoa Kỳ không yêu cầu rõ ràng về mẫu mã,bao gói của sản phẩm,dẫn đến hàng loạt các sản phẩm dệt may của Việt Nam bị hải quan Mỹ trả về.Và người chịu mọi thiệt thòi ở đây không ai khác chính là các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.Đây cũng là những hiện tượng thường thấy,khi các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu các sản phẩm nói chung và hàng dệt may nói riêng sang thị trường Hoa Kỳ.
2.2.2>Quy định về thương hiệu,nhãn hiệu và bản quyền
Hàng hoá mang nhãn hiệu giả hoặc sao chép, bắt chước một nhãn hiệu đã đăng ký bản quyền của một công ty Mỹ hoặc nước ngoài, sẽ bị cấm nhập khẩu vào Mỹ. Một bản sao đăng ký nhãn hiệu ở Mỹ sẽ phảii nộp cho Uỷ ban Hải quan và được lưu giữ theo quy định.
Cục Hải quan Mỹ cũng có những quy định tương tự đối với các chuyến hàng mang các tên thương mại trái phép. Các thương hiệu phải được đăng ký tại Hải quan theo quy định.
Việc nhập khẩu hàng hoá có nhãn hiệu thương mại gốc thuộc sở hữu của một công dân hoặc một công ty Mỹ bị coi là trái phép nếu không được sự đồng ý của người chủ sở hữu nhãn hiệu đó. Hoặc không phải là công ty chính hay chi nhánh của công ty đó, hoặc có chung quyền sở hữu nhãn hiệu đó, tuy nhiên nhãn hiệu này, phải được đăng ký với Hải quan.
"Nhãn hiệu giả" là một nhãn hiệu giống hệt hoặc gần giống hệt với một nhãn hiệu đã đăng ký. Hàng nhập khẩu có nhãn hiệu giả sẽ bị tịch thu sung công quỹ liên bang hoặc chính quyền địa phương, hoặc chuyển cho các cơ quan từ thiện, hoặc bán đấu giá nếu trong vòng một năm không có cơ quan nào cần sử dụng. Tuy nhiên, luật pháp cũng châm chước cho một số mặt hàng nhất định đi theo người vào Mỹ là hàng cá nhân sử dụng, không phải hàng để bán.
Phần 602 (a) thuộc Copyright Act năm 1976 quy định rằng nhập khẩu vào Mỹ các bản sao chép từ nước ngoài mà không được phép của người có bản quyền và vi phạm luật bản quyền sẽ bị bắt giữ và tịch thu,các bản sao sẽ bị huỷ.Tuy nhiên các hàng hoá này có thể được trả lại nước xuất khẩu nếu chứng minh thích đáng cho cơ quan hải quan là hàng không phải cố tình vi phạm. Các chủ sở hữu bản quyền muốn được cơ quan hải quan Mỹ (US Custom Service) bảo vệ quyền phải tới văn phòng bản quyền (US copyright Offfice) và đăng ký với hải quan theo các quy định hiện hành.
Hiện nay,khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO thì những vấn đề liên quan đến thương hiệu,nhãn hiệu và bản quyền mới được các doanh nghiệp quan tâm đến một cách nghiêm túc.
Tuy nhiên,sự chú ý này chỉ thường diễn ra ở các doanh nghiệp lớn có thị trường xuất khẩu rộng.Còn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam những hiểu biết về thương hiệu,về bản quyền vẫn còn là một khái niệm khó hiểu và vẫn còn rất xa vời.Chính những nhận thức sai lệch,chủ quan đó mà các doanh nghiệp dệt may Việt Nam vẫn thường xuyên phải gánh chịu những thiệt thòi không đáng có.
Rất nhiều các sản phẩm dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ dưới một cái tên rất Việt Nam.Nhưng khi các sản phẩm ấy được bày bán trên thị trường lại dưới một cái tên khác hoàn toàn.Như vậy trong trường hợp này phía Việt Nam sẽ đương nhiên phải chấp nhận cái danh là nhà gia công,chứ không còn là người sản xuất và cung ứng chính thức của mặt hàng này.
Nếu các doanh nghiệp Việt Nam muốn lấy lại thương hiệu đó thì trước hết phải được sự chấp nhận của phía doanh nghiệp Mỹ.Đương nhiên,sau đó phải kèm sẽ theo là một khoản tiền không nhỏ.Những cái mất không đáng mất ấy đôi khi cũng khiến nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải nhiều phen khốn đốn.
2.3>Tiêu chuẩn xanh - sạch (Greentrade Barrier)
Bất kỳ một quá trình sản xuất công nghiệp nào đều phát sinh chất thải và gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng tới sức khoẻ cộng đồng. Mức độ phát thải, về lượng cũng như mức độ ô nhiễm của một quá trình sản xuất phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chất lượng nguyên liệu đầu vào, quản lý sản xuất, công nghệ, thiết bị, mức độ tận dụng và tái sử dụng chất thải…
Từ trước những năm 1980, cách tiếp cận và ứng phó với các vấn đề ô nhiễm theo hướng chính “kiểm soát ô nhiễm" hay còn gọi là “phản ứng và xử lý”. Trên thực tế mọi giải pháp xử lý chất thải trên được thực hiện sau khi đã có chất thải, là hình thức chuyển trạng thái ô nhiễm từ dạng này sang dạng khác sao cho giảm về lượng cũng như mức độ ô nhiễm và độc hại. Các công nghệ kiểm soát ô nhiễm (các nhà máy xử lý nước thải, thiết bị xử lý khí thải như lọc ướt, cyclon lọc bụi, lò đốt, bãi chôn lấp) được triển khai ở các nhà máy.
Trong vòng những năm 80 trở lại đây, “sản xuất sạch hơn” được áp dụng rộng rãi ở các nước trên thế giới với mục đích giảm phát thải vào môi trường tại nguồn trong các quá trình sản xuất, sản xuất sạch hơn là cách tiếp cận chủ động, theo hướng “dự đoán và phòng ngừa” ô nhiễm từ chất thải phát sinh trong các hoạt động sản xuất công nghiệp.
Ở nước ta, sản xuất sạch hơn được đưa vào áp dụng từ năm 1996 và triển khai từ năm 1998 tập trung ở một số ngành công nghiệp như giấy, dệt - nhuộm, thực phẩm (chế biến thuỷ sản và bia), vật liệu xây dựng và gia công kim loại với trên 130 doanh nghiệp thuộc 28 tỉnh và thành phố và bước đầu mang lại những lợi ích kinh tế và môi trường thông qua tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng, hoá chất, nước, giảm thiểu chất thải trong sản xuất
Thực chất, tiêu chuẩn Greentrade Barrier - tiêu chuẩn thương mại “xanh”, cũng chính là một rào cản thương mại xanh. Rào cản thương mại xanh được áp dụng đối với hàng may mặc là đòi hỏi các sản phẩm phải đáp ứng được các tiêu chuẩn sinh thái quy định, an toàn về sức khỏe đối với người sử dụng, không gây ô nhiễm môi trường trong sản xuất, bắt buộc các nhà xuất khẩu phải tuân thủ. Một liên hệ thực tế, tình trạng trên đã xảy ra đối với hàng dệt may của Trung Quốc, thì tất yếu sẽ xảy ra đối với ngành Dệt May của Việt Nam và các nước châu Á khác. Như vậy là, trong cuộc cạnh tranh quyết liệt sau khi hạn ngạch dệt may được rỡ bỏ và một số tiêu chuẩn được các thị trường EU, Mỹ, Nhật... áp dụng, thì rào cản thương mại “xanh” là một thách thức, trở ngại lớn đối với tất cả các nước xuất khẩu hàng dệt may vào các thị trường nói trên.
Đối với quá trình sản xuất, sản xuất sạch hơn bao gồm giảm tiêu thụ nguyên liệu, năng lượng cho 1 đơn vị sản phẩm, loại bỏ tối đa các vật liệu độc hại, giảm lượng và mức độ độc hại của tất cả các dòng thải trước khi ra khỏi quá trình. Đối với sản phẩm, sản xuất sạch hơn tập trung làm giảm các tác động tới môi trường trong suốt vòng đời của sản phẩm kể từ khi khai thác nguyên liệu thô đến khi thải bỏ cuối cùng. sản xuất sạch hơn yêu cầu từng bước cải tiến công nghệ hiện có và dần thay thế bằng những công nghệ tốt và công nghệ sạch.
Có thể nói con số 130 doanh nghiệp triển khai sản xuất sạch hơn là quá nhỏ so với số doanh nghiệp hiện có trong cả nước.Trong khi ấy, tiềm năng sản xuất sạch hơn trong công nghiệp Việt Nam là rất lớn và tiềm năng giảm lượng chất thải và chất ô nhiễm môi trường cũng rất cao: tiết kiệm điện năng 20 – 50%, tiết kiệm nước 40 – 70%, giảm hiệu ứng nhà kính 20 – 25%, giảm các chất độc hại tạo thành chất thải nguy hiểm 50 – 100%…
Một thực tế đặt ra đối với ngành Dệt May Việt Nam là cho đến nay, việc sản xuất các sản phẩm “xanh” chưa được quan tâm áp dụng đúng mức. Một số nhà quản lý, điều hành doanh nghiệp còn chưa được trang bị kiến thức hoặc hiểu biết còn hạn chế về những yêu cầu “xanh” đối với các sản phẩm dệt may xuất khẩu. Ngoài ra, phần lớn các công ty, xí nghiệp trong dây chuyền nhuộm-hoàn tất vẫn còn sử dụng một số hóa chất, chất phụ trợ, thuốc nhuộm và các hóa chất gây ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường sinh thái, sức khỏe người lao động và thậm chí đến cả người sử dụng sản phẩm. Có thể nêu