Điều trị u hạt do chích Silicone lỏng dưới da vùng mũi (Kinh nghiệm điều trị 1350 trường hợp)

Mục tiêu: Silicone lỏng chích trực tiếp dưới da vùng mũi gây những phản ứng đối với vật lạ nặng nề tại chỗ. Ngoài tình trạng viêm tái phát ngày càng nặng, vùng mũi dần biến dạng trầm trọng, mất thẩm mỹ. Mục đích của nghiên cứu này là tìm một phuơng án điều trị hữu hiệu, nhằm tạo lại vùng mũi bình thường, đẹp và giảm tối đa tình trạng viêm nhiễm. Phương pháp nghiên cứu: Đối tượng là các bệnh nhân bị chích silicone lỏng dưới da vùng mũi, được nhập viên và điều trị tại các cơ sở của chúng tôi. Thời gian từ 1995 đến 2008. Tiền phẫu, bệnh nhân được phân thành 3 loại theo mức độ trầm trọng của tổn thương: loại nhẹ, trung bình và nặng. Phẫu thuật: vừa cắt bỏ vừa tạo hình Xem khối siliconoma như một khối u lành, cắt bỏ toàn bộ có thể được. Đường mổ chính: đường chỉnh hình mũi ngoài. Tái tạo: bằng vật liệu tự thân hay nhân tạo hay kết hợp cả hai. Kết quả sau mổ được đánh giá là tốt, khá và xấu, tùy theo tình trạng thẩm mỹ mũi, sự tồn tại của mô viêm trên da và phản ứng viêm. Tất cả các bệnh nhân đều được chụp hình theo từng giai đoạn của quá trình chữa trị. Theo dõi từ 2 đến 12 năm. Kết quả : Có 1350 bệnh nhân được xếp loại trong tiền phẫu: gồm: 18% nhẹ, 65% trung bình, 16% nặng. Phẫu thuật: Đại đa số được mổ theo đường mũi ngoài. Tái tạo: Đa số các trường hợp được dùng thanh silicone dẽo kết hợp với cân thái dương sâu. Kết quả sau mổ: 60% tốt, 31% khá, 9% xấu. Kết luận: Siliconoma là một biến chứng rất nặng nề. Phẫu thuật cắt bỏ khối mô viêm và tái tạo trong một thì là hiệu quả, đáp ứng được cả hai yêu cầu về chữa bệnh và tái tạo thẩm mỹ cho vùng mũi.

pdf9 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 213 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điều trị u hạt do chích Silicone lỏng dưới da vùng mũi (Kinh nghiệm điều trị 1350 trường hợp), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Tai Mũi Họng 199 ĐIỀU TRỊ U HẠT DO CHÍCH SILICONE LỎNG DƯỚI DA VÙNG MŨI (KINH NGHIỆM ĐIỀU TRỊ 1350 TRƯỜNG HỢP) Lê Hành* TÓM TẮT Mục tiêu: Silicone lỏng chích trực tiếp dưới da vùng mũi gây những phản ứng đối với vật lạ nặng nề tại chỗ. Ngoài tình trạng viêm tái phát ngày càng nặng, vùng mũi dần biến dạng trầm trọng, mất thẩm mỹ. Mục đích của nghiên cứu này là tìm một phuơng án điều trị hữu hiệu, nhằm tạo lại vùng mũi bình thường, đẹp và giảm tối đa tình trạng viêm nhiễm. Phương pháp nghiên cứu: Đối tượng là các bệnh nhân bị chích silicone lỏng dưới da vùng mũi, được nhập viên và điều trị tại các cơ sở của chúng tôi. Thời gian từ 1995 đến 2008. Tiền phẫu, bệnh nhân được phân thành 3 loại theo mức độ trầm trọng của tổn thương: loại nhẹ, trung bình và nặng. Phẫu thuật: vừa cắt bỏ vừa tạo hình Xem khối siliconoma như một khối u lành, cắt bỏ toàn bộ có thể được. Đường mổ chính: đường chỉnh hình mũi ngoài. Tái tạo: bằng vật liệu tự thân hay nhân tạo hay kết hợp cả hai. Kết quả sau mổ được đánh giá là tốt, khá và xấu, tùy theo tình trạng thẩm mỹ mũi, sự tồn tại của mô viêm trên da và phản ứng viêm. Tất cả các bệnh nhân đều được chụp hình theo từng giai đoạn của quá trình chữa trị. Theo dõi từ 2 đến 12 năm. Kết quả : Có 1350 bệnh nhân được xếp loại trong tiền phẫu: gồm: 18% nhẹ, 65% trung bình, 16% nặng. Phẫu thuật: Đại đa số được mổ theo đường mũi ngoài. Tái tạo: Đa số các trường hợp được dùng thanh silicone dẽo kết hợp với cân thái dương sâu. Kết quả sau mổ: 60% tốt, 31% khá, 9% xấu. Kết luận: Siliconoma là một biến chứng rất nặng nề. Phẫu thuật cắt bỏ khối mô viêm và tái tạo trong một thì là hiệu quả, đáp ứng được cả hai yêu cầu về chữa bệnh và tái tạo thẩm mỹ cho vùng mũi. Từ khóa : siliconoma. ABSTRACT THE THERAPY OF SILICONOMA UNDER THE SKIN Le Hanh* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 199 - 207 Objectives: Subcutaneous injection of liquid silicone for cosmetic augmentation procedures is common in Asian countries for years. Tissue inflammatory reaction has had a bad influence on society because: There has been a large number of patients, over many years. Inflammatory, allergic reactions worsen health and decrease labor productivity. Serious cosmetic damage on the face may isolate patients from their community.Treatment is difficult because both eradication of the diseased tissue and restoration of the cosmetic appearance of the nasal pyramid must be done simultaneously. Improper treatments result in recurrences and/or aggravate the situation and cause further serious cosmetic sequelae. To design a surgical method to trial the eradication of tissue inflammatory reactions and restore the cosmetic effects to patients. Methods: Nine hundreds and eighty patients were operated on to remove siliconoma of the nose for cosmetic purpose. This study outlines the general principe of considering the siliconoma as a neoplastic tissue that is to be radically removed, along with restoring the reasonable cosmetic effects for the patients. A classification of the patients according to the seriousness of the disease, was established. The vestibular incision, external rhinoplastic approach, degloving approach were employed in most of the operations. Tissue autograft - and homograft * BV Chợ Rẫy Tác giả liên lạc : TS Lê Hành ĐT: 0913909426 Email : lehanh@hcm.vnn.vn Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 200 (cartilage, dura mater, fascia) and some types of biocompatible materials (silicone elastomer, Gore-tex) were used for reconstruction of nasal pyramids and the cheeks. Results: The 1 to 10 years follow-up demonstrated good and satisfactory results with the halt of inflammatory reactions and restoration of cosmetic effects in more than 90% of cases. Conclusions: This serious pathology can be treated with encouraging results with surgical treatment based on radical removal of diseased tissue following an appropriate reconstruction. Simultaneous removal of diseased tissue and reconstruction with composite grafts is reasonnable method. Key word: siliconoma. ĐẶT VẤN ĐỀ Chích silicone lỏng dưới da để làm tăng thể tích và thay đổi hình dạng những bộ phận trên cơ thể trong mục đích thẩm mỹ là một biện pháp đã được dùng từ lâu trên thế giới. Sau khoảng 10 năm thì các bác sĩ ghi nhận chất này gây nhiều biến chứng trầm trọng và không dùng nữa. Nhưng tại các nước á châu, nhất là các nước đông nam á như Việt Nam thì vẫn tiếp tục được sử dụng – thậm chí không do người trong ngành y - do tình trạng kém hiểu biết của dân chúng và sự kiểm soát không kiên quyết và chặt chẽ của chính quyền. Phản ứng với silicone lỏng chích dưới da vùng mũi đã trở thành một tổn thương phổ biến có tính xã hội, ngày càng trầm trọng về mức độ bệnh tật thực sự và mất thẩm mỹ. Tháp mũi là vùng được chích nhiều nhất. Những vùng được chích khác là môi, cằm, má, tay, ngực, mông. Bệnh lý này gây ra những ảnh hưởng trầm trọng cho xã hội vì(8): - Số BN cao vì được tích lũy trong nhiều năm,vẫn có khuynh hướng gia tăng nếu không có biện pháp ngăn chặn kịp thời. - Những phản ứng viêm,dị ứng ảnh hưởng đến sức khỏe,năng suất lao động. - Những tổn thương về thẩm mỹ nặng nề trên vùng mặt có khả năng loại bỏ người bệnh ra khỏi cộng đồng. - Chữa trị khó khăn vì phải vừa lấy hết mô nhiễm silicone vừa phải tái tạo những đường nét thẩm mỹ cho tháp mũi. - Những cách chữa trị không đúng đắn hoặc sẽ dẫn đến tái phát hoặc làm trầm trọng tình trạng bệnh, gây thêm những di chứng và làm khó hơn những chữa trị về sau. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu phản ứng của cơ thể đối với silicone chích dưới da vùng mũi má. Tìm một phương pháp chữa trị hiệu quả vừa giải quyết mô bệnh vừa tái tạo thẩm mỹ vùng mũi má cho BN. Góp phần phòng chống việc chích silicone bừa bãi trong mục đích thẩm mỹ. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng Tại bệnh viện Chợ Rẫy, từ 1995 đến nay nhất là trong đợt nghiên cứu tập trung 1995-1999, chúng tôi đã khám khoảng 1500 trường hợp trong đó 1350 trường hợp được mổ. Đó là các bệnh nhân được chích silicone lỏng dưới da vùng mũi, má và bị phản ứng đào thải làm biến dạng tháp mũi. Dịch tễ học - Giới: Nam: 72 Nữ: 1278 - Tuổi: nhiều nhất ở độ 21-30 tuổi (43%), 31- 40 tuổi (31%), dưới 20 tuổi (11%) già nhất là 63 tuổi. - Nghề nghiệp: Đa số bệnh nhân thuộc giới buôn bán (37%), công nhân (14%), công nhân viên (15%), nội trợ (14%), thợ uốn tóc (11%), -Thời điểm chích silicone: rất ít trường hợp được chích trước 1975, cao điểm ở những năm Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Tai Mũi Họng 201 1985-1987 (55%), từ năm 1998 – 2002 (21%), đến nay vẫn còn người bị chích, nhưng không nhiều. -Nơi chích:ngoài những thẩm mỹ viện có tên tuổi, silicone còn được chích ở nhiều nơi khác: tiệm uốn tóc, nơi làm móng tay, phòng mạch tư, và bởi những người chích dạo. -Số lần bệnh nhân được mổ trước khi đến khám: 60% bệnh nhân được mổ ít nhất một lần, 8% từ 3-4 lần, kỷ lục là 24 lần trên một thiếu nữ 25 tuổi. -Những kiểu mổ đã được dùng trước đó: Rất phong phú. Đường rạch trong tiền đình mũi được dùng nhiều nhất (75%). Mổ bằng laser 20 trường hợp. Siliconoma được lấy bằng cách nạo, cắt bỏ từng phần, hút Phương pháp nghiên cứu Các tiêu chuẩn đánh giá Bảng 1:Bảng phân loại bệnh nhân trước mổ theo độ trầm trọng của bệnh tích Độ 1 - Tháp mũi to hơn,đầy lên ở giữa và hai bên nhưng vẫn còn dạng nguyên thủy. Những đường cong lõm của tháp mũi phía trước và hai bên còn được tôn trọng. - Vùng bệnh không vượt quá khớp hàn mũi trên phía trên và rãnh mũi má. - Da tháp mũi bình thường. Độ 2 - Tháp mũi biến dạng rõ rệt,phồng, gồ lên phía trước và hai bên. - Vùng biến dạng vượt quá đường liên cung mày phía trên và rãnh mũi má phía dưới. - Da tháp mũi bình thường hay chỉ hơi ngả màu xanh tím hay đỏ nhẹ do phản ứng viêm của mô bệnh bên dưới. - Sẹo mổ cũ trên mũi. Độ 3 - Vùng giữa mũi biến dạng trầm trọng, mô bệnh xâm nhập trán và má. - Da vùng bệnh bị thâm nhiễm cứng, sưng mọng, đổi màu đỏ, đen, mao mạch dãn, mất các nếp nhăn tự nhiên, có dấu khuyết dưỡng, nhất là không còn khoảng bóc tách với mô bệnh bên dưới. - Sẹo mổ cũ đã tạo cho đường cho silicone lan ra da. - Có phản ứng dị ứng thường xuyên với thức ăn, thời tiết, kinh nguyệt, tác nhân mới Bảng 2: Bảng nêu các tiêu chuẩn đánh giá kết quả điều trị Tốt - tháp mũi có hình thể đẹp, phù hợp với khuôn mặt. - da mũi mềm mại, màu sắc bình thường. - chấm dứt được các phản ứng viêm. Trung bình - tháp mũi có dạng bình thường, chấp nhận được. - da mũi có thể đổi màu, nhưng có thể che lấp được với trang điểm. - viêm không thường xuyên, ở vài vùng, đáp ứng với corticosteroids. Xấu - tháp mũi dị dạng, lệch, không đều đặn. - da mũi co rút sần sùi hay quá mỏng, đổi màu rỏ rệt, hoại tử từng vùng. - tái phát, viêm liên tục, luôn tiến triển, chỉ đáp ứng tạm thời với corticosteroids. Phương pháp phẫu thuật Nguyên tắc Xem vùng mô nhiễm silicone như là một khối u lành, cần cắt bỏ triệt để, đồng thời tái tạo tháp mũi một thì(8). Đường mổ + Đường mổ chỉnh hình mũi ngoài(025,30). Cắt ngang da tiểu trụ hình bậc thang hay chữ V ngược. Rạch da tiền đình mũi, vòng quanh mặt trong cánh mũi ra ngoài xuống dưới sát sàn mũi. Sau đó da của tháp mũi được bóc tách dần lên phía trên vượt qua vùng có bệnh tích. + Đường mổ “lột găng”(1,7,10,9,17,0 Đường này dành cho những bệnh tích lan rộng ra vùng cạnh mũi, vùng má, môi trên. Là sự kết hợp của đường mổ chỉnh hình mũi ngoài đã tả ở trên với đường mổ liên tiền đình miệng. Qua đó mô mềm vùng mặt được vén lên trên như lột một găng tay để bộc lộ bệnh tích ở tháp mũi và mặt trước xoang hàm hai bên, bờ dưới ổ mắt. Lấy bệnh tích(8) Mô bệnh được bóc tách dưới da phía trên, phía dưới thì trên màng sụn và dưới cốt mạc ở vùng tháp mũi xương. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 202 Phẫu thuật tái tạo Đa số bệnh nhân có cấu tạo xương tháp mũi thấp, tháp mũi rất xẹp, xấu xí sau khi lấy bỏ mô bệnh. Chúng tôi chủ trương nâng tháp mũi ngay trong thì đầu. Vật liệu dùng để tái tạo: Sụn sườn tự thân, fascia thái dương sâu, fascia lata, mô bì-mỡ. Sụn đồng loại đông khô, màng não đồng loại đông khô(272829) thanh silicone dẻo, polytetrafluoroethylene (gore-tex). Hoặc phối hợp các chất liệu trên, tùy theo từng trường hợp. Theo dõi Các bệnh nhân được theo dõi từ 2 năm đến 15 năm. Các thông tin có được hoặc từ bệnh nhân tự đến tái khám hoặc bằng thư theo dõi hoặc chúng tôi tìm đến tận nhà một số trường hợp đặc biệt. KẾT QUẢ Tình trạng bệnh nhân Triệu chứng Hơn 95% số bệnh nhân có biểu hiện có phản ứng viêm mạn tính nặng hay nhẹ. Những triệu chứng chính bao gồm đau nhức, ngứa, sưng, biến dạng vùng có phản ứng lan tràn của chất silicone và sự phát triển của mô hạt viêm. Những yếu tố ngoại lai như: vài loại thức ăn (tôm, cua) thức uống (cà phê, bia ), thời tiết (nóng, lạnh, mưa ) đều có thể kích phát các đợt dị ứng. Những thay đổi sinh lý của cơ thể như hành kinh, có thai nhiều khi cũng làm tăng phản ứng với dị vật. Thậm chí vài bệnh nhân trở nên nhạy cảm với một số chất mà họ vẫn dung nạp tốt trước khi chích (cà phê, thức ăn biển, chocolat). Bệnh nhân thường lo âu, bị ám ảnh vì tật bệnh, mất ngủ, stress, mất tinh thần lao động, chán nản, tuyệt vọng vì gặp phải quá nhiều thất bại trong chữa trị. Những cố gắng chữa trị trước đó thường làm xấu thêm tình trạng bệnh nhân. Kích thích tố thượng thận tác dụng dài (triamcinolone acetonide) chích tại chỗ nhiều lần sẽ làm thoái hóa da không hồi phục những đường rạch da ngay trên tháp mũi, chích hút, giác hút tạo đường cho silicone lỏng lan tràn ra da. Phương pháp dùng thìa nạo góp phần làm phát tán silicone lỏng, mất khoảng bóc tách giữa da và mô bệnh bên dưới. Khám bệnh Mô hạt viêm hình thành dưới da phát triển khối lượng làm biến dạng vùng mũi, ngày càng tăng dần. Khối siliconoma có thể phát triển ra ngoài phạm vi của mũi – đến mi mắt, mặt trước xoang hàm, vùng trán - do silicone lỏng chảy lan theo trọng lực. Tùy theo độ thâm nhiễm, khối silicone có thể rắn như sụn. Da vùng mũi đổi màu theo mức độ viêm bên dưới. Từ đỏ sang xanh, tím và thâm đen. Mạch máu trên da dãn. Khoảng lỏng lẻo giữa da và lớp dưới da mất, đây là dấu hiệu da đã bị thâm nhiễm, dự hậu xấu. Tìm những sẹo cũ trên da, minh chứng những phẫu thuật trước đó. Bảng 3: Tỉ lệ bệnh nhân tương ứng với các phân loại đã nêu Độ Độ 1 Độ 2 Độ 3 Số bệnh nhân 252 881 217 % 18 65 16 Phẫu thuật Số trường hợp mổ Trong nghiên cứu này chúng tôi đã phẫu thuật cho 1350 bệnh nhân, trong đó, mổ đầu tay là 988 trường hợp. Phương pháp mổ Đường chỉnh hình mũi ngoài được dùng nhiều nhất: (1310 trường hợp), Đường lột găng (15 trường hợp), Các đường mổ khác tùy theo thực trạng của bệnh nhân(25 trường hợp). Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Tai Mũi Họng 203 Vật liệu dùng để tái tạo + Mô ghép đồng loại đông khô (84 bệnh nhân). sụn (33 trường hợp) phối hợp sụn- màng não (51 trường hợp). + Mô tự thân đơn thuần (48 bệnh nhân) + Vật liệu tương hợp sinh học: Silicone dẻo đơn thuần (55 bệnh nhân), Silicone dẻo phối hợp màng não đông khô (89 bệnh nhân). Silicone dẻo và cân thái dương được phối hợp sử dụng trong đa số các trường hợp (1020 bệnh nhân). Silicone dẻo phối hợp fascia lata (19 bệnh nhân). Gore-Tex (38 bệnh nhân). Không tái tạo (73 bệnh nhân). Đánh giá kết quả chung +Mô đồng loại đông khô: 84 trường hợp. Kết quả Tốt Trung bình Xấu Số trường hợp 22 54 8 Tỉ lệ 26 % 65% 9% + Mô tự thân đơn thuần: 48 bệnh nhân. Kết quả Tốt Trung bình Xấu Số trường hợp 15 28 5 Tỉ lệ 30% 60% 10% + Silicone dẻo và cân thái dương: 1020 trường hợp. Kết quả Tốt Trung bình Xấu Số trường hợp 663 265 9 Tỉ lệ 65% 26% 9% Kết quả chung. Kết quả Tốt Trung bình Xấu Số trường hợp 810 419 121 Tỉ lệ 60% 31% 9% BÀN LUẬN Ngay từ khi mới được đưa vào sử dụng để làm tăng thể tích các bộ phận của cơ thể trong mục đích tạo hình thẩm mỹ, silicone lỏng đã nhanh chóng chinh phục các phẫu thuật viên vì tính dễ sử dụng, không gây đau đớn, không cần phải mổ xẻ, không thời gian hậu phẫu, đạt được kết quả như ý ngay, có thể chỉnh sửa dễ dàng Tuy nhiên, sau một thời gian không dài, cơ thể đã có những phản ứng đào thải trầm trọng của đối với chất này khi được chích trực tiếp dưới da. Đồng thời, trong phẫu thuật nâng to vú bằng túi, biến chứng bao xơ co thắt và u xơ quanh các túi độn ngực do sự dò rỉ chất silicone lỏng ra ngoài xuyên qua vỏ bao cũng được phát hiện(16,2131). Hậu quả là silicone lỏng bị cấm sử dụng trong tạo hình thẩm mỹ(12,19) Hiện nay, silicone lỏng được chế tạo đặc biệt cho y khoa- còn gọi là mỡ nhân tạo- chỉ được dùng để chích dưới da trong vài chỉ định thật đặc biệt, ví dụ như để chữa chứng teo cơ mặt nguyên phát(14). Tuy nhiên, qua nhiều nghiên cứu, tầm soát diện rộng và dài hơi, các nhà khoa học không tìm thấy một bằng chứng nào về sự tác hại của silicone dẽo trên hệ mô liên kết toàn thân như gây ra chứng phong thấp, xơ cứng bì(5,11,20), rối loạn nhu động đường tiêu hóa), kích thích hay ức chế sự phát triển các khối u(23,26) Vì vậy, những bộ phận độn, vật cấy bằng/hay bao bọc bởi silicone loại dẻo (elastomer) tiêu chuẩn y khoa hiện nay vẫn được dùng rộng rãi và hợp pháp ở mọi nước trên thế giới. Phản ứng của cơ thể đối với silicone lỏng Về lâm sàng, có hai loại phản ứng khá khác biệt nhau được ghi nhận: Phản ứng sớm Các triệu chứng xuất hiện trong tháng đầu, thậm chí ngay sau khi chích, cấp tính, vùng bị chích sưng nóng đỏ đau. Da có thể bị loét ngay vùng chích. Bệnh đáp ứng kém với trị liệu nội khoa. Diễn tiến sang mạn tính chậm, cường độ phản ứng luôn duy trì ở mức độ cao. Phẫu thuật ngay, lấy triệt để mô viêm kèm chất kích thích là biên pháp điều trị hữu hiệu duy nhất. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 204 Phản ứng muộn Chiếm đa số các trường hợp. Các triệu chứng xuất hiện từ từ, âm ỉ trong nhiều năm. Dấu hiệu duy nhất là sự biến dạng dần của tháp mũi, mất các đường cong tự nhiên, da đổi màu xanh, tím nhạt. Sự thay đổi diễn ra rất chậm, ít làm bệnh nhân chú ý. Trong diễn tiến có những đợt viêm cấp, kích hoạt bởi những tác nhân ngoại lai nào đó như thức ăn, kinh nguyệt, chấn thương, phơi nắng. Trong đợt viêm, tháp mũi đỏ, sưng to, ngứa. Đáp ứng tốt với thuốc kháng viêm, corticosteroids nhưng tình trạng bệnh thường bị xấu dần đi theo các đợt viêm. Tháp mũi biến dạng thấy rõ sau vài năm. Trên những bệnh nhân được chích nhiều lần, bởi nhiều người ở những vùng khác nhau trên cơ thể thì chỉ có một số vùng bị phản ứng mà thôi. Thời gian bắt đầu có phản ứng và cường độ các phản ứng cũng khác nhau. Có lẽ loại silicone khác nhau đã được dùng có vai trò quan trọng trong việc gây phản ứng hay không, sớm hay muộn, nặng hay nhẹ cùng với yếu tố cơ địa của bệnh nhân. Rất tiếc là chúng tôi không có phương tiện để nghiên cứu về bản chất hóa học và đánh giá chất lượng của các loại silicone lỏng được chích. Đặc tính giải phẫu bệnh lý của vùng mô mềm bị phản ứng Về đại thể Có nhiều dạng khác nhau. Dạng tẩm nhuận (infiltration) Mô bệnh có thể cứng, mật độ như sụn hay thanh silicone dẽo; hay dai, chắc hoặc mềm nhão như mô mỡ. Màu vàng, trắng hồng hay tím. Dạng nang (kyste) Nang có vách mỏng là mô liên kết, chứa silicone lỏng trong suốt. Hình dạng và kích thước thay đổi (từ bằng đầu ngón tay 1,5x1x1 cm) đến nhỏ li ti như hạt cát. Dạng tẩm nhuận hình thành khi silicone lỏng được chích vào những vùng mô liên kết, mô cơ. Dạng nang đặc biệt thấy trong mô mỡ như mí mắt, góc trong mắt, ổ mắt, má, tuyến vú Vùng được chích càng lớn, lượng chích càng nhiều thì các nang càng to. Vi thể Kết quả đọc 150 tiêu bản, 60% là mô hạt viêm và tế bào khổng lồ ăn dị vật, 22% là mô viêm mạn tính sơ hóa, 10% mô viêm phản ứng trong đó triệu chứng da mũi đổi màu (đỏ, xanh) có liên quan có ý nghĩa thống kê với hình ảnh phản ứng viêm vi thể. Về chữa trị Tất cả những phương pháp điều trị thất bại cũng như những phẫu thuật nửa vời làm tình trạng bệnh xấu đi vì gây hư hại thêm cho da, phát tán silicone lỏng – và kích thích thêm phản ứng đào thải. Nguyên tắc điều trị: Xem mô nhiễm silicone như một khối u. Phẫu thuật lấy mô nhiễm silicone phải là một kết hợp của sự cắt bỏ rộng, triệt để của phẫu thuật dành cho khối u với tính bảo tồn, tái tạo của một phẫu thuật thẩm mỹ và tạo hình. Đường vào phẫu thuật Đường mổ chỉnh hình mũi ngoài giúp giải quyết được tuyệt đại đa số các dạng bệnh tích kể cả những trường hợp thâm nhiễm lan lên vùng giữa cung mày, trán hay cạnh rãnh mũi má, mặt trước xoang hàm. Ưu điểm của đường này là: - đủ rộng để lấy hết bệnh tích vùng mũi và các vùng kế cận dưới mắt trần, - tính thẩm mỹ cao: sẹo mổ được giấu gần hoàn toàn trong tiền đình mũi - giúp tái tạo mũi dễ dàng. Đường mổ lột găng cho lối vào rộng trên toàn bộ vùng mặt nhưng chỉ áp dụng trong những trường hợp đặc biệt, khi bệnh tích lan rộng trên vùng má, sàn ổ mắt. Đường mổ dọc xuyên da tháp mũi một mặt để lại sẹo xấu trên vùng lộ liễu nhất của khuôn mặt, mặt khác tạo đường lan truyền cho silicone Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Tai Mũi Họng 205 lỏng từ những lớp sâu ra da. Vết sẹo đường gi
Tài liệu liên quan