Mục tiêu nghiên cứu: đánh giá kết quả điều trị bước đầu nhóm bệnh nhân (BN) chấn thương cột sống
ngực thắt lưng Denis loại II B bằng phương pháp cố định cột sống qua cuống, giải chèn ép lối sau bên và ghép
xương liên thân đốt sống
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu tiền cứu kết quả điều trị 15 BN (10 nam, 5 nữ) chấn thương cột
sống ngực thắt lưng từ tháng 8 năm 2005 tới tháng 4 năm 2008. BN được phẫu thuật ghép xương thân đốt lối
vào sau, cố định cột sống qua cuống cấu hình ngắn.
Kết quả: Thời gian theo dõi trung bình là 20,6 tháng. Tổn thương thần kinh phục hồi sau mổ khá tốt. Cột
sống được nắn chỉnh và cố định chắc chắn
Kết luận: Phẫu thuật giải phóng chèn ép sau bên an toàn, không có tai biến, biến chứng
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 278 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điều trị chấn thương cột sống ngực thắt lưng kiểu Denis loại II B bằng cố định cột sống qua cuống ghép xương liên thân đốt lối sau, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012
Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh 370
ĐIỀU TRỊ CHẤN THƯƠNG CỘT SỐNG NGỰC THẮT LƯNG
KIỂU DENIS LOẠI II B BẰNG CỐ ĐỊNH CỘT SỐNG
QUA CUỐNG GHÉP XƯƠNG LIÊN THÂN ĐỐT LỐI SAU
Phan Trọng Hậu*, Phạm Hòa Bình**, Nguyễn Văn Ngạn**
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: đánh giá kết quả điều trị bước đầu nhóm bệnh nhân (BN) chấn thương cột sống
ngực thắt lưng Denis loại II B bằng phương pháp cố định cột sống qua cuống, giải chèn ép lối sau bên và ghép
xương liên thân đốt sống
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu tiền cứu kết quả điều trị 15 BN (10 nam, 5 nữ) chấn thương cột
sống ngực thắt lưng từ tháng 8 năm 2005 tới tháng 4 năm 2008. BN được phẫu thuật ghép xương thân đốt lối
vào sau, cố định cột sống qua cuống cấu hình ngắn..
Kết quả: Thời gian theo dõi trung bình là 20,6 tháng. Tổn thương thần kinh phục hồi sau mổ khá tốt. Cột
sống được nắn chỉnh và cố định chắc chắn
Kết luận: Phẫu thuật giải phóng chèn ép sau bên an toàn, không có tai biến, biến chứng.
Từ khoá: chấn thương cột sống ngực thắt lưng Denis loại II B; cố định cột sống qua cuống, giải chèn ép lối
sau bên và ghép xương liên thân đốt sống.
ABSTRACT
TREATMENT OF DENIS II B THORACOLUMBAR INJURIES BY POSTERIOR INTERBODY FUSION
WITH PEDICLE SCREW FIXATION
Phan Trong Hau, Pham Hoa Binh, Nguyen Van Ngan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 4 - 2012: 370 - 375
Aims: The authors report the surgical results of patients with thoracolumbar injuries, Denis II B, with
posterior interbody fusion and short pedicle screw fixation were used.
Subjects and method: prospective, follow up 15 patients (10 male, 5 female) with thoracolumbar injuries,
Denis II B, from August 2005 to April 2008. Posterior interbody fusion and short pedicle screw fixation were
used.
Results: The means of follow-up was 20.6 months. The neurologic deficits have recovered well. Spinal
deformity correction and rigid fixation were achieved via a posterior approach.
Conclusions: The posterolateral decompression technique was safe.
Keyword: thoracolumbar injuries Denis II B, posterior interbody fusion and short pedicle screw fixation
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cột sống ngực thắt lưng được tính từ đốt
sống ngực 11 (T11) tới đốt sống thắt lưng 2
(L2)(2). Đây là vùng chuyển tiếp có đặc điểm giải
phẫu khá tương phản. Cột sống ngực tương đối
bất động và gù trong khi cột sống thắt lưng vận
động linh hoạt và ưỡn. Do đặc điểm giải phẫu
trên nên trong chấn thương cột sống, chấn
thương vùng cột sống ngực thắt lưng là vị trí
thường gặp nhất. Chấn thương gây vỡ vụn thân
đốt loại II B theo Denis là nhóm chấn thương có
* Khoa phẫu thuật cột sống BV TƯQĐ 108
Tác giả liên lạc: ThS BS Phan Trọng Hậu Email: haupttk@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh 371
tỷ lệ cao nhất và có thể để lại tổn thương thần
kinh nặng nề khó hồi phục(4). Phẫu thuật chấn
thương cột sống hiện nay đã có rất nhiều tiến
bộ. Tuy nhiên, lựa chọn đường tiếp cận tổn
thương tối ưu để giải quyết tốt chèn ép thần
kinh, nắn chỉnh biến dạng, ghép xương và cố
định cột sống vẫn còn là vấn đề chưa hoàn toàn
thống nhất. Nghiên cứu này có mục đích đánh
giá kết quả điều trị bước đầu nhóm bệnh nhân
(BN) chấn thương Denis loại II B bằng phương
pháp cố định cột sống qua cuống, giải chèn ép
lối sau bên và ghép xương liên thân đốt sống.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được tiến hành trên 15 BN (10
nam, 5 nữ) vỡ thân đốt sống loại II B theo Denis
do chấn thương. Tuổi trung bình của nhón
nghiên cứu là 42,2 (từ 26 tới 63 tuổi). 9 BN bị
chấn thương L1 (60%), 4 BN bị chấn thương T12
(26,7%), 2 BN bị chấn thương L2 (13,3%). Tổn
thương thần kinh được phân loại, theo dõi và
đánh giá sự phục hồi theo bảng phân loại của
Frankel. Mức độ chèn ép ống sống được đo trên
phim chụp cắt lớp cột sống. Độ hẹp của ống
sống được tính theo tỷ lệ phần trăm đường kính
ống sống theo chiều dọc của đốt sống bị vỡ so
với đốt sống lân cận. Vị trí đo trên đường giữa
các lớp cắt ngang đốt sống(1). Biến dạng của cột
sống được đánh giá trước mổ và theo dõi sau
mổ trên các phim X quang chụp cột sống ngực
thắt lưng tư thế nghiêng. Các chỉ số chính đánh
giá mức độ biến dạng của cột sống bao gồm: góc
gù vùng (góc Cobb), góc gù đốt sống, tỷ lệ giảm
chiều cao thành trước thân đốt sống.
Các BN được phẫu thuật tại Bệnh viện
TƯQĐ 108 từ tháng 8 năm 2005 tới tháng 4 năm
2008. Áp dụng một phương pháp mổ thống
nhất: cố định cột sống qua cuống cung trên và
dưới tổn thương một đốt sống, ghép xương liên
thân đốt sống qua lỗ ghép. Đối với mảnh xương
thành sau thân đốt sống vỡ di lệch chèn ép tủy,
áp dụng phối hợp cả hai phương pháp giải
phóng chèn ép. Giải phóng chèn ép gián tiếp
bằng cách nắn chỉnh các biến dạng cột sống qua
các vít. Giải phóng chèn ép trực tiếp bằng cách
đẩy mảnh xương di lệch về phía trước. Cắt một
phần xương vùng eo cung sau và mấu khớp
trên, mấu khớp dưới mở rộng lỗ ghép thần kinh
bằng Kerison. Bộc lộ rõ rễ thần kinh ở phía trên
và màng cứng ở phía trong. Sau khi bộc lộ đủ
rộng, đục dồn mảnh xương vỡ về phía trước.
Ghép xương được thực hiện sau giải phóng
chèn ép thần kinh. Rạch bao xơ đĩa đệm tổn
thương, nạo sạch mô mềm và sụn của đĩa đệm
trước khi ghép xương vào khe đĩa đệm. Xương
ghép được lấy tại chỗ và xương mào chậu.
Hình 1: Cách đo góc gù vùng (a) và góc gù thân đốt (b)
Thời gian theo dõi trung bình 20,6 tháng (từ
6 đến 37 tháng). Can xương và tình trạng cũng
chắc của phương tiện cố định cột sống được
theo dõi và đánh giá bằng phim X quang
thường qui chụp cột sống ngực thắt lưng.
KẾT QUẢNGHIÊN CỨU
Bảng 1: Tóm tắt đặc điểm BN và các biến dạng cột sống trên X quang
Điểm Frankel Trước mổ STT Tuổi, giới Vị trí
Trước mổ Sau mổ
HOS
CCTTTĐS GGTĐ GGV
GGVsau
mổ
1 63/nữ L1 C D 45% 42% 190 90 120
2 57/nam L2 D E 50% 60% 300 250 130
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012
Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh 372
Điểm Frankel Trước mổ STT Tuổi, giới Vị trí
Trước mổ Sau mổ
HOS
CCTTTĐS GGTĐ GGV
GGVsau
mổ
3 54/nam L1 D D 65% 40% 290 210 180
4 56/nam T12 D E 50% 75% 100 220 100
5 26/nữ L2 E E 75% 35% 300 100 30
6 52/nam L1 E E 65% 55% 100 120 160
7 44/nam L1 B C 65% 34% 280 200 190
8 31/nam L1 D D 45% 47% 300 210 200
9 45/nam L1 E E 40% 37% 300 250 80
10 27/nam T12 E E 50% 45% 320 420 150
11 34/nam L1 E E 50% 40% 350 300 180
12 46/nữ L1 D E 60% 48% 300 310 130
13 24/nữ L1 E E 65% 44% 300 250 110
14 40/nữ T12 E E 75% 52% 280 230 140
15 34/nam T12 E E 45% 47% 300 220 120
HOS: hẹp ống sống; GGV: góc gù vùng; GGTĐ: góc gù thân đốt; CCTTTĐS: chiều cao thành trước thân đốt
sống.
Thời gian mổ tung bình là 200 phút, thời
gian mổ ngắn nhất là 150 phút, thời gian mổ
dài nhất là 240 phút. Lượng máu phải truyền
bù trung bình là 330 ml, BN phải truyền bù
nhiều nhất là 750 ml. Bốn BN không phải
truyền máu do lượng máu mất trong mổ
không nhiều. Thời gian nằm viện trung bình
là 12 ngày (từ 7 đến 19 ngày).
Trong nghiên cứu, 8/15 BN không có tổn
thương thần kinh, 7/15 BN có tổn thương thần
kinh không hoàn toàn. Mảnh xương vỡ di lệch
vào ống sống được phát hiện bằng chụp cắt lớp
cột sống. Mức độ hẹp ống sống trung bình do
mảnh xương vỡ di lệch là 56%. Mức độ di lệch
làm hẹp ống sống nhỏ nhất là 40%. Mức độ hẹp
ống sống lớn nhất là 75%. Trên số lượng BN
nghiên cứu chưa lớn không thấy sự liên quan
giữa mức độ hẹp ống sống và tình trạng tổn
thương thần kinh.
Chiều cao thành trước thân đốt sống của BN
trong nhóm nghiên cứu giảm mạnh. Tỷ lệ chiều
cao trung bình chỉ bằng 47% so với chiều cao
thành trước thân đốt sống lân cận, mức độ giảm
nhiều nhất là 75%, mức độ giảm ít nhất là 34%.
Góc gù thân đốt sống trung bình là 26,70. Góc gù
thân đốt lớn nhất là 350, góc gù thân đốt sống
nhỏ nhất là 100. Góc gù vùng trung bình của
nhóm nghiên cứu là 22,50 (biên độ thay đổi từ 90
đến 420). Do BN được ghép xương liên thân đốt
sống nên khi liền xương các chỉ tiêu góc gù thân
đốt và góc gù thân đốt và chiều cao thành trước
thân đốt sống khó đánh giá chính xác. Chính vì
vậy, góc gù vùng được theo dõi để đánh giá sự
ổn định cột sống. Sau mổ, giá trị trung bình của
góc gù vùng là 13,50. Mức độ nắn chỉnh trung
bình của góc gù vùng sau mổ giảm 90 (40%).
Phần lớn BN có góc gù vùng sau mổ nhỏ hơn so
với trước mổ, mức độ nắn chỉnh lớn nhất là 270
(nắn chỉnh được 88% biến dạng gù trước mổ -
BN số 10 trong bảng 1). Có 2 BN, góc gù vùng ở
thời điểm kiểm tra cuối cùng lớn hơn góc gù
vùng trước mổ 30 và 40 (BN số 1 và BN số 6
trong bảng 1). Toàn bộ BN sau mổ có can xương
tốt giữa các thân đốt sống. Không có hiện tượng
cong, gẫy vít và thanh dọc trên các phim chụp
theo dõi sau mổ.
Ảnh minh họa BN Phạm Thị Liên, 26 tuổi,
chấn thương L2 loại II B theo Denis. Biến dạng
cột sống đo được sau chấn thương: góc gù thân
đốt sống 300, góc gù vùng 100 (ảnh 1). Chụp cắt
lớp cột sống thấy mảnh xương vỡ di lệch làm
hẹp 75% ống sống (ảnh 2) nhưng không có tổn
thương thần kinh. BN được mổ cố định cột sống
qua cuống cung từ L1 tới L3, ghép xương liên
thân đốt sống L1-L2 (ảnh 3). Sau 1 năm theo dõi,
can xương tốt, dụng cụ cố định cột sống vững,
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh 373
góc gù vùng sau mổ 30 (ảnh 4 và 5).
Sau mổ tất cả BN có tổn thương thần kinh
đều phục hồi sức cơ hai chi dưới. 5/7 BN phục
hồi một bậc trên thang điểm Frankel. 2 BN tổn
thương thần kinh nhẹ (mức D) sự phục hồi gần
như hoàn toàn, BN có thể làm việc và hoạt động
thể lực gần bằng trước khi bị chấn thương.
Những BN không có tổn thương thần kinh,
phẫu thuật không gây tai biến và biến chứng
làm tổn thương tủy và rễ trong và sau khi mổ.
BÀN LUẬN
Như đã biết, tổn thương thân đốt sống loại
II B theo Denis bao gồm: vỡ vụn phần thân đốt
sống và tổn thương đĩa đệm phía trên. Mảnh
xương vỡ của thành sau trên thân đốt sống có
thể di lệch vào ống sống và gây chèn ép thần
kinh. Nếu cột trước bị tổn thương làm chiều cao
thành trước thân đốt sống giảm từ 50% trở lên,
góc gù lớn hơn 300 sẽ gây biến dạng gập góc rất
rõ. Trong trường hợp chấn thương cột sống có
tổn thương thần kinh, nhiều tác giả lựa chọn
đường mổ phía trước để lấy bỏ thân đốt sống bị
vỡ giải phóng chèn ép thần kinh (2). Cột sống
được ghép xương và cố định phía trước bằng
dụng cụ Kaneda, nẹp vít Zdeblick (Z-plate)
Lấy bỏ đốt sống vỡ giải quyết trực tiếp, triệt để
các yếu tố chèn ép tủy. Tuy nhiên, phẫu thuật
lối trước được cho là có mức độ tàn phá lớn và
có thể gây rách màng cứng ở trung tâm (5). Phẫu
thuật phải can thiệp qua lồng ngực hoặc vào
khoang sau phúc mạc. Phương pháp can thiệp
lối trước gây mất máu, nhất là khi phẫu thuật
được thực hiện ngay sau chấn thương.
Khi áp dụng các kỹ thuật lối sau, cột sống
thường được cố định dài trên và dưới tổn
thương hai mức đốt sống. Cố định cột sống
nhiều mức làm giảm chức năng vận động, làm
tăng đáng kể chi phí điều trị. Khi áp dụng kỹ
thuật ghép xương liên thân đốt sống lối trước,
cột sống được cố định ngắn trên và dưới đốt
sống tổn thương một mức. Trong khi đó, cố
định cột sống qua cuống cung với cấu hình
ngắn được chứng minh là không đủ vững.
Wang X.Y và cộng sự theo dõi kết quả nắn
1 2
5 4
3
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012
Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh 374
chỉnh các biến dạng thấy cột sống có biến dạng
thứ phát khi cố định ngắn và ghép xương phía
sau. So sánh với mức độ biến dạng cột sống
trước mổ không thấy có sự thay đổi. Tác giả kết
luận: cố định cột sống ngắn trên và dưới tổn
thương một đốt sống, ghép xương phía sau
không đủ vững trong chấn thương cột sống(7).
Trong khi đó, các nghiên cứu trên thực nghiệm
(8) và lâm sàng(4,6,9) cho thấy kết hợp ghép xương
liên thân đốt sống với cố định cột sống qua
cuống làm tăng đáng kể mức độ vững chắc của
cột sống nhờ tác dụng hỗ trợ lực của xương
ghép đối với cột sống. Như vậy, khi thực hiện
ghép xương liên thân đốt sống có thể áp dụng
cố định cột sống ngắn trên và dưới tổn thương
một mức đốt sống.
Theo dõi sự thay đổi giá trị góc gù vùng
trong nghiên cứu, chúng tôi thấy góc này giảm
và ổn định ở 13/15 BN (86,7%) tại các thời điểm
kiểm tra so với trước mổ. 2/15 BN, góc gù vùng
tăng lên tại thời điểm kiểm tra cuối cùng. Tuy
nhiên, mức độ tăng không lớn, 30 và 40. Thăm
khám lâm sàng, toàn bộ BN không đau cột sống,
vận động cột sống không hạn chế. Không BN
nào quan sát thấy cong, gẫy vít và thanh dọc
trên phim chụp theo dõi sau mổ. Điều đó chứng
tỏ rằng nhờ có được sự hỗ trợ lực ở phía trước,
cấu hình cố định cột sống qua cuống ngắn trong
nghiên cứu đã đạt được sự vững chắc cần thiết.
Năm 1989, Flesch và cộng sự mô tả phương
pháp giải chèn ép từ phía sau bên bằng cách cắt
bỏ khối sườn cột sống (costotransversectomy). Kết
quả sau mổ, tổn thương thần kinh phục hồi ở
77% BN. Kỹ thuật của Flesch nhằm mục đích
bảo tồn tối đa các cấu trúc phía sau của cột sống
(cung sau, mấu khớp, các dây chằng, cơ) có thể
không bị tổn thương hoặc bị tổn thương mức độ
nhẹ trong chấn thương. Nhược điểm của kỹ
thuật này là quan sát trong mổ không rõ ràng
nếu chảy máu. Quan sát kém, đánh giá không
tốt có thể dẫn tới sự giải phóng chèn ép không
thỏa đáng (3). Wang M.Y (9) áp dụng kỹ thuật trên
phẫu thuật cho 28 BN chấn thương cột sống có
biến dạng cột sống đến muộn. Từ kết quả thu
được trong nghiên cứu, tác giả cho rằng đây là
phẫu thuật an toàn, có thể nắn chỉnh được các
biến dạng cột sống. Kỹ thuật có thể thực hiện
được ở cả vùng ngực cao, nơi rất khó tiếp cận
nếu đi lối trước do đặc điểm giải phẫu. Nguy cơ
gây tổn thương thần kinh là nhược điểm khác
của phuông pháp can thiệp từ phía sau. Nhược
điểm này có thể là nguyên nhân để kỹ thuật
không trở nên phổ biến. Flesch khuyên chỉ nên
áp dụng kỹ thuật này khi phẫu thuật viên đã có
kinh nghiệm về giải phóng chèn ép thần kinh và
nắm vững giải phẫu.
Khi mảnh vỡ ở thành sau thân đốt sống di
lệch làm hẹp ống sống từ 35% trở lên, cắt cung
sau không có tác dụng giải phóng chèn ép thần
kinh (3). Hơn nữa, cắt cung sau làm tăng sự mất
vững của cột sống. Do vậy trong nghiên cứu
này, chúng tôi áp dụng kỹ thuật giải phóng
chèn ép từ phía sau bên và ghép xương liên thân
đốt sống qua lỗ ghép thần kinh. Các cấu trúc
phía sau không bị tổn thương được bảo tồn tối
đa. Căng dãn để nắn chỉnh các biến dạng góc có
tác dụng giải phóng chèn ép thần kinh gián tiếp.
Dây chằng dọc sau và các đặc biệt là các thớ sợi
ngoài của bao xơ đĩa đệm khi căng dãn sẽ đẩy
mảnh xương vỡ lồi vào ống sống về phía trước
làm ống sống rộng hơn (3). Để loại trừ những
sang chấn cấu trúc thần kinh có thể có trong khi
mổ, cần hạn chế tối đa thao tác vén tủy và rễ
thần kinh. Xương ghép nên được cắt thành
những mẩu nhỏ trước khi nhồi vào trong khe
đĩa đệm. Tôn trọng tối đa nguyên tắc trên,
không BN nào trong nghiên cứu bị tổn thương
thần kinh nặng hơn sau phẫu thuật. Tất cả BN
có tổn thương thần kinh hồi phục nhanh chóng
ngay sau phẫu thuật ở các mức độ khác nhau.
Kết quả đạt được trong nghiên cứu cho thấy
kỹ thuật giải phóng chèn ép lối sau bên, ghép
xương liên thân đốt sống có thể thực hiện an
toàn, đạt được các mục đích của phẫu thuật điều
trị chấn thương cột sống. Tuy nhiên, do số
lượng BN trong nghiên cứu còn nhỏ nên chưa
đạt được những kết quả có ý nghĩa thuyết phục.
Nghiên cứu cần được tiếp tục tiến hành trên tập
hợp bệnh nhân lớn hơn.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh 375
KẾT LUẬN
Kỹ thuật giải phóng chèn ép sau bên, ghép
xương liên thân đốt qua lỗ ghép được thực hiện
an toàn đối với BN chấn thương vỡ thân đốt
sống loại II B theo Denis.
Kết hợp với ghép xương liên thân đốt, cấu
hình ngắn cố định cột sống qua cuống cung
đảm bảo sự vững chắc cột sống
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dai LY, Wang XY, Jiang LS (2008), Evaluation of traumatic spinal
canal stenosis in thoracolumbar burst fractures: a comparison of
three methods for measuring the percent canalocclusion,
European Journal of radiology, 67, 526-530.
2. Mariotti AJ, Diwan AD (2002), Current concepts in anterior
surgery for thoracolumbar trauma, Orthopedic clinics of North
America, vol 33 (2), April, 403-412.
3. McCullen G, Vaccaro AR, Garfin ST, Thoracic and lumbar trauma
(2008): rational for selecting the appropriate fusion technique,
Orthopedic clinics of North America, vol 29 (4), October, 813-828.
4. McLain RF, Burkus JK, Benson DR (2001), Segmental
instrumentation for thoracic and thoracolumbar fractures:
prospective analysis of construct survival and five-year follow-up,
The Spine Journal, 1, 310-323.
5. Nockels RP, York J (2004), Diagnosis and management of
thoracolumbar and lumbar spine injuries, Youman, 4987-5009.
6. Payer M, Sottas C (2008), Mini-open anterior approach for
corpectomy in thoracolumbar spine, Surgical neurology, 69, 25-
32.
7. Wang XY, Dai LY, Xu HZ, Chi YL (2008), Kyphosis recurence
after short-segment fixation in thoracolumbar burst fractures, J
neurosurg spine, vol 8, March, 246-254.
8. Wang XY, Dai LY., Xu HZ., Chi YL (2008), Biomechanical effect
of the extent of vertebral body fracture on the thoracolumbar
spine with pedicle screw fixation: An vitro study, Journal of
clinical neuroscience, 15, 286-290.
9. Wang MY., Kim DH., Kim KA (2008), Correction of late
traumatic thoracic and thoracolumbar kyphotic spinal deformities
using posteriorly placed intervertebral distraction cages,
Operative neurosurgery, 62, March 20, 162-172.