Đặt vấn đề và mục tiêu: Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mục tiêu: Xác định sự an toàn của
phác đồ điều trị bổ sung chống tái phát ung bàng quang nông bằng Im‐BCG chủng 173P2 do viện Vaccin Nha
Trang sản xuất; Xác định hiệu quả của phác đồ này.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng có đối chứng. Tất cả bệnh nhân được chẩn
đoán là u bàng quang vào điều trị tại Bệnh viện tỉnh Khánh Hòa từ tháng 6‐1996 đến tháng 6‐2004. Sau mổ kết
quả giải phẩu bệnh là ung thư tế bào chuyển tiếp bàng quang giai đoạn Tis, Ta hoặc T1‐ độ I. Bệnh nhân được
chia thành 2 lô: Sau mổ bệnh nhân được điều trị bổ sung với BCG được xếp vào nhóm nghiên cứu. Những bệnh
nhân sau mổ vì một lý do nào đó không được điều trị bổ sung được xếp vào nhóm chứng.
Kết quả: sự khác biệt về kết quả siêu âm, X. quang, niệu dòng đồ, chất lượng cuộc sống, số lần đi tiểu trong
ngày giữa 2 lô không có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Các bệnh nhân có điều trị bổ sung bằng BCG có kết quả tốt
hơn các bệnh nhân ở lô chứng: thời gian tái phát sau phẫu thuật ở các nhóm có điều trị bổ sung đều kéo dài hơn ở
nhóm chứng. Trung bình là: lô chứng: 4,24 ± 0,8 tháng, lô có sử dụng BCG: 19.22 ± 5,9 tháng. Sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê (p=0,0016; test Breslow).
Kết luận: Các kết quả kiểm tra về siêu âm, X. quang, niệu dòng đồ, chất lượng cuộc sống, số lần đi tiểu
trong ngày tương đương nhau giữa 2 nhóm điều trị. Bệnh nhân không bị một tai biến nào xảy ra. Lô bệnh
nhân có điều trị bổ sung có kết quả tốt hơn lô chứng: thời gian tái phát sau phẩu thuật ở nhóm có điều trị bổ
sung kéo dài hơn ở nhóm chứng có ý nghĩa thống kê
7 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 263 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điều trị bổ sung chống tái phát ung thư bàng quang nông bằng bcg tại chỗ sau phẫu thuật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 257
ĐIỀU TRỊ BỔ SUNG CHỐNG TÁI PHÁT UNG THƯ BÀNG QUANG
NÔNG BẰNG BCG TẠI CHỖ SAU PHẪU THUẬT
Nguyễn Ngọc Hiền*, Trần Đức sơn*, Tôn Thất Minh Thuyết*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề và mục tiêu: Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mục tiêu: Xác định sự an toàn của
phác đồ điều trị bổ sung chống tái phát ung bàng quang nông bằng Im‐BCG chủng 173P2 do viện Vaccin Nha
Trang sản xuất; Xác định hiệu quả của phác đồ này.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng có đối chứng. Tất cả bệnh nhân được chẩn
đoán là u bàng quang vào điều trị tại Bệnh viện tỉnh Khánh Hòa từ tháng 6‐1996 đến tháng 6‐2004. Sau mổ kết
quả giải phẩu bệnh là ung thư tế bào chuyển tiếp bàng quang giai đoạn Tis, Ta hoặc T1‐ độ I. Bệnh nhân được
chia thành 2 lô: Sau mổ bệnh nhân được điều trị bổ sung với BCG được xếp vào nhóm nghiên cứu. Những bệnh
nhân sau mổ vì một lý do nào đó không được điều trị bổ sung được xếp vào nhóm chứng.
Kết quả: sự khác biệt về kết quả siêu âm, X. quang, niệu dòng đồ, chất lượng cuộc sống, số lần đi tiểu trong
ngày giữa 2 lô không có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Các bệnh nhân có điều trị bổ sung bằng BCG có kết quả tốt
hơn các bệnh nhân ở lô chứng: thời gian tái phát sau phẫu thuật ở các nhóm có điều trị bổ sung đều kéo dài hơn ở
nhóm chứng. Trung bình là: lô chứng: 4,24 ± 0,8 tháng, lô có sử dụng BCG: 19.22 ± 5,9 tháng. Sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê (p=0,0016; test Breslow).
Kết luận: Các kết quả kiểm tra về siêu âm, X. quang, niệu dòng đồ, chất lượng cuộc sống, số lần đi tiểu
trong ngày tương đương nhau giữa 2 nhóm điều trị. Bệnh nhân không bị một tai biến nào xảy ra. Lô bệnh
nhân có điều trị bổ sung có kết quả tốt hơn lô chứng: thời gian tái phát sau phẩu thuật ở nhóm có điều trị bổ
sung kéo dài hơn ở nhóm chứng có ý nghĩa thống kê.
Từ khóa: ung thư bàng quang nông, BCG
ABSTRACT
SUPPLEMENTARY THERAPIE AGAINTS POST‐OPERATIVE RECURENCIES OF SUPERFICIAL
BLADDER CANCER
Nguyen Ngoc Hien, Tran Duc Son, Ton That Minh Thuyet
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 257 ‐ 263
Introduction and objective: We conducted this study with the following aims: To determine the safety of
the additional treatment protocol in preventing the recurrence of bladder cancer (superficial tumor) by using Im‐
BCG strain 173P2. To determine the effectiveness of this protocol.
Patients and methods: Controlled clinical trials. All patients who were diagnosed with bladder cancer and
received treatment at the Hospital of Khanh Hoa Province from June 1996 to June 2004 with pathology results
showed transitional cell carcinoma stages Tis, Ta or T1‐level I were included in this study. Patients were divided
into 2 groups: test group included patients who received additional treatment with BCG after their surgeries;
control group included those who did not receive post‐operative treatment (due to any reasons).
* Bệnh viện Khánh Hòa
Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Ngọc Hiền ĐT: 0918080000 Email: ngochien45@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 258
Results: there are no significant differencies statistically for finding in ultrasound, x‐ray, urine flowmetry
quality of life and times of urination per day (p<0.05). Better result was noted in patients with supplementary
therapy than in control group: post‐operative recurrent time in BCG group was longer than that of control
group with the means as follows: control group: 4.24 ± 0.8 months, BCG group: 19.22 ± 5.9 months,
(p=0.0016, test Breslow).
Conclusion: Ultrasound examination results, radiographs, urinary charts, quality of life, daily frequency of
urination, etc. were similar between test and control groups. Patients did not show any complications. Test
group showed better results than control group: longer time for post‐operative recurrence was recorded for test
group than that for control group that had statistically significant.
Keywords: Superficial bladder cancer; BCG
MỞ ĐẦU
Ung thư bàng quang là một bệnh khá phổ
biến. Nó chiếm tỷ lệ khoảng 10% trong các loại
ung thư nam giới, đứng thứ tư sau ung thư
tuyến tiền liệt, ung thư phổi và ung thư đại ‐
trực tràng. Khoảng 90% ung thư bàng quang là
ung thư tế bào chuyển tiếp.
Trước đây, u gai bàng quang được xếp vào loại
trung gian (borderline). Từ năm 1973, theo quy
định của tổ chức y tế thế giới (WHO) u gai bàng
quang được xếp vào loại ung thư bàng quang
thể nông, độ I.
Qua thời gian, các ung thư bàng quang thể
nông phát triển theo 2 hướng:
‐ Xâm lấn vào vách bàng quang qua lớp
dưới niêm mạc, lớp cơđến các hạch vùng,
hạch xa
‐ Lan rộng theo bề mặt niêm mạc bàng
quang do các tế bào ung thư rơi ra từ khối ung
thư bám vào niêm mạc bàng quang trở thành tế
bào mầm ung thư (spidle cell).
Chính sự “gieo mầm” này là nguyên nhân
chủ yếu làm cho các ung thư bàng quang nông
có tỷ lệ tái phát rất cao sau điều trị cắt bỏ khối u
(nội soi hoặc mổ hở). Nhiều khảo sát cho thấy tỷ
lệ tái phát sau điều trị phẩu thuật ung thư bàng
quang nông khoảng 70‐90%(1,4,5,9,10,17,18) đòi hỏi
phải có điều trị bổ sung sau khi cắt bỏ khối ung
thư. Từ những năm cuối thập niên 1970 người ta
đã sử dụng hóa trị liệu bổ sung. Từ năm 1975
Ludgate C.M và cộng sự(11) đã áp dụng nhiệt trị
trong điều trị bổ sung sau cắt đốt ung thư bàng
quang nông nhằm chống tái phát. Sau đó từ
những năm đầu thập niên 1980 Brosman và
cộng sự (1985)(3) đã sử dụng BCG bơm vào bàng
quang gây phản ứng miễn dịch tại chổ để diệt
các “tế bào mầm” ung thư bàng quang.
Phương pháp hóa trị bổ sung đã được áp
dụng rộng rãi, mang lại hiệu quả đáng kể, kéo
dài thời gian tái phát ung thư bàng quang nông,
nhưng đồng thời hóa chất chống ung thư có độc
tính đã gây nhiều biến chứng cho bệnh nhân.
Nhiệt trị là vấn đề còn mới mẻ. Hiện nay BCG
được sử dụng trong trị liệu chống tái phát ung
thư bàng quang nông đang được dùng rộng rãi
tại nhiều nước Âu châu. Tại Việt Nam trước đây
chưa sản xuất được BCG sống đậm độ cao sử
dụng trong mục đích này nên chỉ có một số
trường hợp lẻ tẻ được điều trị.
Từ năm 1999 viện Vaccin Nha Trang đã sản
xuất được Im‐BCG, chủng 1173P2 (Paris), đóng
ống 2,6 ± 0,54 × 108 đvs/ống, đạt tiêu chuẩn kiểm
định quốc tế nên việc điều trị cho bệnh nhân có
nhiều thuận lợi.
Mục tiêu
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm:
‐ Xác định sự an toàn của phác đồ điều trị bổ
sung chống tái phát ung bàng quang nông bằng
Im‐BCG chủng 1173P2 do viện Vaccin Nha
Trang sản xuất.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 259
‐ Xác định hiệu quả của phác đồ này.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán là u bàng
quang vào điều trị tại Bệnh viện tỉnh Khánh Hòa
từ tháng 6‐1996 đến tháng 6‐2004. Sau mổ, kết
quả giải phẫu bệnh là ung thư tế bào chuyển
tiếp bàng quang giai đoạn Tis, Ta hoặc T1‐ độ I.
Liệu trình BCG như sau: Khởi đầu 2 tuần
sau ngày cắt đốt u bàng quang. Xét nghiệm
nước tiểu (tổng phân tích) để chắc chắn không
có nhiễm trùng hoặc chảy máu trên đường niệu.
Nhẹ nhàng đặt 1 thông Foley 16‐18 F vào bàng
quang giữ lại. Hòa tan một ống Im‐BCG đông
khô với 50 ml huyết thanh mặn vô trùng, bơm
vào bàng quang. Kẹp thông tiểu giữ lại 2 giờ sau
đó xả ra. Bơm mỗi tuần 1 lần ×1 ống, trong 6
tuần liên tiếp. Trong các đợt duy trì: bơm 3 tuần,
mỗi tuần 1 lần x 1 ống.
Chúng tôi không đưa vào nghiên cứu này
những bệnh nhân được điều trị bổ sung theo các
phương pháp khác (như hóa chất, nhiệt trị )
và các bệnh nhân bỏ điều trị, không tái khám.
Tất cả bệnh nhân đều được mời tái khám
định kỳ lần đầu sau 3 tháng, những lần sau mỗi
6 tháng. Khi tái khám cho làm xét nghiệm nước
tiểu, siêu âm, soi bàng quang (nếu cần), ghi niệu
dòng đồ và trả lời bảng câu hỏi theo mẩu bảng
AUA‐ss và bảng điểm chất lượng cuộc sống
(QL). Hiện tại bệnh viện không làm được cell
bloc. Bệnh nhân được yêu cầu tái khám khi có
những dấu hiệu nghi ngờ u tái phát.
Phương pháp nghiên cứu
Thử nghiệm lâm sàng có đối chứng. Bệnh
nhân được chia thành 2 lô: Sau mổ bệnh nhân
được điều trị bổ sung với BCG được xếp vào
nhóm nghiên cứu. Những bệnh nhân sau mổ vì
một lý do nào đó không được điều trị bổ sung
được xếp vào nhóm chứng.
Theo dõi tất cả các bệnh nhân trên. Mời bệnh
nhân tái khám định kỳ sau 3 tháng và mỗi 6
tháng sau đó. Khi tái khám ghi nhận :niệu dòng
đồ, điểm AUA‐ss, điểm chất lượng cuộc sống,
các biến chứng, ngày tái phát, (nếu có), kết quả
xét nghiệm nước tiểu, siêu âm kiểm tra hệ niệu,
soi bàng quang.
So sánh các kết quả về biến chứng, niệu
động học chức năng thận, chất lượng cuộc sống
và thời gian tái phát của 2 nhóm bệnh.
Xử lý thống kê: Sử dụng chương trình SPSS
For Windows 10.0. Xử lý số liệu theo các test:
test χ2 đối với các biến định tính và test Mann
Whitney, test Breslow đối với các biến định
lượng. Dùng phương pháp Kaplan Meyer để so
sánh thời gian tái phát trung bình giữa nhóm
chứng và nhóm nghiên cứu: đây là phương
pháp phân tích khả năng xảy ra biến cố (ở đây là
sự tái phát ung thư) trong nghiên cứu thử
nghiệm lâm sàng. Phương pháp này tính toán
khoảng thời gian từ khi một đối tượng được đưa
vào nghiên cứu cho tới lúc xảy ra biến cố (gọi là
thời gian thất bại). Phương pháp này cho phép
tính được thời gian thất bại trung bình, kiểm
chứng giá trị đồng thời vẽ được đường biểu diễn
kết quả.
KẾT QUẢ
Trong 8 năm chúng tôi đã nhận điều trị cho
73 lượt bệnh nhân ung thư bàng quang giai
đoạn Ta và T1 (cả lần đầu và tái phát) chia ra
như sau:
Số lượt bn điều trị
Lô Chứng: 26 lượt bn.
Lô BCG: 47 lượt bn.
Trong đó Nam : 61, Nữ : 12.
Tuổi trung bình của bệnh nhân
Có 45 bệnh nhân (73 lượt bệnh nhân). Tuổi
trung bình của bệnh nhân lô chứng: 65±12 tuổi,
lô có sử dụng BCG: 64±12 tuổi. Nhóm tuổi
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 260
thường gặp nhất là 55–80 tuổi, nhỏ nhất 35 tuổi,
lớn nhất 78 tuổi.
Bảng 1. Lý do vào viện
Số ca Tỷ lệ
Đái máu 51 70%
Đái khó 9 12%
Viêm BQ 7 10%
Khác 6 8%
Bảng 2. Kết quả GPB
Số ca Tỷ lệ
U TBCT_Ta 40 55%
U TBCT_T1 33 45%
TC 73 100%
Tất cả các trường hợp đều là ung thư tế bào
chuyển tiếp, độ I. Gồm 40 ca giai đoạn Ta (55%),
33 ca giai đoạn T1 (45%).
So sánh kết quả giữa các nhóm bệnh nhân:
Có 51 bệnh nhân đến tái khám 3 tháng sau mổ.
Bảng 3. Kết quả xét nghiệm nước tiểu
Lô chứng Lô BCG
Nước tiểu BT 13 32
93,0% 86,5%
Nhiễm trùng niệu 1 5
7,0% 13,5%
p = 0,468 (Fisher’s exact)
Bảng 4. Kết quả siêu âm kiểm tra
Lô chứng Lô BCG
BT 14 36
100.0% 97.3%
Vách BQ dày 0 1
0% 2.7%
p = 0,725 (Fisher’s exact)
Bảng 5. Tỷ lệ biến chứng giữa các nhóm bệnh
Lô chứng Lô BCG
Không có 13 32
92,9% 86,5%
Khó tiểu 1 5
7,1% 13,5%
p = 0,468 (Fisher’s exact)
Bảng 6. Đánh giá theo bảng điểm AUA_SS
Lô chứng Lô BCG
Tốt & rất tốt 13 31
92,9% 83,7%
Trung bình 1 6
7,1% 16,3%
p =0,455 (Fisher’s exact)
Bảng 7. Đánh giá theo bảng điểm chất lượng cuộc
sống (QL).
Lô chứng Lô BCG
Tốt & rất tốt 13 34
93% 92%
Trung bình 1 3
7% 8%
p = 0.720 (Fisher’s exact)
Bảng 8. Tình trạng đi tiểu sau mổ
LÔ CHỨNG LÔ BCG
<= 6 lần/24g 12 34
85,7% 91,9%
> 6 lần/24g 2 3
14,3% 8,1%
p = 0,421 (Fisher’s exact)
Lưu lượng dòng tiểu tối đa (Qmax)
‐ Lô chứng: 17,46 ± 1,32 ml/gi.
‐ Lô BCG: 16,56 ± 1,55 ml/gi.
với p = 0,069 (Mann Whitney).
Thời gian tái phát trung bình (tháng)
‐ Lô chứng: 4.24 ± 0,8 tháng.
‐ Lô BCG: 19.22 ± 5,9 tháng.
p = 0,0016 (test Breslow).
BÀN LUẬN
Từ tháng 6 ‐ 1996 đến tháng 6 ‐ 2002 có 56
lược bệnh nhân ung thư bàng quang giai đoạn
Ta,T1 ‐ Độ I (cả lần đầu và tái phát) được điều
trị, chia ra 2 lô: Lô chứng: 20 lượt bệnh nhân; Lô
BCG: 36 lượt bệnh nhân.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 261
Có 37 bệnh nhân. Tuổi trung bình của bệnh
nhân lô chứng: 64 ± 12 tuổi, lô BCG: 65 ± 12 tuổi.
Nhóm tuổi thường gặp nhất là 55‐70 tuổi, nhỏ
nhất 35 tuổi, lớn nhất 78 tuổi. Kết quả này phù
hợp với các nghiên cứu của Vũ Lê Chuyên(20),
Nguyễn Kỳ và Nguyễn Bửu Triều(14), Nguyễn
Tuấn Vinh (40‐80 tuổi)(15).
Tỷ lệ nam chiếm 87%, nữ chiếm 13%. So với
kết quả nghiên cứu của Nguyễn Tuấn Vinh(15)
(nam/nữ: 19/11), Nguyễn Kỳ và Nguyễn Bửu
Triều(14) (nam/nữ: 6/1). Tuy nhiên, do số liệu ít
nên các tỷ lệ này được nêu ra có tính cách tham
khảo, không có ý nghĩa so sánh.
Lý do khiến bệnh nhân vào viện điều trị
thường là do: tiểu ra máu tái phát nhiều lần.
Có bệnh nhân đã đi điều trị nhiều nơi không
khỏi, đến khi khám siêu âm mới phát hiện ra
u. Trong số bệnh nhân của chúng tôi, lý do vào
viện thường là tiểu ra máu: 67,9%, tiểu khó
14,3%, viêm bàng quang :10,7% và các triệu
chứng khác: 7,1%.
Tất cả các trường hợp đều là ung thư tế bào
chuyển tiếp, độ I gồm 30 ca giai đoạn Ta (54%),
26 ca giai đoạn T1 (46%). Không có ca nào ở giai
đoạn Tis cho thấy thường bệnh nhân đến bệnh
viện khi đã có dấu hiệu lâm sàng rõ rệt hoặc tái
phát nhiều lần. Trong tổng kết 10 năm của GS
Nguyễn Kỳ và GS Nguyễn Bửu Triều(14) có 29 ca
ở giai đoạn Ta (37,2%), 49 ca ở giai đoạn T1
(62,8%). Những ca ở giai đoạn từ T2 / Độ 2 trở
lên không nằm trong nghiên cứu này.
Sau điều trị bệnh nhân được mời tái khám.
Có 37 bệnh nhân tái khám ở thời điểm 3 tháng
sau mổ, kết quả ghi nhận được như sau:
Tỷ lệ nhiễm trùng niệu giữa hai lô bệnh
nhân tương đương nhau (p=1,000 Fisher′s exact),
cho thấy BCG tuy có gây viêm bàng quang ngay
sau khi bơm vào bàng quang trong một số
trường hợp nhưng sau đó khỏi, không có ảnh
hưởng lâu dài.
Tỷ lệ bệnh nhân bị tổn thương bàng quang ở
các bệnh nhân có và không có trị liệu bổ sung
tương đương nhau ở thời điểm tái khám kiểm
tra (p=1,000 Fisher′s exact). Không có bệnh nhân
nào bị chướng nước thận hoặc một biến chứng
nào khác trên hệ niệu được ghi nhận. Như vậy
trị liệu bổ sung BCG không làm gia tăng các các
tổn thương trên hệ niệu.
Đánh theo bảng điểm AUA‐ss (chất lượng đi
tiểu) trong cả 2 nhóm bệnh nhân đều không có
loại xấu (chỉ có rất tốt , tốt và trung bình). Kết
quả chung ở 2 lô không khác nhau (p=1,000,
Fisher′s exact). Như vậy liệu pháp trị liệu bổ sung
với BCG ít ảnh hưởng đến chất lượng đi tiểu của
bệnh nhân.
Đánh giá chất lượng cuộc sống của tất cả
bệnh nhân dù có hay không có trị liệu bổ sung
sau mổ cắt ung thư bàng quang, không có bệnh
nhân nào có kết quả xấu (5‐6 điểm QL). Chỉ có
rất tốt và tốt (0‐2 diểm QL), trung bình (3‐4 điểm
QL), không có xấu. Kết quả giữa 2 nhóm không
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=1,000,
Fisher′s exact).
Có 88,9‐90% bệnh nhân (lô sử dung BCG và
lô chứng) đi tiểu <=6 lần/ngày (số lần đi tiểu
bình thường), sự khác biệt giữa các nhóm điều
trị không có ý nghĩa (p=1,000 Fisher′s exact).
Đo niệu dòng đồ với máy Uroflow 2018.11,
kết quả cho thấy sự khác biệt về lưu lượng
dòng tiểu tối đa trung bình giữa hai nhóm
bệnh nhân không có ý nghĩa thống kê (p=0,435,
Mann Whitney).
Trong nghiên cứu này, cho đến nay chúng
tôi theo dõi được 18 bệnh nhân có tái phát, thời
gian tái phát trung bình ở mỗi lô bệnh nhân như
sau: ở bệnh nhân lô chứng là 4,23 ± 0,95 tháng, lô
sử dụng BCG là 19,22 ± 7,50 tháng. Sự khác
nhau về thời gian tái phát trung bình giữa nhóm
có trị liệu bổ sung BCG với nhóm chứng có ý
nghĩa thống kê (p=0,0028; test Breslow).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 262
Nhiều khảo sát cho thấy sau khi điều trị cắt
bỏ ung thư bàng quang (mổ hở hoặc cắt đốt nội
soi) tỷ lệ tái phát rất cao. Các nghiên cứu của
Akaza,H., và cộng sự(1), Boring và cộng sự(5),
Herman và cộng sự(8), v.v cho thấy khoảng 53‐
90% các trường hợp có tái phát sau 1‐3 năm, đòi
hỏi phải có điều trị bổ sung sau khi cắt bỏ khối
ung thư bàng quang.
Survival Functions
THOI GIAN TAI PHAT(thang)
50403020100
C
um
S
ur
vi
va
l
1.2
1.0
.8
.6
.4
.2
0.0
-.2
DT SAU MO
BCG
LO CHUNG
Biểu đồ 2. Thời gian tái phát
Từ những năm cuối thập niên 1970 người
ta bắt đầu nghiên cứu, sử dụng BCG bơm vào
bàng quang để tạo phản ứng miễn dịch tại chổ
gây hoại tử tế bào niêm mạc bàng quang,
trong đó có các tế bào ung thư. Nhiều nghiên
cứu(7) cũng cho thấy trị liệu bổ sung với BCG
đã làm hạ tỷ lệ tái phát xuống còn khoảng 30‐
40%. Nhưng BCG có thể gây ra một số tác
dụng không mong muốn thường gặp như tiểu
rắt (#80%), căng tức bàng quang, tiểu máu,
chóng mặt, buồn nôn, ngứa(16)
Theo Herr và cộng sự tỷ lệ đáp ứng với
điều trị chống tái phát ung thư bàng quang
nông sau cắt đốt nội soi tương ứng với các
thuốc là: theo dõi sau 2 năm, tỷ lệ không tái
phát là 100% với BCG, 74% với Doxorubicin và
60% với Thiotepa. Vito Pansaporo và cộng
sự(19) theo dõi 18 năm kết quả điều trị ung thư
bàng quang giai đoạn G3 T1 với BCG (bơm
vào bàng quang) nhận thấy: ở lô có sử dụng
BCG thời gian tái phát trung bình là 20 tháng,
tỷ lệ phải chuyển mổ cắt bàng quang là 8%, so
với 4 tháng và 70% ở lô không dùng BCG.
Tuy nhiên, trị liệu bổ sung chỉ có thể kéo
dài thời gian tái phát mà không chữa khỏi hẳn
bệnh. Do đó, để chóng tái phát triệt để ung thư
bàng quang nông sau phẩu thuật cần duy trì
các đợt trị liệu bổ sung sau mỗi 6 tháng một
đợt, mỗi đợt 3 tuần. Các đợt trị liệu duy trì cần
kéo dài trong 3‐5 năm (Morales và cộng sự)(12).
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 56 lượt bệnh nhân ung thư
bàng quang thể nông (giai đoạn Ta, T1‐ Độ I)
được điều trị phẩu thuật, không có và có kèm trị
liệu bổ sung theo phuơng pháp bơm BCG tại
chổ chúng tôi nhận thấy:
‐ Các kết quả kiểm tra về siêu âm, X. quang,
niệu dòng đồ, chất lượng cuộc sống, số lần đi
tiểu trong ngày tương đương nhau giữa 2
nhóm điều trị. Bệnh nhân không bị một tai biến
nào xảy ra.
‐ Lô bệnh nhân có điều trị bổ sung có kết quả
tốt hơn lô chứng: thời gian tái phát sau phẩu
thuật ở nhóm có điều trị bổ sung kéo dài hơn ở
nhóm chứng, sự khác biệt này có ý nghĩa thống
kê (p=0.0028, test Breslow). Thời gian tái phát
trung bình là: Lô chứng: 4,23 ± 0,95 tháng. Lô
BCG: 19,22 ± 7,50 tháng.
Tuy nhiên, trị liệu bổ sung chỉ có thể kéo
thời gian tái phát. Để chống tái phát triệt để ung
thư bàng quang nông sau phẩu thuật cần duy trì
các đợt trị liệu bổ sung sau mỗi 6 tháng. Theo
một số nhà nghiên cứu, thời gian duy trì cần kéo
dài từ 3‐5 năm.
Qua nghiên cứu này chúng tôi thấy phác
đồ sử dụng Im‐BCG đông khô bơm vào bàng
quang trong điều trị bổ sung chống tái phát
ung thư bàng quang nông an toàn cho bệnh
nhân và có hiệu quả. Chúng tôi đề nghị nên có
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 263
những nghiên cứu tiền cứu, đa trung tâm với
số liệu lớn hơn để khẳng định kết quả của
phương pháp này v