Đồ án Một số kỹ thuật mở đầu bài giảng hiệu quả môn Hoá học ở THPT theo quan điểm sư phạm tương tác

1. Lý do chọn đề tài Bất kỳ một hoạt động nào đều có sự mở đầu. Trong mỗi tiết học, mở đầu bài giảng là một khâu quan trọng góp phần quyết định đến hiệu quả của cả giờ học. Đây chính là thời điểm “dạo đầu” để giáo viên tìm mọi cách tạo động cơ và hứng thú học tập cho học sinh. Thực tế cho thấy, nhiều giáo viên còn xem nhẹ vai trò của mở đầu bài giảng, chưa chú ý nhiều đến việc phải bắt đầu tiết học như thế nào để học sinh cảm thấy hứng thú và tham gia vào bài học một cách tích cực nhất. Các phương pháp sư phạm chưa thực sự phù hợp với từng môn học và chưa tác động hiệu quả tới từng đối tượng học sinh, tạo ra cảm giác nhàm chán và thái độ học tập thụ động. Qua nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy thực trạng học tập các môn học nói chung và học tập môn Hoá học nói riêng của học sinh THPT chưa thực sự hiệu quả. Phần lớn học sinh chưa có khả năng tự học, còn lười học, mang tính chất học vẹt, học thuộc nhưng hiểu không sâu. Vấn đề đặt ra là cần phải có những đổi mới nhất định trong phương pháp dạy học và tạo hứng thú học tập nâng cao cho học sinh trong từng tiết học. Trong những năm gần đây, đã có nhiều tác giả đưa ra những lý thuyết khác nhau về vấn đề tạo hứng thú học tập cho học sinh. Trong số đó phải đặc biệt chú ý đến quan điểm sư phạm tương tác của hai tác giả Jean – Marc Denomme và Mandeleien Roy với ưu điểm nổi bật trong việc xác định các vai trò của người dạy và ảnh hưởng của môi trường tạo ra những thích nghi nhất định nhằm xác định hứng thú và động cơ học tập cho người học, từ đó người học sẽ tích cực tham gia vào bài học và có trách nhiệm với hoạt động học tập của mình. Nhận thức tầm quan trọng của mở đầu bài giảng và mối quan hệ trực tiếp của mở đầu bài giảng với hứng thú học tập của học sinh nói chung và trong môn Hoá học nói riêng, tôi đã chọn đề tài “Một số kỹ thuật mở đầu bài giảng hiệu quả môn Hoá học ở THPT theo quan điểm sư phạm tương tác” dựa trên cơ sở khoa học của quan điểm sư phạm tương tác. Có nhiều cách mở đầu bài giảng tuỳ theo mục tiêu, nội dung của bài học, năng lực và thiên hướng của học sinh và năng lực của bản thân giáo viên. Trong phạm vi khoá luận tốt nghiệp này, bước đầu đưa ra một số kỹ thuật mở đầu bài giảng hiệu quả tạo hứng thú học tập cho học sinh trong môn Hoá học (minh hoạ qua dạy học phần hiđrocacbon không no, lớp 11). Đây là một vấn đề có giá trị thực tiễn đối với dạy học Hoá học ở THPT. 2. Mục đích của đề tài Dựa trên cơ sở khoa học của quan điểm sư phạm tương tác, đề tài đề xuất một số kỹ thuật mở đầu bài giảng hiệu quả nhằm tạo hứng thú học tập môn Hoá cho học sinh THPT, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn Hoá trong trường phổ thông. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài - Nghiên cứu và tổng hợp lý thuyết về quan điểm sư phạm tương tác và việc gây hứng thú học tập cho học sinh THPT. - Nghiên cứu lý thuyết chung về mở đầu bài giảng và các kỹ thuật gây hứng thú học tập cho học sinh từ khâu mở đầu bài giảng. - Nghiên cứu nội dung chương trình Hoá học phổ thông và một số phương pháp dạy học Hoá học ở trường phổ thông. - Tìm hiểu thực trạng hứng thú học tập môn Hoá học của học sinh THPT từ đó đề xuất một số kỹ thuật mở đầu bài giảng hiệu quả gây hứng thú học tập cho học sinh (minh họa qua dạy học phần hiđrocacbon không no). - Khảo sát tính hiệu quả của các kỹ thuật mở đầu bài giảng đã đề xuất. - Thống kê, xử lý và phân tích các kết quả.

doc36 trang | Chia sẻ: ngatran | Lượt xem: 2287 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Một số kỹ thuật mở đầu bài giảng hiệu quả môn Hoá học ở THPT theo quan điểm sư phạm tương tác, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Bất kỳ một hoạt động nào đều có sự mở đầu. Trong mỗi tiết học, mở đầu bài giảng là một khâu quan trọng góp phần quyết định đến hiệu quả của cả giờ học. Đây chính là thời điểm “dạo đầu” để giáo viên tìm mọi cách tạo động cơ và hứng thú học tập cho học sinh. Thực tế cho thấy, nhiều giáo viên còn xem nhẹ vai trò của mở đầu bài giảng, chưa chú ý nhiều đến việc phải bắt đầu tiết học như thế nào để học sinh cảm thấy hứng thú và tham gia vào bài học một cách tích cực nhất. Các phương pháp sư phạm chưa thực sự phù hợp với từng môn học và chưa tác động hiệu quả tới từng đối tượng học sinh, tạo ra cảm giác nhàm chán và thái độ học tập thụ động. Qua nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy thực trạng học tập các môn học nói chung và học tập môn Hoá học nói riêng của học sinh THPT chưa thực sự hiệu quả. Phần lớn học sinh chưa có khả năng tự học, còn lười học, mang tính chất học vẹt, học thuộc nhưng hiểu không sâu. Vấn đề đặt ra là cần phải có những đổi mới nhất định trong phương pháp dạy học và tạo hứng thú học tập nâng cao cho học sinh trong từng tiết học. Trong những năm gần đây, đã có nhiều tác giả đưa ra những lý thuyết khác nhau về vấn đề tạo hứng thú học tập cho học sinh. Trong số đó phải đặc biệt chú ý đến quan điểm sư phạm tương tác của hai tác giả Jean – Marc Denomme và Mandeleien Roy với ưu điểm nổi bật trong việc xác định các vai trò của người dạy và ảnh hưởng của môi trường tạo ra những thích nghi nhất định nhằm xác định hứng thú và động cơ học tập cho người học, từ đó người học sẽ tích cực tham gia vào bài học và có trách nhiệm với hoạt động học tập của mình. Nhận thức tầm quan trọng của mở đầu bài giảng và mối quan hệ trực tiếp của mở đầu bài giảng với hứng thú học tập của học sinh nói chung và trong môn Hoá học nói riêng, tôi đã chọn đề tài “Một số kỹ thuật mở đầu bài giảng hiệu quả môn Hoá học ở THPT theo quan điểm sư phạm tương tác” dựa trên cơ sở khoa học của quan điểm sư phạm tương tác. Có nhiều cách mở đầu bài giảng tuỳ theo mục tiêu, nội dung của bài học, năng lực và thiên hướng của học sinh và năng lực của bản thân giáo viên. Trong phạm vi khoá luận tốt nghiệp này, bước đầu đưa ra một số kỹ thuật mở đầu bài giảng hiệu quả tạo hứng thú học tập cho học sinh trong môn Hoá học (minh hoạ qua dạy học phần hiđrocacbon không no, lớp 11). Đây là một vấn đề có giá trị thực tiễn đối với dạy học Hoá học ở THPT. 2. Mục đích của đề tài Dựa trên cơ sở khoa học của quan điểm sư phạm tương tác, đề tài đề xuất một số kỹ thuật mở đầu bài giảng hiệu quả nhằm tạo hứng thú học tập môn Hoá cho học sinh THPT, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn Hoá trong trường phổ thông. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài - Nghiên cứu và tổng hợp lý thuyết về quan điểm sư phạm tương tác và việc gây hứng thú học tập cho học sinh THPT. - Nghiên cứu lý thuyết chung về mở đầu bài giảng và các kỹ thuật gây hứng thú học tập cho học sinh từ khâu mở đầu bài giảng. - Nghiên cứu nội dung chương trình Hoá học phổ thông và một số phương pháp dạy học Hoá học ở trường phổ thông. - Tìm hiểu thực trạng hứng thú học tập môn Hoá học của học sinh THPT từ đó đề xuất một số kỹ thuật mở đầu bài giảng hiệu quả gây hứng thú học tập cho học sinh (minh họa qua dạy học phần hiđrocacbon không no). - Khảo sát tính hiệu quả của các kỹ thuật mở đầu bài giảng đã đề xuất. - Thống kê, xử lý và phân tích các kết quả. 4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu - Khách thể nghiên cứu: Học sinh lớp 11 và nội dung Hiđrocacbon không no (Hoá học lớp 11). - Đối tượng nghiên cứu: Các kỹ thuật mở đầu bài giảng môn Hoá học. 5. Phạm vi nghiên cứu Do hạn chế về thời gian và cơ sở vật chất nên đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu trong các vấn đề sau: - Các kỹ thuật mở đầu bài giảng hiệu quả môn Hoá học ở THPT thuộc phần Hiđrocacbon không no (Hoá học lớp 11). - Điều tra tại 4 lớp 11 tại trường một sốTHPT ở Hà Nội. - Khảo sát kết quả tại 3 lớp 11 trường THPT ở Hà Nội. 6. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu. - Phương pháp điều tra - phỏng vấn. - Phương pháp thực nghiệm khoa học - Phương pháp thống kê và xử lý số liệu. 6.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu Phân tích và tổng hợp một số tài liệu, các bài báo có liên quan đến quan điểm sư phạm tương tác, đồng thời nghiên cứu lý thuyết chung về một số kỹ thuật mở đầu bài giảng hiệu quả gây hứng thú học tập cho học sinh. 6.2. Phương pháp điều tra - phỏng vấn 6.2.1. Phương pháp quan sát - Lập phiếu quan sát giờ giảng. - Dự giờ một số tiết Hoá tại trường THPT tại Hà Nội để đánh giá về hứng thú học tập môn Hoá học của học sinh THPT. 6.2.2. Phương pháp điều tra, phỏng vấn - Điều tra học sinh bằng mẫu phiếu điều tra với hệ thống câu hỏi có đáp án lựa chọn và một số câu hỏi mở về hứng thú học tập môn Hoá. - Phỏng vấn trực tiếp một số giáo viên với mẫu câu hỏi đã chuẩn bị và những câu hỏi mở về thực tế mở đầu bài giảng môn Hoá học ở trường phổ thông. 6.3. Phương pháp thực nghiệm khoa học - Đề xuất một số kỹ thuật mở đầu bài giảng hiệu quả môn Hoá học dạy học phần Hiđrocacbon không no – Hoá học lớp 11. - Triển khai một số kỹ thuật mở đầu bài giảng đã đề xuất tại 3 lớp 11 ở trường THPT tại Hà Nội (một lớp so sánh), phát phiếu học tập sau giờ học đánh giá tính thực tiễn và hiệu quả của kết quả nghiên cứu. 6.4. Phương pháp thống kê, xử lý số liệu Dùng phương pháp thống kê toán học xử lý các thông tin trong phiếu điều tra. 7. Cấu trúc của khoá luận Mở đầu Nội dung Chương I: Cơ sở lý luận Chương II: Thực trạng hứng thú học tập môn Hoá học của học sinh THPT Chương III: Một số kỹ thuật mở đầu bài giảng hiệu quả môn Hoá học (minh hoạ qua phần Hiđrocacbon không no) Kết luận Phụ lục *** CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN Trong chương 1 của đề tài, tôi tập trung làm sáng tỏ các vấn đề sau: hứng thú học tập của học sinh THPT và quan điểm sư phạm tương tác với việc tạo hứng thú học tập cho học sinh và lý thuyết chung về các kỹ thuật mở đầu bài giảng, những đặc điểm cơ bản của môn Hoá học các phương pháp chung dạy học Hoá học. 1.1. Hứng thú học tập Phần đầu tiên của chương này, tôi tìm hiểu khái niệm hứng thú và đặc điểm hứng thú học tập của học sinh THPT, từ đó làm cơ sở đưa ra các kỹ thuật tạo hứng thú học tập cho học sinh trong những phần tiếp theo. 1.1.1. Khái niệm hứng thú Đã có nhiều nhà nghiên cứu định nghĩa về “hứng thú”, trong khoá luận này tôi sử dụng định nghĩa của tác giả Nguyễn Quang Uẩn : Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng mang lại khoái cảm cho cá nhân trong quá trình hoạt động. Hứng thú biểu hiện ở sự tập trung chú ý cao độ, ở sự say mê hấp dẫn bởi nội dung hoạt động, ở bề rộng và chiều sâu của hứng thú. Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành động, làm tăng hiệu quả của hoạt động nhận thức, tăng sức làm việc. Vì thế cùng với nhu cầu, hứng thú là một trong hệ thống động lực của nhân cách. [4] 1.1.2. Hứng thú học tập của học sinh THPT Theo tâm lí học lứa tuổi thì đối tượng học sinh THPT đã hình thành những đặc điểm khác hẳn với lứa tuổi THCS. Hoạt động học tập của học sinh THPT đòi hỏi tính năng động và tính độc lập ở mức độ cao hơn nhiều. Thái độ học tập của các em với từng môn học có sự lựa chọn hơn. Càng ngày, các em càng xác định cho mình hứng thú ổn định đối với một môn học, một lĩnh vực tri thức nhất định. Hứng thú này phần lớn là do động cơ thực tiễn (thường liên quan đến sự lựa chọn nghề nghiệp của học sinh), sau đó là động cơ nhận thức, tiếp đến là ý nghĩa xã hội của môn học, và những động cơ cụ thể khác. Những lý do trên trực tiếp ảnh hưởng đến thái độ học tập của các em với các môn học. Phần lớn học sinh tích cực học những môn để thi vào các trường ĐH và CĐ, trong khi đó sao nhãng các môn học khác. Với những môn học mà bản thân cho rằng không cần thiết, các em thường ít chú ý đến bài giảng và ít tham gia xây dựng bài. Bởi vậy, giáo viên có vai trò quan trọng trong việc tạo ra động cơ học tập cho học sinh. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần tạo hứng thú học tập cho học sinh trong từng tiết học cụ thể, làm động cơ hình thành hứng thú lâu dài với môn học, cần làm cho học sinh hiểu được ý nghĩa của từng môn học đối với thực tiễn và đối với chính bản thân các em. Về vấn đề gây hứng thú cho học sinh trong các tiết học, đã có rất nhiều nhà nghiên cứu, các tác giả đưa ra những quan điểm, những phương pháp và lý thuyết khác nhau, trong khoá luận này, tôi lựa chọn quan điểm sư phạm tương tác làm cơ sở lý luận cho đề tài. 1.2. Tạo hứng thú học tập cho học sinh dựa trên quan điểm sư phạm tương tác 1.2.1. Những vấn đề cơ bản của quan điểm sư phạm tương tác Sư phạm tương tác là một cách thức tiếp cận khoa học thần kinh nhận thức về hoạt động dạy học và đặc biệt chú ý tới việc đánh giá các mối quan hệ qua lại giữa các tác nhân khác nhau tham gia vào quá trình dạy học. Các tác nhân đó là: người học, người dạy và môi trường - tạo thành một tập hợp liên kết chặt chẽ, tác động qua lại tương hỗ lẫn nhau trong suốt quá trình dạy học. Quan điểm sư phạm tương tác nghiên cứu về việc học dựa trên cơ sở khoa học của “bộ máy học” hay chính là hệ thống thần kinh nhận thức, đề ra những “chiến lược” dạy học hiệu quả dựa trên cơ sở đó. Quan điểm này tập trung vào ba nhân tố: người học, người dạy và môi trường và đi sâu trả lời ba câu hỏi: người học học như thế nào, người dạy dạy như thế nào và môi trường có ảnh hưởng như thế nào đến việc dạy và học. Quan điểm sư phạm tương tác là sự kết hợp linh hoạt và chọn lọc trên cơ sở đánh giá và phân tích các trào lưu sư phạm đương đại trên, các trào lưu đó là: Phương pháp sư phạm tự do (quan điểm chủ đạo là tập trung hoàn toàn vào người học, tất cả xuất phát từ nhu cầu lợi ích của người học); Phương pháp sư phạm đóng (quan điểm chủ đạo là dựa vào chương trình học, đánh giá năng lực người học dựa trên những kết quả họ phải đạt được tức là việc học phải tuân theo logic của môn học ); Phương pháp sư phạm bách khoa (quan điểm chủ đạo là người học ngoan ngoãn tuân theo quyết định của người dạy, bằng lòng với kiến thức và kĩ năng được dạy). Phương pháp sư phạm mở (quan điểm chủ đạo là nhấn mạnh vào sự tác động qua lại giữa người dạy, người học và môi trường nhưng phương pháp học được tiến hành nhờ người dạy, môi trường thì được tiến hành do người dạy và người học phối hợp tổ chức). Bản chất của sư phạm tương tác là phương pháp sư phạm mở dựa trên sự tác động qua lại giữa người học, người dạy và môi trường; có sự kế thừa một đặc tính của sư phạm tự do bằng việc coi người học là trung tâm của hoạt động dạy học; tận dụng sự can thiệp có lợi của người dạy của phương pháp sư phạm bách khoa và sử dụng quan điểm chương trình học đưa ra đường hướng chỉ đạo cho việc học của phương pháp sư phạm đóng. Trên cơ sở đó, người học trong sư phạm tương tác được coi như người thợ chính của quá trình đào tạo, cần thỏa mãn ba yêu cầu: hứng thú, chủ động tham gia và có trách nhiệm với quá trình học của mình. Người dạy đóng vai trò người giúp đỡ, hướng dẫn người học bằng phương pháp sư phạm của mình và cần hoàn thành ba nhiệm vụ: xây dựng kế hoạch, tổ chức hoạt động và hợp tác. Môi trường xung quanh có ảnh hưởng nhất định đến quá trình dạy học và buộc người dạy và người học phải thích nghi với nó. Hay nói cách khác môi trường ảnh hưởng tới người học và phương pháp học, người dạy và phương pháp dạy một cách tương hỗ. Dựa trên cơ sở khoa học của quan điểm sư phạm tương tác thì trong quá trình học, người học thu lượm tri thức bằng cách vận hành hệ thống thần kinh. Hệ thống thần kinh là nơi đối tượng tri thức được thiết lập, bao gồm hai bộ phận: hệ thống thần kinh ngoại biên và hệ thống thần kinh trung ương. Hệ thống thần kinh ngoại biên có nhiệm vụ đón nhận thông tin qua trung gian là các giác quan được truyền dẫn qua các nơron về trung tâm dưới hình thức là các xung thần kinh. Hệ thống thần kinh trung ương có nhiệm vụ thu lượm, ghi và khai thác tri thức. Trước khi thông tin đến được hệ thần kinh trung ương phải đi qua vùng limbic.Tại đây diễn ra quá trình chọn lọc cảm tính, những thông tin gây hứng thú với người học sẽ được truyền tiếp đến hai bán cầu não và quá trình học tập diễn ra thuận lợi ngược lại sẽ gây ra ức chế cho quá trình học. Chính vì điều này nên vùng limbic được coi là một trong các rào cản của người học. Nghiên cứu hoạt động thu lượm tri thức của hệ thống thần kinh là câu trả lời cho câu hỏi: “Người học học như thế nào?” Trong phạm vi nội dung của khoá luận này, tôi nghiên cứu về việc gây hứng thú cho học sinh nên tập trung tìm hiểu trung tâm hứng thú (vùng limbic) và các yếu tố liên quan đến việc tạo hứng thú học tập cho học sinh. 1.2.2. Vùng “ limbic” trong quan điểm sư phạm tương tác Như trên đã trình bày, các tác giả của quan điểm sư phạm tương tác đã phân tích và xác định rõ trung tâm hứng thú của hệ thống thần kinh là hệ thống khứu não hay còn gọi là vùng limbic. Đây là nơi tiếp nhận thông tin đầu tiên của hệ thống thần kinh trung ương. Trước khi các thông tin đến được vùng limbic thì các giác quan phải được kích thích. Bộ phận quan trọng trong hệ thống thần kinh ngoại biên có nhiệm vụ thu nhận thông tin đó là năm giác quan. Người ta đã gọi năm giác quan là cửa vào của tri thức. Mỗi một giác quan chiếm một trung tâm đặc thù trong não mà ở đó chúng nhớ tất cả các nhận biết đi từ ngoại biên. Thị giác nhận biết màu sắc, kích thước, hình thức cũng như khái niệm khoảng cách; thính giác tập trung vào âm thanh với tất cả sắc thái của nó và phân biệt được cả khoảng cách; khứu giác và vị giác có nhiệm vụ phân biệt mùi và các vị; xúc giác đón nhận tất cả các cảm giác về nhiệt độ, cấu trúc, trọng lượng, hình thức, sức bền và cảm giác vận động cũng như các cảm giác bên trong của các chuyển động trong cơ thể. Chính vì vai trò quan trọng của các giác quan mà nó có một vị trí đặc biệt trong “bộ máy học”, có ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả thu nhận kiến thức trong quá trình học của học sinh. Do đó, người giáo viên khi tiến hành triển khai các phương pháp sư phạm của mình phải đặc biệt chú ý đến tính năng động của bộ phận này. Trước khi hứng thú xuất hiện thì năm giác quan của học sinh phải được hoạt động một cách hiệu quả. Môi trường đóng một vai trò hàng đầu trong việc phát triển các giác quan, chính môi trường cung cấp các kích thích cho các giác quan và đánh thức trí nhớ trong suốt quá trình học. Để kiến thức trở nên gần gũi với học sinh, Sau khi năm giác quan làm việc, thông tin được đưa đến khứu não. Trong bất cứ việc học nào hệ thống này cũng cần phải được kích thích để đưa đến động cơ và hứng thú học tập. Hệ thống khứu não (vùng limbique) tác động tới mọi hoạt động học những kích thích mong muốn, từ bỏ hoặc buộc phải chấp nhận kiến thức đó. Sự phát triển nào cũng tuân theo một nhu cầu nào đó. Học sinh sẽ cảm thấy càng hứng thú hơn với việc học khi được đáp ứng các nhu cầu của mình. Hứng thú ban đầu của học sinh được quyết định ở vùng limbic. Như vậy, vùng khứu não chính là bộ phận quan trọng góp phần quyết định kết quả học tập của học sinh, cũng chính là hiệu quả tiết dạy của giáo viên. Ngoài ra, chính hệ thống này là nguồn gốc quan hệ qua lại giữa người học và người dạy, trong thái độ của họ với môn học và trong phản ứng của họ trước môi trường. Do đó, để tạo được hứng thú của học sinh với bài học, giáo viên cần phải tìm cách để kích thích vùng limbic hoạt động và chấp nhận thông tin một cách tự nhiên. Quan điểm sư phạm tương tác đã đưa ra một nội dung làm cơ sở giúp giáo viên giải quyết nhiệm vụ này đó là quan điểm sư phạm hứng thú. Đây là một trong ba chiến lược của giáo viên để dạy học hiệu quả dựa trên quan điểm sư phạm tương tác (sư phạm hứng thú, sư phạm thành công và sư phạm hỗ trợ). Trong phần tiếp theo, tôi đề cập đến nội dung quan trọng của quan điểm sư phạm hứng thú là làm thế nào để gây được hứng thú cho học sinh? Dựa trên quan điểm sư phạm tương tác, quan điểm sư phạm hứng thú đã đưa ra những lý thuyết quan trọng về việc gây hứng thú ở người học. Trong quá trình dạy học, nhiều giáo viên bị “cám dỗ” bằng ý thức muốn nhanh chóng đưa học sinh trực tiếp vào trong quá trình học mà đã không làm cho họ biết trước tầm quan trọng, lợi ích của công việc. Cùng lúc đó, giáo viên có thể bỏ qua một giai đoạn quan trọng hàng đầu và chủ yếu trong vai trò dẫn dắt hoạt động là việc gây hứng thú ở học sinh. Một cách chính xác, giáo viên phải làm cho học sinh biết rằng sẽ khám phá ra ở đối tượng học một nguồn thoả mãn cá nhân mà đầu tư sự cố gắng vào đó, tham gia tìm kiếm tri thức mới và đạt mục đích cho việc học tập. Làm thế nào để tạo nên sự hứng thú thúc đẩy học sinh thực hiện việc học? Trước hết, giáo viên phải tạo ra nhu cầu ở người học, khiến học sinh thấy được lợi ích thiết thực, cụ thể của môn học. Đối với người dạy, vấn đề là phải tạo ra và hiện thực hoá nhu cầu này, điều này sẽ thúc đẩy người học phải hành động để khắc phục sự thiếu hụt, trở thành yếu tố kích thích một chuyển động thích nghi lại, bù trừ và tìm kiếm một sự cân đối mới. Người học do vậy trở thành người mong muốn thoả mãn nhu cầu tri thức của mình. Bên cạnh đó, tri thức thức mới cũng sẽ kích thích trí tò mò của người học, tạo ra sự ham thích và say mê khám phá. Quan điểm sư phạm hứng thú, thiết lập mối quan hệ phù hợp giữa người học và đối tượng học. Ý thức lúc này vào cuộc và tăng cường ở người học sự ham muốn học, bằng cách giới thiệu với người học đối tượng học là một cái gì đó có giá trị, được đánh giá cao và có lợi, vì vậy người học có thể khám phá trong đối tượng học một yếu tố tò mò, sinh ra sự lôi cuốn cái chưa biết và của sự khám phá một lợi ích cho tương lai của mình, và cũng còn là một cơ hội phát triển cá nhân, cho phép người học đạt được mục đích mong muốn, vượt qua khó khăn, tự khẳng định và tự đánh giá mình. Cuối cùng, và cũng là giai đoạn kết thúc trong quan điểm sư phạm hứng thú, người học phải có mối quan hệ giữa chính bản thân và đối tượng học đến mức mà khơi dậy ở người học một sự hứng thú thực sự, ở thời kỳ này, người học trở thành bên nhận của đối tượng học: đó là mối liên hệ có ý nghĩa với đối tượng học. Mối quan hệ tương hợp vì vậy đã đạt tới nấc cuốn hút, chuyển đổi thành động cơ hành động. Hứng thú thực sự khởi động sự năng động, thúc đẩy người học muốn thoả mãn nhu cầu học của mình. Cụ thể hoá vấn đề này đó là: việc kích hoạt nhu cầu thỏa mãn tri thức ở người học, người học sẽ tìm kiếm một mối quan hệ tương hợp giữa người học và đối tượng học. Mối quan hệ này sẽ tạo nên hứng thú ở người học. Để hình thành được mối quan hệ này giữa học sinh và đối tượng học, giáo viên - người dẫn dắt hoạt động dạy phải lựa chọn những “chiến lược” sư phạm thích hợp. Hiển nhiên người dạy sẽ loại bỏ ngay tức khắc bất cứ một phương pháp cưỡng bức nào với bất cứ một biện pháp nào dù chúng là gì. Bên cạnh đó người dạy cũng không thể áp đặt hoặc dành sự hứng thú bằng các phương tiện xa lạ với đối tượng học như là các phần thưởng, sự trừng phạt hoặc các dụng cụ học mới. Trong những trường hợp này, người học có thể dễ dàng chạy trốn, bằng cách hoàn toàn đơn giản là giả vờ hứng thú. Đối với người dạy - người dẫn dắt hoạt động, vấn đề là sắp xếp một tình huống thực sự có ý nghĩa đối với người học. Khi người học bắt gặp một vấn đề mà không có giải pháp, những khó khăn sẽ nảy sinh. Vì vậy, người dạy phải gắng giúp người học, hoá giải vấn đề, biến những nội dung trừu tượng, khó hiểu thành những điều cụ thể và thực tế. Tính hiệu quả của chiến lược này, phần lớn dựa trên việc hình thành vấn đề, hay nói cách khác chính là khâu mở đầu bài giảng. Với mục đích gây nên sự tò mò thậm chí ngạc nhiên cho người học, người dạy cố gắng xác định một vấn đề cụ thể chính xác, đi từ thực tế hoặc gắn với môi trường trước mắt. Vấn đề cũng như giải pháp phải có một mối liên hệ chặt chẽ với đối tượng học. Chẳng hạn như trong vấn đề nghiên cứu động cơ, rất nên gợi lại sự bay của các máy bay phản lực, sự chạy của các ô tô trong các cuộc đua và thậm chí là sự di chuyển riêng của họ để đi đến trường. Và trong tất cả những chuyển
Tài liệu liên quan