Giới thiệu: Dò động –tĩnh mạch trong màng tủy vùng thắt lưng hiếm khi được chẩn đoán và điều trị sớm.
Tác giả giới thiệu ba trường hợp dò động- tĩnh mạch trong màng cứng, vùng thắt lưng. Khởi phát bệnh nhân bị
đau & tê buốt dọc mông và lan dọc xuống chân như chèn ép rễ của một thóat vị đĩa đệm vùng thắt lưng. Chẩn
đóan với Cộng hưởng từ (MRI) & chụp mạch máu tủy (DSA) và được phẫu thuật (có thu hình đĩa DVD từ kính
vi phẫu) bởi chính tác giả.
Kết quả: Anson&Spetzler(1992),Phân loại dị dạng mạch máu tủy sống. Thông nối động-tĩnh mạch màng
cứng. Type 1: Dị dạng động-tĩnh mạch dạng búi nằm trong nhu mô tủy.Type 2: Dị dạng động-tĩnh mạch trong
tủy/ngoài tủy ởngười trẻ (JuvenileAVM). Type 3: Thông nối động-tĩnh mạch nằm dưới màng cứng, cạnh tủy.
Type 4: Sinh lý bệnh: tăng cao lưu lượng máu vào tĩnh mạch, dãn tĩnh mạch, chèn ép, thiếu máu nuôi, xuất
huyết là nguyên nhân chính của bệnh lý tủy và rễ thần kinh tiến triển.
Kết luận: Những bệnh nhân có biểu hiện đau và tê lan dọc xuống chân, cần chẩn đóan phân biệt với dò
động- tĩnh mạch trong màng tủy. Chẩn đoán với MRI &Chụp mạch máu tủy. Điều trị can thiệp nội mạch hoặc
phẫu thuật tùy trường hợp
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 323 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Dò động – tĩnh mạch trong màng tủy có triệu chứng như thoát vị đĩa đệm thắt lưng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 278
DÒ ĐỘNG –TĨNH MẠCH TRONG MÀNG TỦY
CÓ TRIỆU CHỨNG NHƯ THÓAT VỊ ĐĨA ĐỆM THẮT LƯNG
Huỳnh Hồng Châu*
* Trưởng
TÓM TắT
Giới thiệu: Dò động –tĩnh mạch trong màng tủy vùng thắt lưng hiếm khi được chẩn đoán và điều trị sớm.
Tác giả giới thiệu ba trường hợp dò động- tĩnh mạch trong màng cứng, vùng thắt lưng. Khởi phát bệnh nhân bị
đau & tê buốt dọc mông và lan dọc xuống chân như chèn ép rễ của một thóat vị đĩa đệm vùng thắt lưng. Chẩn
đóan với Cộng hưởng từ (MRI) & chụp mạch máu tủy (DSA) và được phẫu thuật (có thu hình đĩa DVD từ kính
vi phẫu) bởi chính tác giả.
Kết quả: Anson&Spetzler(1992),Phân loại dị dạng mạch máu tủy sống. Thông nối động-tĩnh mạch màng
cứng. Type 1: Dị dạng động-tĩnh mạch dạng búi nằm trong nhu mô tủy.Type 2: Dị dạng động-tĩnh mạch trong
tủy/ngoài tủy ởngười trẻ (JuvenileAVM). Type 3: Thông nối động-tĩnh mạch nằm dưới màng cứng, cạnh tủy.
Type 4: Sinh lý bệnh: tăng cao lưu lượng máu vào tĩnh mạch, dãn tĩnh mạch, chèn ép, thiếu máu nuôi, xuất
huyết là nguyên nhân chính của bệnh lý tủy và rễ thần kinh tiến triển.
Kết luận: Những bệnh nhân có biểu hiện đau và tê lan dọc xuống chân, cần chẩn đóan phân biệt với dò
động- tĩnh mạch trong màng tủy. Chẩn đoán với MRI &Chụp mạch máu tủy. Điều trị can thiệp nội mạch hoặc
phẫu thuật tùy trường hợp
Từ khóa: Dò động tĩnh mạch trong màng tủy, thóat vị đĩa đệm thắt lưng.
ABSTRACT
THE INTRADURAL ARTERIOVENOUS FISTULA SIMILAR TO THE LUMBAR DISC HERNIATION
FOR SYMPTOMS
Huynh Hong Chau * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 278 - 283
Introduction: The intradural arteriovenous fistula is not often in early diagnosis. The author introduces
three cases of lumbar intradural arteriovenous fistula which has the onset with symptoms of pain and numbness
over the length of the legs similar symptoms of lumbar disc herniation. These cases are recognized by MRI &
DSA and be operated (with intraoperative videomicrography) by author.
Results: There are 4 type of arteriovenous malformation (AVM) (Anson-Spetzler (1992) (1, 7, 9): The dural
arteriovenuos fistula (Type I), The Intramedulary AVM (Type II), The juvenille AVM (Type III), The Intradural
arteriovenous fistula (Type IV). The type of three cases in this report is type IV.
Pathophysiology: nerves and spinal cord are progressively damaged by high flow of veins, compression,
steal syndrome or hemorrhage. MRI (sensitivity 85-90%, specificity 90%) and DSA are specific imaging for
diagnosis. Indication for treament: surgery / endovacular therapy depend on type.
Conclusion: Patients has pain and numbness over the length of the legs, beside the often diagnosis as
lumbar disc herniation, different diagnosis as the intradural arteiovenous fistula has to be made. MRI and DSA
are very important for diagnosis. Irreversive damage of spinal cord or nerves can be progressive. Early diagnosis
is important for pronostic.
∗ Phân Khoa Ngoại Thần Kinh BV. ĐHYD, TP.HCM
Tác giả liên lạc: ThS. BS. Huỳnh Hồng Châu ĐT: 0913908808 Email: chauhhg@yahoo.fr
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 279
Keywords: Intradural arteriovenous fistula, lumbar disc herniation.
GIỚI THIỆU TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG
Trường hợp 1
Bệnh sử: Người bệnh nam, 45 t, bệnh hơn 1
năm. Khởi phát bệnh với đau thắt lưng, tê buốt
hai mông lan xuống mặt sau hai chân, kèm tê
bàn chân. Khi đi bệnh nhân cảm thấy bàn chân
lâng lâng như không chạm đất. Diễn tiến từng
đợt, khối cơ bắp đùi trái nhỏ dần.
Người bệnh đi khám nhiều bệnh viện, một
nơi cho là hẹp ống sống và đã mổ cắt hết các bản
sống L2,L3, L4, L5, để giải ép rễ & bắt nẹp vis từ
L2 đến S1 để cố định. Nhưng sau đó tình trạng
bệnh vẫn tiến triễn, người bệnh ngoài đau và tê
buốt dọc chân, hai chân đi chỉ vài bước là phải
ngồi vì đứng không vững.
Khám lâm sàng: Sức cơ chi dưới 4/5, phản xạ
gân xương gót mất hai bên, phản xạ gối giảm. Tê
buốt mông lan dọc xuống chân, mặt sau ngoài.
Cận Lâm Sàng: MRI phát hiện hình ảnh bất
thường mạch máu trong ống sống (Hình 1).
Sau đó bệnh nhân được chụp mạch máu tủy
kỹ thuật số xóa nền (DSA), (Hình 2) và được
chẩn đoán là thông nối động mạch-tĩnh mạch
trong màng cứng ngang mức L4-L5. Phân lọai
type IV, nhóm 1.
Hình 1: MRI, T2, hình mạch máu dãn
lớn bất thường trong ống sống vùng thắt
lưng(mũi tên trắng).
Hình 2: Hình chụp mạch máu tủy
DSA cho thấy vị trí dò khoảng L4-L5
(mũi tên trắng).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 280
Xử trí: do động mạch thông nối xuất phát
từ động mạch gai sống với khẫu kính nhỏ, lộ
trình uốn lượn khó luồn microcatheter, hội
chẩn ngoại thần kinh và điều trị vi phẫu thuật
cột thắt tĩnh mạch nơi thông nối (Hình 3).
Hình 3: Hình chụp lúc phẫu thuật: bó mạch máu
thông động-tĩnh mạch (mũi tên trắng) đẩy chóp tủy
và chùm rễ thần kinh đuôi ngựa sang bên.
Trường hợp 2
Bệnh sử
Bệnh nhân nam, 51 t, bệnh sử hơn hai năm
với khởi phát hai tháng đầu bn tê từ mông lan
dọc hai chân, lan tới ngón 5, mặt sau chân, vẫn
đi lại được, dần dần tê lan đến quanh hậu môn
thì xuất hiện tiểu không kiểm soát. Được chẩn
đoán là dị dạng mạch máu tủy (BV BM), có
can thiệp mạch nhưng thất bại, có xạ trị
Gamma knife, nhưng không bớt. Bệnh nhân
được cho về nhà trong tình trạng tê hai chân &
hậu môn sinh dục, rối loạn cơ vòng, yếu hai
chân; bn trị thuốc đông y 20 tháng tại nhà, hai
chân từ yếu diễn tiến liệt dần dần: nhập BV
ĐHYD TP.HCM
Lâm sàng
Với sức cơ hai chân chỉ còn 2/5, teo cơ cẳng
chân, mất phản xạ gân xương gót hai bên, giảm
cảm giác từ bẹn xuống hai chân, mất cảm giác
vùng hội âm, rối loạn cơ vòng.
Cận lâm sàng
MRI hình ảnh phù tũy từ D7 đến chóp tũy,
mất tín hiệu dòng chảy (flow void) dọc chiều
dài ống sống đoạn ngực- thắt lưng. Chụp
mạch máu tủy, thấy hình ảnh thông động-tĩnh
mạch trong màng tủy ngang mức D11-D12,
được nuôi từ động mạch gai trước. Phân lọai
Type IV, nhóm 1.
Điều trị
Dưới kính vi phẫu, tìm thấy một tĩnh mạch
dãn lớn thông nối với một động mạch từ động
mạch gai sống trước; cột thắt tĩnh mạch ngay
sau nơi thông nối. Diễn tiến sau mổ có hồi
phục vận động, sức cơ hồi phục 3/5, hiện bệnh
nhân tự chống nạng đi lại được nhưng chưa
hồi phục cơ vòng.
Trường hợp 3
Bn nam, 71t, bệnh sử khởi phát với tê hai
chân nhiều năm, một buổi sáng, BN tập thể dục
nhiều hơn ngày thường, lúc cố gắng hít đất, đột
nhiên cảm thấy rất đau ở ngực và lưng. Chỉ hơn
một giờ sau xuất hiện bí tiểu, liệt chi dưới và tay
bên phải.
Lâm sàng
Liệt chi dưới, liệt tay bên phải, sức cơ 0/5, rối
loạn cơ vòng, giảm cảm giác từ vú xuống.
Cận lâm sàng
MRI hình ảnh chảy máu trong ống nội tũy &
flow void trong ống sống suốt đoạn ngực. DSA
hình ảnh thông động- tĩnh mạch trong màng
cứng với 3 nhánh động mạch từ dộng mạch gai
sống sau & động mạch gai sống trước đổ về nơi
thông nối ngang mức L1-2, lưu lượng cao, tĩnh
mạch sau nơi thông nối dãn rất to. Phân lọai
Type IV, nhóm 3.
Điều trị
Vi phẫu thuật (sau khoảng thời gian liệt # 1
tháng), tìm thấy một nơi thông nối dạng túi có 3
nhánh động mạch đổ về, ngang mức L1-2, tĩnh
mạch ngay sau nơi thông nối dãn rất lớn. Có
một túi phình mạch nơi một động mạch đổ vào
túi thông nối, túi phình này cũng được kẹp clip.
Kẹp clip thấy tĩnh mạch sau nơi thông nối xẹp
lập tức. Chẩn đoán phẫu thuật “dò động tĩnh
mạch type 4, phân nhóm 3, có một túi phình
động mạch đi kèm”. Không hồi phục vận động
lẫn cơ vòng sau mổ !
BÀN LUẬN
Trong khoãng 1860-1912, các dị dạng mạch
máu tủy chỉ phát hiện qua tử thiết. 1912-1960 chỉ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 281
phát hiện vài ca lẻ được phẫu thuật, nhưng
không kết quả.
Từ thập niên 1960, y văn đã có báo cáo điều
trị dị dạng động –tĩnh mạch bằng can thiệp
mạch và phẫu thuật. Leonard Malis (NY, USA)
được ghi nhận là người đầu tiên phẫu thuật loại
bệnh này. Gazi Yasargil (Zurich, Thụy Sĩ) là
người có công áp dụng vi phẫu thuật điều trị dị
dạng mạch máu tủy.
Phân Loại: Anson&Spertzler, dị dạng mạch
máu tủy được phân thành 4 type:
Type I: thông nối động-tĩnh mạch màng
cứng
Type II: dị dạng động-tĩnh mạch thật sự với
động mạch nuôi, búi dị dạng (Nidus) trong nhu
mô tủy và tĩnh mạch dẫn lưu. Vị trí thường gặp
ở nửa trước của tủy, nhận máu tư động mạch
gai trước.
Type III: chỉ chiếm 6% tổng số các dị dạng
mạch máu tủy, búi dị dạng trong mô tủy như
type II nhưng có mô tủy xen vào giữa, còn có
thêm dị dạng ngoài mô tủy(hội chứng Cobb:
dị dạng ở tủy + đốt sống + cơ, da cùng đốt
phôi). Cấp máu từ động mạch gai trước, gai
sau. Động mạch nuôi dãn do lưu lượng cao.
Còn gọi là Juvenile AVMs (dị dạng động tĩnh
mạch người trẻ).
Type IV: các thông nối động-tĩnh mạch nằm
dưới màng cứng, cạnh tủy. Động mạch nuôi từ
gai trước hay gai sau. Tĩnh mạch sau nơi thông
nối là tĩnh mạch gai hay lưới tĩnh mạch màng
mềm. Tùy động mạch nuôi, lỗ thông lớn hay
nhỏ mà lưu lượng máu qua cao hay thấp. Ở
Type IV, Merland chia ra 3 nhóm:
- nhóm 1 (chỉ một nơi thông nối nhỏ),
- nhóm 2 (nhiều động mạch nuôi,vị trí
những lỗ thông nối khác nhau),
- nhóm 3 (lỗ thông lớn, lưu lượng cao, mạch
máu dãn rất to, động mạch hóa tĩnh mạch sau
nơi thông nối)
2002, Spetzler, dựa trên 4 type này phân loại
cải tiến: 1) thương tổn dạng u, 2) túi phình mạch
máu tủy, 3) bất thường mạch máu tủy. Dị dạng
động tĩnh mạch chóp tủy được tách thành một
nhóm riêng.
Ba trường hợp trình bày đều là type 4. Theo
y văn, đặc điểm type này chiếm10-20% tổng số
dị dạng mạch máu tủy, nam # nữ, độ tuổi 30-40,
vị trí hay gặp ở vùng cột sống ngực thấp-cột
sống bụng.
Do đã sàng lọc, tần suất giới và tuổi cả ba
không nằm trong nhóm ngẫu nhiên nữa.
Sinh lý bệnh
Type 1: thông nối trực tiếp động mạch nằm
trong lá màng cứng đến tĩnh mạch trong màng
cứng bao quanh rễ. Do hệ tĩnh mạch trong ống
sống không có vale, áp lực máu động mạch qua
chỗ dò truyền trực tiếp lên hệ tĩnh mạch màng
mềm gây tăng áp lực tĩnh mạch, gây dãn, xoắn
các tĩnh mạch bề mặt tủy (Hassler đo thấy áp lực
này # 74 % áp lực động mạch trung bình, suy ra
áp lực tưới máu tủy chỉ còn # 30% áp lực tưới
máu bình thường cho nên tủy thiếu máu nuôi,
biểu hiện bệnh lý tủy với yếu chi, giảm cảm giác,
rối loạn cơ vòng).
Đặc điểm của type I: theo Gilbertson JR và
cộng sự, hồi cứu 66 ca dò động-tĩnh mạch màng
cứng, thấy nam > nữ (3,4: 1), tuổi trung bình là
62 (từ 37-81), vị trí nơi dò: 61%. T6-T12, 9% ở
xương cùng, 8% ở trong sọ. Lâm sàng 100% diễn
tiến nặng dần. Bệnh lý tủy 84%, yếu chi 55%.
Tăng triệu chứng khi gắng sức hay thay đổi tư
thế. MRI có tăng tín hiệu tủy ở T2 là 100%, bắt
tương phản từ 88%, tác dụng đẩy khối 45% và
flow void (T1, 35%, T2, 45%). Đặc biệt ở nhóm
bệnh nhân chụp mạch máu tủy không tìm ra
bệnh thì 92% thấy được mạch máu bất thường ở
tủy sống đồ (myelography).
Các đợt cấp tính do ứ máu tĩnh mạch nặng
cần lập tức điều trị nếu không dẫn tới huyết
khối tĩnh mạch, gây thương tổn không hồi phục.
Gây tắt lỗ dò động mạch-tĩnh mạch màng
cứng cho kết quả khả quan. Nhưng theo
Kendal&Logue, 1977, phẫu thuật loại bỏ nơi
thông nối là cách điều trị an toàn, hiệu quả.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 282
Do type này phải điều trị, không có nghiên
cứu tiền cứu về diễn biến tự nhiên của bệnh này.
Type 2 & 3
Chảy máu nội tủy do vở một phình mạch
trong dị dạng hay động mạch nuôi đi kèm. Hơn
phân nưã có khởi phát cấp tính hay bán cấp do
chảy máu vào mô tủy hay dưới nhện.
Tăng cao lưu lượng máu là nguyên nhân
chính.
Các diễn tiến nặng dần do hội chứng cướp
máu, ứ máu do tăng áp tĩnh mạch, ép tủy do
mạch máu dãn to.
(Theo nghiên cứu của Riche, 38 ca ở trẻ em
<15 tuổi, 84% khởi phát cấp tính, ½ trường hợp
có liệt chi.
Khoãng 71% chảy máu tái phát, 55% xuất
huyết dưới nhện, chỉ 17% cải thiện lâm sàng:
như vậy nên mổ sớm ở trẻ em).
Chảy máu tái phát sau 1 tháng là 10%, sau 1
năm là 40%, chết 17,6%.
Type IV: được chia thành 3 nhóm
Ở nhóm 1, chỗ dò nhỏ, lưu lượng máu thấp,
triệu chứng là do tắng áp lực tĩnh mạch(như
type I).
Ở nhóm 3, chỗ dò lớn, lưu lượng máu cao,
triệu chứng là do chảy máu, do tĩnh mạch dãn,
do hội chứng cướp máu gây thiếu máu nuôi.
Ở nhóm 2, triệu chứng trung gian giữa
nhóm 1&3.
Về lâm sàng, 80% diễn tiến dần dần, đau và
tê dọc chân, hơn phân nữa có giảm cương
dương vật, hầu hết có rối loạn cơ vòng, liệt chân
5-7 năm sau; 20 % có biến chứng chảy máu dưới
nhện (đau dữ dội vùng lưng lan lên trên gáy và
xuống dưới hai chân; nếu ở cổ cao, lan vào hộp
sọ gây đau đầu, cứng gáy, nôn, giảm tri giác làm
chẩn đoán lầm với xuất huyết dưới nhện do vở
túi phình động mạch não).
Theo Dam–Hieu P(3), có thể có Type I cùng
hiện diện với type IV trên cùng một bệnh nhân:
nếu bn diễn tiến không tốt hơn hoặc xấu hơn
sau điều trị một type dị dạng, cần tầm soát một
type dị dạng khác.
Chẩn đoán
Huffmann BC, Gilsbach JM, Thron A(6), báo
cáo 21 ca type I, có nhận xét type I là type
thường gặp ở đàn ông tuổi trung niên, có triệu
chứng và dấu hiệu của bệnh lý tủy tiến triển,
chẩn đoán với MRI & DSA, điều trị vi phẫu
thuật cho kết quả hồi phục nhưng không hoàn
toàn 20 ca. Thắt tĩnh mạch sau nơi thông nối
được kiểm tra lúc mổ với siêu âm Doppler.
Hồi phục sau mổ không hoàn tòan là do chẩn
đoán muộn, thương tổn đã lâu: vậy vấn đề là
chẩn đoán sớm chứ không phải chỉ điều trị vi
phẫu thuật.
Lee TT(8), gợi ý MRA(cộng hưởng từ mạch
máu) là cách ít xâm lấn để tầm soát chẩn đóan
và kiễm tra sau phẫu thuật Type I.
Bowen BC(1), cho rằng kỹ thuật chụp mạch
máu cộng hưởng từ ba chiều sau tiêm chất
tương phản (postgadolinium three- dimenson
time- of- flight MR Angiography) cho hình ảnh
tĩnh mạch trong màng cứng và dò động –tĩnh
mạch màng cứng tốt hơn là MRI thông thường.
Kỹ thuật này dùng tầm soát chẩn đoán và phản
ảnh mức thành công sau phẫu thuật hoặc sau
can thiệp mạch. Chụp mạch máu tủy kỹ thuật số
xóa nền giúp chẩn đoán xác định nơi thông nối.
Điều trị
Mục tiêu điều trị là loại lỗ dò thông nối, duy
trì máu nuôi tủy.
Về chỉ định điều trị thông nối động-tĩnh mạch
type IV, thì nhóm 1& 2 của type này nên phẫu
thuật, nhóm 3 nên can thiệp mạch.
Rodesch (2005) và cộng sự báo cáo 32 ca
thông động-tĩnh mạch tủy Type IV, có 25 ca
thuộc phân nhóm 1, 10 ca can thiệp nội mạch, 15
ca được điều trị vi phẫu thuật.
Hồi phục tùy cách khởi phát, không tùy tuổi.
Nhóm liệt, hồi phục 60 %, nhóm rối loạn cơ
vòng chỉ hồi phục 30%.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 283
Trường hợp 1, sau phẫu thuật, hồi phục
vận động, bn đi lại dược, giảm tê và đau dọc
theo chân. Trường hợp 2, sức cơ hồi phục từ
1/5 lên 3/5, bệnh nhân tự chống nạn và tự đi lại
được sau 4 tháng phẫu thuật, không còn đau
và tê dọc chân, nhưng cơ vòng chưa hồi phục,
chẩn đóan & điều trị muộn. Theo Mark S.
Greenberg(5), các rối loạn cơ vòng do nguyên
nhân chèn ép chùm rễ thần kinh đuôi ngựa,
nếu được phẫu thuật giải ép trong 24 giờ, cơ
may hồi phục cơ vòng là 52%.
Trường hợp 3, khởi phát liệt cấp tính, đau
lưng và liệt chỉ hơn một giờ, nhưng chẩn đóan
muộn, điều trị quá muộn, không hồi phục.
Trước đó bệnh nhân có tê dọc chân trong
khoãng thời gian dài, nhưng không được lưu ý
tìm nguyên nhân.
2006, John Sinclair, báo cáo lần đầu tiên xạ
phẫu dị dạng mạch máu tủy vơi Cyber Knife
cho 15 ca, kết quả 1 khỏi bệnh, 6 giảm kích thước
theo dỏi trên MRI sau 3 năm.
KẾT LUẬN
Khởi phát của bệnh dò động mạch-tĩnh
mạch trong màng tủy, với tê và đau lan dọc
chân, cần được chẩn đoán phân biệt với các
nguyên nhân thường gặp như thoát vị đĩa đệm,
u, nhiễm trùng.
Cộng hưởng từ (MRI) và cộng hưởng từ
mạch máu (MRA) 100% có tăng tín hiệu tủy, có
hình ảnh dãn mạch máu bất thường với tín
hiệu trống của dòng chảy (flow void) có giá trị
tầm soát để chẩn đoán xác định với chụp mạch
máu tủy (DSA).
Cộng Hưởng Từ còn là phương tiện ít xâm
lấn dùng để kiểm tra, theo dõi kết quả sau phẫu
thuật/sau can thiệp mạch.
Đối với dò động-tĩnh mạch màng cứng
(Type I) hoặc dò động -tĩnh mạch trong màng
tủy (Type IV): điều trị vi phẫu thuật nhất thiết
được chỉ định sớm.
Chẩn đoán sớm là vấn đề hiện nay chứ
không đơn thuần cách điều trị.
Gợi ý: cần tiếp tục nghiên cứu sâu, cỡ mẫu
lớn và cần có sự kết hợp nhiều chuyên khoa để
chẩn đoán sớm dò động-tĩnh mạch trong ống
sống. Phát triển can thiệp mạch máu thần kinh
cần thiết cho chẫn đóan, điều trị sớm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bowen BC, Fraser K, Kochan JB, Pattany PM, Green BA,
Quencer RM, (1995) Spinaldural arteriovenuos fistulas:
evaluation with MR Angiography, AJNR Am, J Neuroradiol.
1995 Nov-Dec: 2029-43
2. Bradley (2003) Pocket Radiologist Vascular Top 100
Diagnoses, 1rst Ed.Amirsys Inc, 171-179.
3. Dam –Hieu P, Mineo JF, Bostan A, Nonen M, Besson G (2001)
Concurrent spinal dural and intradural arteriovenous fistulas.
Case report, J Neurosurg. 2001 Jul; 95(1 Suppl): 96-9
4. Gilbertson JR, Miler GM, Goldman MS, Marsh WR, (1995)
Spinal dural arteriovenuos fistulas: MR and myelographic
findings, AJNR Am, J Neuroradiol. 1995 Nov-Dec; 16(10):
2049-57
5. Greenberg MS (2010) Handbook of Neursurgery, 7th Ed.
Thiem Publishers, 507-509
6. Harrop JS (2006) Vascular Malformations of spinal cord,
7. Huffmann BC, Gilsbach JM, Thron A (1995) Spinal dural
arteriovenuos fistulas: a Plea for neurosurgical treatment.
Acta Neurochir (Wien). 1995;135(1-2):44-5
8. Lee TT, Gromelski EB, Bowen BC, Green BA, (1998) Diagnotic
and surgical management of spinal dural arteriovenuos
fistulas, Neurosurgery. 1998 Aug; 43(2):242-6; discussion 246-
7
9. Marichal DA, Hise J, Barnett D (2006) Unusual presentation of
myelopathy in a previously heathy man, Proc(Bayl Univ Med
Cent)2006;19:274-
10. Trần Quốc Tuấn (2010) Dị dạng mạch máu tũy, Luận văn Tốt
nghiệp Nội Trú Ngọai Thần Kinh, Đại Học Y Dược, TP.HCM.