Đồ án Đánh giá hiện trạng xả thải và đề xuất các giải pháp bảo vệ nguồn nước mặt sông Ba Lai trên địa bàn huyện Ba Tri tỉnh Bến Tre đến năm 2020

Bến Tre là một trong 13 tỉnh, thành nằm ở Tây Nam của Nam Bộ, được hình thành bởi cù lao An Hóa, cù lao Bảo, cù lao Minh và do phù sa của 4 nhánh sông Cửu Long bồi tụ mà thành (gồm sông Tiền dài 83 km, sông Ba Lai 59 km, sông Hàm Luông 71 km, sông Cổ Chiên 82 km). Phía Bắc giáp tỉnh Tiền Giang, có ranh giới chung là sông Tiền, phía nam giáp tỉnh Trà Vinh, phía tây giáp tỉnh Vĩnh Long, có ranh giới chung là sông Cổ Chiên, phía đông giáp biển Đông, với chiều dài bờ biển là 65 km. Sông Tiền, sông Ba Lai, sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên là những con sông đã giữ vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế văn hóa của nhân dân trong tỉnh: cung cấp nước ngọt cho sinh hoạt và nông nghiệp, những thức ăn giàu đạm như tôm, cá, cua, ốc, góp phần làm tươi đẹp cảnh quan, điều hòa khí hậu. Các con sông này còn có một vị trí quan trọng trong hệ thống giao thông thủy, không chỉ của tỉnh mà cả miền đồng bằng rộng lớn. Từ môi trường thuận lợi này, việc giao lưu văn hóa cũng phát triển mạnh mẽ với các vùng xung quanh. Trong những năm gần đây với chính sách thu hút đầu tư phát triển, nền kinh tế của tỉnh đã có những thay đổi lớn trong cơ cấu kinh tế, thu nhập GDP của tỉnh tăng lên. Quá trình phát triển đã tạo ra nhiều sản phẩm của cải vật chất cho xã hội, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng chung nền kinh tế, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, tăng thu nhập dân cư. Song song với nó là khối lượng chất thải phát sinh ngày càng nhiều, vấn đề ô nhiễm môi trường liên quan đến khí thải, chất thải rắn và đặc biệt là nước thải từ các hoạt động sinh hoạt thông thường và công nghiệp đang được xả trực tiếp vào nguồn nước mặt làm cho môi trường nước mặt ngày càng ô nhiễm nặng nề và sẽ là nguy cơ làm biến đổi môi trường, suy giảm hệ sinh thái. Trước các vấn đề tài nguyên, môi trường cấp bách trên, để bảo vệ môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên tỉnh Bến Tre, nhất là môi trường nước đang ngày càng ô nhiễm trầm trọng thì cần phải thực hiện đồng thời các chương trình bảo vệ môi trường: Kiểm soát ô nhiễm nguồn nước mặt do nước thải, các làng nghề, khu, cụm công nghiệp và các đô thị; Kiểm soát và xử lý nước thải do hoạt động chăn nuôi và nuôi thủy sản; Kiểm soát ô nhiễm chất lượng đất do sử TBVTV và phân bón trong nông nghiệp, Tuy nhiên, đối với 4 con sông chính của tỉnh Bến Tre thì việc kiểm soát ô nhiễm sông Tiền và sông Cổ Chiên gặp khó khăn vì có ranh giới chung với tỉnh Tiền Giang và tỉnh Vĩnh Long, sông Hàm Luông thì đang có chương trình khảo sát về hiện trạng ô nhiễm, đánh giá chất lượng nước và đề xuất phân vùng xả thải thí điểm cho đoạn sông dài 5,4km do Sở Tài Nguyên Môi Trường Bến Tre chủ trì thực hiện. Còn riêng đối với sông Ba Lai do bồi tích nhanh của sông Mỹ Tho làm cho sông Ba Lai bị nghẽn ở đầu phía trên, lượng nước yếu đi không tống nổi phù sa của sông Cửa Đại đang bít nghẽn dòng chảy ra biển. Do đó, nó sẽ “chết”, lòng cổ của nó bị lấp dần, xóa hẳn ở huyện Châu Thành, gần xóa ở huyện Giồng Trôm và sắp sửa bị xóa ở huyện Bình Đại, thêm vào đó là lượng nước thải từ các kênh, rạch đổ vào làm cho khả năng tự làm sạch của dòng sông kém dần. Vì vậy, đề tài “Đánh giá hiện trạng xả thải và đề xuất các giải pháp bảo vệ nguồn nước mặt sông Ba Lai trên địa bàn huyện Ba Tri tỉnh Bến Tre đến năm 2020” là rất cần thiết và mang tính thực tiễn, nhằm phục vụ cho công tác kiểm soát, quản lý và bảo vệ môi trường, đảm bảo nhu cầu sử dụng nước của người dân với các mục đích khác nhau.

doc98 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 2133 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Đánh giá hiện trạng xả thải và đề xuất các giải pháp bảo vệ nguồn nước mặt sông Ba Lai trên địa bàn huyện Ba Tri tỉnh Bến Tre đến năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Bến Tre là một trong 13 tỉnh, thành nằm ở Tây Nam của Nam Bộ, được hình thành bởi cù lao An Hóa, cù lao Bảo, cù lao Minh và do phù sa của 4 nhánh sông Cửu Long bồi tụ mà thành (gồm sông Tiền dài 83 km, sông Ba Lai 59 km, sông Hàm Luông 71 km, sông Cổ Chiên 82 km). Phía Bắc giáp tỉnh Tiền Giang, có ranh giới chung là sông Tiền, phía nam giáp tỉnh Trà Vinh, phía tây giáp tỉnh Vĩnh Long, có ranh giới chung là sông Cổ Chiên, phía đông giáp biển Đông, với chiều dài bờ biển là 65 km. Sông Tiền, sông Ba Lai, sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên là những con sông đã giữ vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế văn hóa của nhân dân trong tỉnh: cung cấp nước ngọt cho sinh hoạt và nông nghiệp, những thức ăn giàu đạm như tôm, cá, cua, ốc, góp phần làm tươi đẹp cảnh quan, điều hòa khí hậu... Các con sông này còn có một vị trí quan trọng trong hệ thống giao thông thủy, không chỉ của tỉnh mà cả miền đồng bằng rộng lớn. Từ môi trường thuận lợi này, việc giao lưu văn hóa cũng phát triển mạnh mẽ với các vùng xung quanh. Trong những năm gần đây với chính sách thu hút đầu tư phát triển, nền kinh tế của tỉnh đã có những thay đổi lớn trong cơ cấu kinh tế, thu nhập GDP của tỉnh tăng lên. Quá trình phát triển đã tạo ra nhiều sản phẩm của cải vật chất cho xã hội, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng chung nền kinh tế, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, tăng thu nhập dân cư. Song song với nó là khối lượng chất thải phát sinh ngày càng nhiều, vấn đề ô nhiễm môi trường liên quan đến khí thải, chất thải rắn và đặc biệt là nước thải từ các hoạt động sinh hoạt thông thường và công nghiệp đang được xả trực tiếp vào nguồn nước mặt làm cho môi trường nước mặt ngày càng ô nhiễm nặng nề và sẽ là nguy cơ làm biến đổi môi trường, suy giảm hệ sinh thái. Trước các vấn đề tài nguyên, môi trường cấp bách trên, để bảo vệ môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên tỉnh Bến Tre, nhất là môi trường nước đang ngày càng ô nhiễm trầm trọng thì cần phải thực hiện đồng thời các chương trình bảo vệ môi trường: Kiểm soát ô nhiễm nguồn nước mặt do nước thải, các làng nghề, khu, cụm công nghiệp và các đô thị; Kiểm soát và xử lý nước thải do hoạt động chăn nuôi và nuôi thủy sản; Kiểm soát ô nhiễm chất lượng đất do sử TBVTV và phân bón trong nông nghiệp,… Tuy nhiên, đối với 4 con sông chính của tỉnh Bến Tre thì việc kiểm soát ô nhiễm sông Tiền và sông Cổ Chiên gặp khó khăn vì có ranh giới chung với tỉnh Tiền Giang và tỉnh Vĩnh Long, sông Hàm Luông thì đang có chương trình khảo sát về hiện trạng ô nhiễm, đánh giá chất lượng nước và đề xuất phân vùng xả thải thí điểm cho đoạn sông dài 5,4km do Sở Tài Nguyên Môi Trường Bến Tre chủ trì thực hiện. Còn riêng đối với sông Ba Lai do bồi tích nhanh của sông Mỹ Tho làm cho sông Ba Lai bị nghẽn ở đầu phía trên, lượng nước yếu đi không tống nổi phù sa của sông Cửa Đại đang bít nghẽn dòng chảy ra biển. Do đó, nó sẽ “chết”, lòng cổ của nó bị lấp dần, xóa hẳn ở huyện Châu Thành, gần xóa ở huyện Giồng Trôm và sắp sửa bị xóa ở huyện Bình Đại, thêm vào đó là lượng nước thải từ các kênh, rạch đổ vào làm cho khả năng tự làm sạch của dòng sông kém dần. Vì vậy, đề tài “Đánh giá hiện trạng xả thải và đề xuất các giải pháp bảo vệ nguồn nước mặt sông Ba Lai trên địa bàn huyện Ba Tri tỉnh Bến Tre đến năm 2020” là rất cần thiết và mang tính thực tiễn, nhằm phục vụ cho công tác kiểm soát, quản lý và bảo vệ môi trường, đảm bảo nhu cầu sử dụng nước của người dân với các mục đích khác nhau. 2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Nước là một trong những nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống của con người cũng như mọi cơ thể sinh vật, nếu không có nước thì không thể tồn tại sự sống. Ngày nay với mức độ tăng trưởng kinh tế, đô thị hoá, công nghiệp hoá phát triển rầm rộ cùng với sự tăng dân số đã làm cho nhu cầu về nước tăng lên nhanh chóng đồng thời cũng làm nguồn nước tự nhiên bị hao kiệt dần và mức độ ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng.Vì vậy các nước nỗ lực nghiên cứu giải quyết vấn đề ô nhiễm theo điều kiện thực tế của từng nơi. Các nhà khoa học các nước đang hướng đến cách tiếp cận phát triển bền vững, quy hoạch luôn liên kết chặt chẽ với con người, môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Với ý nghĩa thực tế trên , tại nhiều tỉnh trong cả nước đã và đang tiến hành các dự án liên quan đến điều kiện xả thải vào nguồn tiếp nhận chính, với đặc trưng của địa phương nhằm áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn Việt Nam có hiệu quả thiết thực: Dự án “Đánh giá chất lượng nước sông Tiền, sông Hậu ở một số vùng dân cư của tỉnh Đồng Tháp, Vĩnh Long” do Trịnh Thị Hương, Trần Bích Ngọc, Nguyễn Trần Bảo Thanh và cộng sự thực hiện năm 2006, với mục đích mô tả và đánh giá chất lượng nước của các chỉ tiêu hóa lý và vi sinh nước sông Tiền, sông Hậu ở tỉnh Đồng Tháp, Vĩnh Long và Cần Thơ. Dự án “Điều tra, thống kê các nguồn nước xả thải ra sông/ suối, đánh giá mức độ ô nhiễm, dự báo và đề xuất giải pháp bảo vệ môi trường trên rạch Tây Ninh và sông Vàm Cỏ Đông” do Viện Môi Trường và Tài Nguyên thực hiện. Đề tài “Nghiên cứu phân vùng chất lượng nước theo các chỉ số chất lượng nước (WQI) và đánh giá khả năng sử dụng các nguồn nước sông, kênh rạch ở vùng TP. Hồ Chí Minh” với mục đích đánh giá diễn biến chất lượng nước và ứng dụng, cải tiến mô hình WQI cho phù hợp với điều kiện tự nhiên ở TP. Hồ Chí Minh. Đề tài do PGS.TS Lê Trình làm chủ nhiệm thực hiện năm 2008. Đề tài “Ứng dụng chỉ số chất lượng nước để đánh giá và phân vùng chất lượng nước sông, kênh, rạch chính trên địa bàn tỉnh Long An” do Phạm Quốc Khánh thực hiện năm 2011 với mục đích đánh giá mức độ phù hợp của các vùng chất lượng nước của tỉnh Long An đối với các mục tiêu sử dụng nước khác nhau. Đề tài “Nghiên cứu đánh giá khả năng tiếp nhận nước thải của các sông chính trên địa bàn tỉnh Trà Vinh” do Lâm Thị Thu Oanh thực hiện năm 2008 với mục đích đánh giá khả năng tiếp nhận nước thải, xả thải vào các nguồn tiếp nhận chính và phân vùng chất lượng nước trên địa bàn tỉnh Trà Vinh phục vụ công tác quản lý và bảo vệ môi trường của tỉnh. 3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Nhằm bảo vệ môi trường nước mặt sông Ba Lai đề tài đã: Đánh giá tình hình sử dụng nước, diễn biến chất lượng nước và các nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước sông Ba Lai. Dự báo tình hình xả thải và tải lượng chất ô nhiễm thải ra môi trường đến năm 2020. Đề xuất giải pháp quản lý, bảo vệ môi trường nước sông Ba Lai trên địa bàn huyện Ba Tri tỉnh Bến Tre đến năm 2020. 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu của đề tài là điều tra, đánh giá nguồn xả thải của tất cả các nguồn thải vào sông Ba Lai trên địa bàn huyện Ba Tri thuộc tỉnh Bến Tre. Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn ở nhánh song Ba Lai trên địa bàn huyện Ba Tri thuộc tỉnh Bến Tre. Thời gian thực hiện 31/05 – 07/09/2011 5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU Thu thập các thông tin, số liệu sẵn có liên quan đến môi trường tự nhiên, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của khu vực liên quan đến nhánh sông, hiện trạng chất lượng nước trên nhánh sông. Thu thập các số liệu về các nguồn thải ở huyện để đánh giá dự báo về lưu lượng và tải lượng ô nhiễm có khả năng đưa vào lưu vực. Phân tích các tài liệu đã được thu thập, xác định các dữ liệu, thông tin có liên quan để tiến hành khảo sát bổ sung thêm. Tổng hợp số liệu và đánh giá chất lượng nước. Đề xuất các giải pháp để quản lý và bảo vệ nguồn nước. 6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phương pháp thu thập thông tin, tổng hợp tài liệu: thu thập các thông tin tư liệu liên quan đến nội dung của dự án: điều kiện tự nhiên, KT-XH, hiện trạng chất lượng môi trường, hoạt động bảo vệ môi trường, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nuôi trồng thủy sản, các nguồn tiếp nhận,…. Phương pháp kế thừa: kế thừa chọn lọc các kết quả nghiên cứu đã có về hiện trạng chất lượng môi trường nước mặt, các nguồn thải vào môi trường nước mặt; hiện trạng và quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn tỉnh, các số liệu thủy văn dòng chảy, các loại bản đồ có liên quan,… Phương pháp điều tra khảo sát thực địa: khảo sát thực tế đánh giá hiện trạng các nguồn thải, hoạt động công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, nuôi trồng thủy sản, xác định các vị trí lấy mẫu,… Phương pháp thống kê, xử lý số liệu, thông tin: sử dụng để phân tích và xử lý một cách hệ thống các nguồn số liệu về điều kiện tự nhiên, môi trường và kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh, cũng như các nguồn số liệu phục vụ cho công tác phân vùng xả thải nước thải. Phương pháp lấy mẫu, phân tích chất lượng nước mặt và nước thải: thu mẫu nước (tại mỗi điểm các mẫu nước được thu riêng và bảo quản riêng cho các mục đích: phân tích các kim loại nặng, phân tích vi sinh, phân tích các chất ô nhiễm khác), phân tích tại hiện trường, phân tích trong phòng thí nghiệm. Phương pháp đánh giá nhanh: trên cơ sở các kết quả thu thập từ tài liệu, số liệu điều tra khảo sát thực tế,… đánh giá hiện trạng chất lượng môi trường nước mặt,… Phương pháp so sánh quy chuẩn với môi trường Việt Nam: sử dụng QCVN 08: 2008/BTNMT và các QCVN 11, 12, 13: 2008/BTNMT để đánh giá mức độ tác động môi trường trên cơ sở so sánh với các mức giới hạn quy định trong các tiêu chuẩn, quy chuẩn môi trường Việt Nam ban hành áp dụng (so sánh với ngưỡng chịu tải về các tính chất vật lý, hóa học và sinh học của môi trường). Phương pháp đánh giá lưu lượng, tải lượng ô nhiễm từ nước thải: dựa theo số liệu dân cư, quy hoạch phát triển chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản và hệ số phát thải nước thải của dân cư, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản để đánh giá lưu lượng và tải lượng ô nhiễm do nước thải của các nguồn thải này ở hiện tại và dự báo đến năm 2020. CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ, VĂN HÓA – XÃ HỘI HUYỆN BA TRI TỈNH BẾN TRE. 1.1 Điều kiện tự nhiên 1.1.1 Vị trí địa lý Huyện Ba Tri là một trong 8 đơn vị hành chánh cấp huyện thị của tỉnh Bến Tre, nằm trên cù lao Bảo, phía Đông của tỉnh Bến Tre với tổng diện tích tự nhiên là 355,53 km2 (chiếm 15,3% diện tích toàn tỉnh),dân số năm 2010 là 201,802 người, mật độ dân số 560,08 người/km2. Hình 1.1: Bản đồ vị trí địa lý huyện Ba Tri Có tọa độ địa lý: 106º28’17’’ – 106º41’25’’ kinh độ Đông và 9º57’38’’ – 10º11’14’’ vĩ độ Bắc. Phía Bắc và phía Đông Bắc giáp huyện Bình Đại qua ranh giới tự nhiên là sông Ba Lai. Phía Nam giáp huyện Thạnh Phú qua ranh giới tự nhiên là sông Hàm Luông. Phía Đông và Đông Nam giáp biển Đông. Phía Tây và Tây Bắc giáp huyện Giồng Trôm. 1.1.2 Khí hậu 1.1.2.1 Bức xạ mặt trời Ba Tri nằm trong miền khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, nhưng lại nằm ngoài ảnh hưởng của gió mùa cực đới, nên nhiệt độ cao, ít biến đổi trong năm, nhiệt độ trung bình hàng năm từ 26oC -27oC. Trong năm không có nhiệt độ tháng nào trung bình dưới 20oC. Hằng năm, mặt trời đi qua thiên đỉnh 2 lần (16 tháng 4 và 27 tháng 7). Lượng bức xạ khá dồi dào, trung bình đạt tới 160kcal/cm2. 1.1.2.2 Chế độ nhiệt Do ở vĩ độ thấp nên Ba Tri tiếp nhận được ánh nắng dồi dào, độ dài ban ngày lớn, bức xạ và nhiệt độ cao. Tổng số giờ nắng trong năm đạt trên dưới 2.630 giờ. Trong mùa khô, số giờ nắng trung bình mỗi ngày đạt từ 8 – 9 giờ. Tháng mùa mưa trung bình từ 5 – 7 giờ trong ngày. Nhiệt độ của huyện cũng tương đối cao, đủ cho sự phát triển cây trồng và vật nuôi. Trị số trung bình vào khoảng 27oC. Tháng nóng nhất là tháng 4 – 5, cho nên nhiệt độ trung bình vào khoảng 29oC. Tháng ít nóng nhất là 12, trung bình khoảng 25oC. Chênh lệch giữa tháng ít nóng nhất và tháng nóng nhất là 4oC. Trong toàn huyện, chưa bao giờ nhiệt độ trung bình ngày xảy ra dưới 25oC. Nhiệt độ thấp tuyệt đối trong ngày là 18,1oC và cao nhất trong ngày (thường xảy ra quá trưa) là 36oC. Trong mùa khô, biên độ dao động ngày đêm nhỏ (<10oC). 1.1.2.3 Độ ẩm không khí Ba Tri có một hệ thống kênh rạch, sông ngòi chằng chịt, do đó có độ ẩm trong không khí tương đối cao phân hóa thành 2 mùa tương phản: mùa mưa từ tháng 5 – 11 trùng với gió mùa Tây Nam ( v = 2,2 m/s) ẩm độ cao, bốc hơi yếu; mùa khô từ tháng 12 – 4 trùng với gió mùa Đông Bắc ( v = 2,4 m/s) ẩm độ thấp, bốc hơi mạnh. 1.1.2.4 Chế độ gió Cũng như toàn tỉnh, huyện Ba Tri chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam và gió mùa Đông Bắc. Trong mùa mưa, gió thịnh hành là gió Tây Nam đến Tây Tây Nam, tốc độ trung bình cấp 3 – 4. Từ tháng 5 đến tháng 9 sang các tháng 10 và 11 của mùa mưa, thì gió chuyển tiếp yếu gồm có cả gió Đông Bắc đến Đông Nam, tốc độ thường ở mức cấp 2. Đến tháng 1 và 2 gió thịnh hành ở cấp 3 – 4 theo hướng Đông Bắc đến Đông Nam, để rồi vào cuối mùa khô vào các tháng 3 và 4, gió thịnh hành ở cấp 3 – 4, chủ yếu hướng Đông đến Đông Nam. Số lần lặn gió nhiều nhất xảy ra vào thời kỳ tranh chấp gió giữa mùa mưa và mùa khô, trong tháng 10 với tần suất là 21%. Đặc biệt, tháng 7 tần suất lặng gió là 17% do có những đợt hạn (hoặc ít mưa) thường xảy ra. Gió có hướng từ Đông Bắc đến Đông Nam hay còn gọi là gió chướng, có ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, gây trở ngại cho trồng trọt nhất là các huyện ven biển. Gió này chủ yếu là gió mùa Đông Bắc, có lúc cường độ gia tăng mạnh, nhất là khi phối hợp với trào lưu gió tín phong. Phân bố gió chướng trong ngày: qua 4 lần quan trắc 1, 7, 13 và 19 giờ Việt Nam trong một ngày, ta thấy gió lúc 13 giờ mạnh nhất. Đó là lúc nhiệt độ ở đất liền cao hơn ở mặt biển, nên gió chướng kết hợp với gió biển thổi vào đất liền lúc này có độ cao. Sự xâm nhập của gió chướng, nếu được đồng bộ với thủy triều cường, sẽ làm ảnh hưởng xấu đến mùa màng và các loại hoa màu khác. Vì gió chướng thổi mạnh đẩy nước biển chảy ngược vào các sông chính và tràn vào các kênh rạch, làm nhiễm mặn đồng ruộng các vùng gần biển. Bọt nước biển được gió đưa vào bám các mầm non, làm hạn chế sự phát triển của cây lúa và các hoa màu khác. 1.1.2.5 Đặc điểm mưa Ba Tri là huyện có lượng mưa thuộc vào loại thấp nhất của vùng ĐBSCL (< 1.400mm), hằng năm có một mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 và một mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Mùa mưa trùng với gió mùa Tây Nam. Lượng mưa hằng năm trung bình từ 1.210 – 1.240 mm. Các vùng ven biển như huyện Ba Tri mưa thường bắt đầu chậm và kết thúc sớm hơn các nơi khác. Trong mùa mưa, xen kẽ có nhiều ngày không mưa. Số ngày mưa thật sự trong mùa mưa cũng không đồng đều trong toàn huyện (khoảng 50 – 60 ngày). 1.1.3 Địa hình, địa mạo, địa chất Địa hình huyện Ba Tri nhìn chung là bằng phẳng, bị chia cắt bởi các giồng cát hình cánh cung và có khuynh hướng thấp dần từ ven sông vào trung tâm và từ Tây sang Đông. Vùng ven sông có cao trình 0,9 – 1,3m và có khuynh hướng thấp dần hướng về khu vực trung tâm; vùng đồng bằng giữa 2 sông có cao trình 0,7 – 1,0m, cá biệt có những vùng trũng có cao trình dưới 0,4m; vùng đầm lầy ven biển có cao trình từ 0,6 – 1,0m; các giồng các có cao trình từ 2 – 4m. Theo kết quả chương trình điều tra tổng hợp vùng đồng bằng sông Cửu Long, huyện Ba Tri nằm trong vùng đồng bằng ven biển thuộc tam giác châu sông Tiền, bao gồm 3 dạng địa mạo: đê sông Tiền và đê sông Hàm Luông (kể cả các cù lao), đồng bằng nhiễm mặn giữa hai sông và vùng đầm lầy mặn – bãi bồi ven biển. Về địa chất, địa bàn được hình thành chủ yếu qua quá trình bồi lắng trầm tích biển và phù sa của sông Cửu Long, bao gồm hai loại trầm tích: Holocene (phù sa mới) và Pleistocene (phù sa cổ); đi từ Tây sang Đông, lớp phù sa cổ có khuynh hướng chìm thấp dần. 1.1.4 Mạng lưới sông rạch Trên địa bàn huyện Ba Tri, sông Ba Lai tiếp giáp với địa bàn các xã: Tân Mỹ, Tân Xuân, Bảo Thạnh. Các rạch lớn đổ ra sông Ba Lai gồm: rạch Vàm Hồ (dài 7.5 km) thuộc xã Tân Mỹ, rạch Mỹ Nhiên (dài 7 km) thuộc xã Tân Xuân và rạch Ruộng Muối (dài 5 km) thuộc xã Bảo Thạnh. Các rạch này nối với hệ thống kênh rạch nội đồng khá phát triển. Hình 1.2: Rạch Vàm Hồ ở xã Tân Mỹ 1.1.5 Chế độ thủy văn Địa bàn huyện Ba Tri nằm giữa sông Hàm Luông và sông Ba Lai đoạn đổ ra biển, điều kiện thủy văn hoàn toàn chịu ảnh hưởng chế độ bán nhật triều không đều biển Đông, biên độ triều dao động trong khoảng 2 – 2,4m (vùng nội địa) và trên 3m (vùng ven biển). Vào thời kỳ cao điểm mùa khô (tháng 3 – 4) độ mặn tối đa vùng cửa sông Ba Lai và Hàm Luông có thể lên đến 23 – 28g/l; vào đầu mùa mưa (tháng 6), vùng cửa sông vẫn nhiễm mặn 10 – 15g/l và ranh mặn 4g/l vượt khỏi Tân Hưng. Nhìn chung đi từ vùng cửa sông đến ranh huyện Giồng Trôm thời gian ranh mặn tối đa <4g/l tăng dần đến 3 – 4 tháng/năm. Tuy nhiên dưới tác động của các công trình bao đê tạo nguồn, trên vùng ngọt hóa (khu vực phía Bắc đường tỉnh 885 từ ranh Giồng Trôm đến Tân Thủy) vẫn bảo đảm cho nguồn nước ngọt cho canh tác các loại cây trồng. Sau khi hoàn thành công trình cống đập Ba Lai (thuộc hệ thống thủy lợi Bắc Bến Tre), sông Ba Lai được ngọt hóa hoàn toàn từ Tân Xuân trở về thượng lưu. Tuy nhiên các tác động lên chế độ thủy văn và môi trường nước mặt vẫn chưa được đánh giá đầy đủ. Đường bờ biển Ba Tri được bồi khá mạnh, trong vòng 100 năm qua, bờ biển được bồi thêm khoảng 200 – 250m (Bảo Thạnh), 400 – 600m (An Thủy) và gần 1.000m (Bảo Thuận). Về địa chất thủy văn, nguồn nước ngọt duy nhất trên địa bàn là nước giồng cát, được hình thành do quá trình thấm lọc của nước mưa và tích tụ trong các giồng cát tại xã An Hòa Tây, An Thủy, Tân Thủy, Bảo Thuận, Bảo Thạch, Tân Xuân với trữ lượng thấp và dễ bị nhiễm mặn trong điều kiện khai thác nhiều; nước ngầm tầng nông và nước ngầm tầng sâu hầu như không có nước ngọt, không có khả năng phục vụ cho nhu cầu ăn uống và sinh hoạt. 1.1.6 Tình hình nhiễm mặn Ba Tri có vị trí địa lý ở vùng cửa biển, nên chịu ảnh hưởng xâm nhập mặn trên hai con sông: Hàm Luông và Ba Lai. Vào mùa khô, tình trạng xâm nhập mặn diễn ra gay gắt. Gây ảnh hưởng đến sinh hoạt, trồng trọt và chăn nuôi của nhân dân trong huyện. Bảo Thạnh là xã chịu nhiều ảnh hưởng nhất, hiện trạng xâm nhập mặn đã làm sản lượng sản xuất nông nghiệp của nhiều vùng đất trong xã thậm chí phải bỏ hoang do không canh tác, trồng trọt được. Hình 1.3: Đất bị bỏ hoang do nhiễm mặn ở xã Bảo Thạnh. Mực nước biển dâng lên đưa mặn vào sông ngòi, đồng ruộng. Mức độ mặn hóa của đất tăng lên, phèn tầng mặt giảm do quá trình nước ém phèn xuống tầng sâu. Khi mực nước trên mương, đồng ruộng giảm xuống, tình trạng khô hạn bắt đầu thì quá trình mặn hóa và đặc biệt là phèn hóa bốc lên tầng mặt rất mạnh mẽ. Hình 1.4: Đất nông nghiệp bị phèn hóa ở xã Bảo Thạnh. 1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội 1.2.1 Tăng trưởng và chuyển đổi cơ cấu kinh tế toàn huyện Giai đoạn 2006 - 2010 tình hình kinh tế - xã hội huyện tiếp tục phát triển, các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu đều đạt và vượt kế hoạch đề ra, tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng từ 8,71% năm 2006 lên 15,08% năm 2010, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 12,23% năm; Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm dần tỷ trọng ngành Nông - Lâm - Ngư nghiệp từ 66,58% năm 2006 xuống còn 50% năm 2010; công nghiệp xây dựng từ 11,6% tăng lên 15%; dịch vụ từ 21,82% tăng lên 35%. Thu nhập bình quân đầu người từ 9,6 triệu đồng năm 2006 tăng lên 16,7 triệu đồng năm 2010. Thu ngân sách hàng năm đều đạt kế hoạch. Đời sống đại bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt, các vùng nông thôn ngày càng đổi mới và khởi sắc. 1.2.2 Hiện trạng phát triển các ngành kinh tế chính của huyện Trong 05 năm qua, các ngành kinh tế chính của huyện không ngừng phát triển, đã góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của huyện , tạo ra nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu, góp phần giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập cho người lao động. 1.2.2.1 Lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp. Về nông nghiệp: Trồng trọt: Nông nghiệp tiếp tục phát triển, góp phần đưa giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân giai đoạn 2006 - 2010: 4,82%. Năng suất các loại cây trồng tăng, trong đó: - Cây lúa: Tổng diện tích gieo trồng 39.331 ha, đạt 100,04% kế hoạch; sản lượng 191.637 tấn, đạt 100,71% kế hoạch, tăng 2,08% so với năm trước. Cụ thể từng vụ như sau: + Vụ mùa 2009: Thu hoạch được 14.527 ha, đạt 100% kế hoạch, năng suất bình quân 46,94 tạ/ha, sản lượng đạt 68.191 tấn, tăng 14,04% (tương đương tăng 8.395 tấn). + Vụ Đông Xuân: Thu hoạch 12.771 ha, đạt 102% kế hoạch, tăng 2,12% so cùng kỳ; sản lượng 72.046 tấn, giảm 2% so với năm trư

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbai lam luan van 26-8-2011.1.doc
  • docBM05-QT04-DT Phieu giao de tai.doc
  • docloi cam doan.doc
  • docLoi cam on.doc
  • docmuc luc.doc