Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã đặt ra mục tiêu: phát triển
kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề.
Nó có sức lan tỏa mạnh mẽ và làm thay đổi phương thức kinh doanh của các doanh nghiệp hiện nay.
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 vừa tạo ra những cơ hội, vừa tạo ra những thách thức đối với kinh tế
tư nhân nói chung và doanh nghiệp tư nhân nói riêng. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các doanh nghiệp
tư nhân đang đóng góp một phần không nhỏ vào sự đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, kinh tế tư nhân đang hạn chế về trình độ công nghệ, khả năng tài chính, năng lực quản lý
và trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động. Để làm được điều đó đòi hỏi Nhà nước, doanh nghiệp
cần có chính sách hợp lý trong từng giai đoạn.
6 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 506 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Doanh nghiệp tư nhân trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 - Cơ hội, thách thức và một số đề xuất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
76
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(59).2017
DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN TRƯỚC CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG
NGHIỆP 4.0 - CƠ HỘI, THÁCH THỨC VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT
PRIVATE ENTERPRISES IN THE ERA OF THE INDUSTRIAL
REVOLUTION 4.0 - OPPORTUNITIES,
CHALLENGES AND PROPOSAL
Vũ Thị Hường, Ngô Thị Luyện, Nguyễn Thị Ngọc Mai
Email: huongvudhsd20102014@gmail.com
Trường Đại học Sao Đỏ
Ngày nhận bài: 6/10/2017
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 11/12/2017
Ngày chấp nhận đăng: 28/12/2017
Tóm tắt
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã đặt ra mục tiêu: phát triển
kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề.
Nó có sức lan tỏa mạnh mẽ và làm thay đổi phương thức kinh doanh của các doanh nghiệp hiện nay.
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 vừa tạo ra những cơ hội, vừa tạo ra những thách thức đối với kinh tế
tư nhân nói chung và doanh nghiệp tư nhân nói riêng. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các doanh nghiệp
tư nhân đang đóng góp một phần không nhỏ vào sự đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, kinh tế tư nhân đang hạn chế về trình độ công nghệ, khả năng tài chính, năng lực quản lý
và trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động. Để làm được điều đó đòi hỏi Nhà nước, doanh nghiệp
cần có chính sách hợp lý trong từng giai đoạn.
Từ khóa: Doanh nghiệp tư nhân (DNTN); kinh tế tư nhân (KTTN); cách mạng công nghiệp 4.0.
Abstract
The 5th Central Committee of the Communist Party of Vietnam Resolution unanimously adopted by the
national assembly set the target of developing individual economy into a key motive for the socialism-
oriented market economy. The technology 4.0 has created profound and widespread impacts on every
profession. At the same time, it is also transforming the ways that enterpises do their business. The
Industrial Revolution 4.0 brings back not only new chances but also difficulties for the private sector in
general and private companies in specific. Private sector playing a vital role in promoting the economic
growth has been put under huge pressure by the new technology. Nevertheless, this hardship should be
considered as an precious opportunity for companies to enhance their competitiveness and status quo.
The results show that private enterprises are contributing a great deal to the country’s socio-economic
development and innovation. However, the private sector is limited in technology, management capacity
and technical expertise of labor. To achieve this target, both the government and enterprises must come
up with proper policies for every stage.
Keywords: Private enterprise; private sector; Industrial Revolution 4.0.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 còn gọi là cách
mạng công nghiệp lần thứ tư là trào lưu mới đang
xuất hiện trên thế giới, đặc biệt trong Cuộc Cách
mạng 4.0 này áp dụng các ứng dụng tự động
hóa, công nghệ thông tin với ba trụ cột Internet
cho vạn vật, big data và trí tuệ nhân tạo. Cuộc
Cách mạng này đang mở ra những cơ hội lớn cho
nhiều lĩnh vực cũng như các thành phần kinh tế.
Song, những thách thức mang tới cũng không hề
nhỏ, đặc biệt là đối với các doanh nghệp tư nhân
(DNTN) - chiếm đến 94,8% tổng số doanh nghiệp
cả nước. Vậy giải pháp nào trong thời gian tới
giúp DNTN lớn mạnh phát triển? Bài báo này sẽ
giải đáp phần nào câu hỏi trên.
NGÀNH KINH TẾ
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(59).2017 77
2. GIỚI THIỆU VỀ CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG
NGHIỆP 4.0
Theo GS. Klaus Schwab, Chủ tịch Diễn đàn Kinh
tế thế giới, Industry 4.0 hay Cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư là một thuật ngữ bao gồm một
loạt các công nghệ tự động hóa hiện đại, trao đổi
dữ liệu và chế tạo. Cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư được định nghĩa là “một cụm thuật ngữ
cho các công nghệ và khái niệm của tổ chức trong
chuỗi giá trị” đi cùng với các hệ thống vật lý trong
không gian ảo, Internet kết nối vạn vật (IoT) và
Internet của các dịch vụ (IoS).
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 dựa trên ba lĩnh
vực chính: kỹ thuật số (bao gồm dữ liệu lớn - Big
Data, vạn vật kết nối Internet - IoT, trí tuệ nhân tạo
- AI); công nghệ sinh học (ứng dụng trong nông
nghiệp, thủy sản, y dược, chế biến thực phẩm,
bảo vệ môi trường, năng lượng tái tạo, hóa học và
vật liệu); lĩnh vực vật lý (robot thế hệ mới, in 3D,
xe tự lái, các vật liệu mới).
Bản chất của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
là dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp tất
cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy
trình, phương thức sản xuất; nhấn mạnh những
công nghệ đang và sẽ tác động lớn nhất là công
nghệ in 3D, công nghệ sinh học, công nghệ vật
liệu mới, công nghệ tự động hóa, người máy,
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được
đánh giá sẽ là nền tảng để kinh tế chuyển đổi
mạnh mẽ từ mô hình dựa vào tài nguyên, lao động
chi phí thấp sang kinh tế tri thức. Các ngành công
nghiệp sáng tạo tăng trưởng mạnh và chiếm tỷ
trọng ngày càng cao trong cơ cấu kinh tế so với
các ngành sản xuất và dịch vụ truyền thống.
3. THỰC TRẠNG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA DOANH
NGHIỆP TƯ NHÂN
Có thể thấy, khu vực kinh tế tư nhân (KTTN) đang
đóng vai trò ngày càng quan trọng hơn trong nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, góp phần
giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội của đất
nước. Theo báo cáo tổng kết 15 năm (2002-2017)
thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa IX “Về tiếp tục đổi
mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều
kiện phát triển KTTN” cho biết, tỷ trọng trong GDP
của khu vực KTTN, bao gồm cả kinh tế cá thể luôn
duy trì ổn định trong khoảng 39-40%. Bước đầu
đã hình thành được một số tập đoàn KTTN có quy
mô lớn, hoạt động đa ngành, có khả năng cạnh
tranh tốt hơn trên thị trường trong nước và quốc
tế, đội ngũ doanh nhân ngày càng lớn mạnh. Tuy
nhiên, KTTN chủ yếu vẫn là kinh tế hộ gia đình
và cá thể. Số lượng doanh nghiệp của khu vực
này gia tăng hàng năm nhưng đa số là các doanh
nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Mặc dù KTTN hoạt động
đa dạng ở hầu hết các ngành nghề nhưng cơ cấu
ngành nghề còn chưa hợp lý.
Theo nhiều điều tra, đánh giá, kinh tế tư nhân
vẫn chưa đáp ứng được vai trò là một động lực
quan trọng của nền kinh tế và trong đó chủ yếu
vẫn là kinh tế hộ gia đình, cá thể (chiếm khoảng
95% tổng số các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc
thành phần KTTN) và doanh nghiệp có quy mô
nhỏ và siêu nhỏ (trên 90% có mức vốn dưới 1 tỷ
đồng). Mức độ đóng góp vào tổng sản phẩm trong
nước của KTTN luôn chiếm tỷ trọng lớn và tăng
liên tục trong những năm qua. Theo Cục Quản
lý đăng ký kinh doanh (Bộ Kế hoạch và Đầu tư),
tính đến nay, cả nước khoảng trên 500.000 doanh
nghiệp đang hoạt động và mỗi năm có thêm hàng
vạn doanh nghiệp được thành lập mới; thu hút
khoảng 51% lực lượng lao động cả nước và tạo
khoảng 1,2 triệu việc làm cho người lao động mỗi
năm, góp phần quan trọng vào quá trình tái cấu
trúc nền kinh tế, tổng thu nhập cho người dân...
Cũng theo Cục Quản lý đăng ký kinh doanh,
năm 2016, số doanh nghiệp đăng ký thành
lập mới đạt mức kỷ lục với 110,1 nghìn doanh
nghiệp. Tiếp tục xu thế phục hồi này của doanh
nghiệp, trong 7 tháng đầu năm 2017, có 73.000
doanh nghiệp thành lập mới, tăng 13,8% về số
lượng doanh nghiệp và tăng 39% về số vốn; có
17.000 doanh nghiệp hoạt động trở lại, tăng 5%
so với cùng kỳ của năm 2016.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được đó,
quy mô của DNTN vẫn nhỏ và chưa thực sự cải
thiện qua nhiều năm. Theo Cục Quản lý đăng
ký kinh doanh, hoạt động sản xuất, kinh doanh
của khối doanh nghiệp này còn nhiều khó khăn.
Trong 7 tháng đầu năm 2017, đã có 16.000 doanh
nghiệp tạm ngừng hoạt động kinh doanh, tăng
16,2% và trên 27.000 doanh nghiệp ngừng hoạt
động hoặc chờ giải thể, tăng 24,5%.
Phần lớn sản xuất công nghiệp của khối DNTN
là gia công lắp ráp, chủ yếu sử dụng máy móc,
78
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(59).2017
thiết bị và nguyên liệu nhập khẩu. Các công đoạn
sản xuất đưa lại giá trị gia tăng cao, như: thiết
kế, tạo kiểu dáng, marketing,... đều được thực
hiện bởi đối tác nước ngoài. Sự phân tầng trình
độ công nghệ đang diễn ra trong từng ngành và
trong nhiều doanh nghiệp, công nghệ lạc hậu,
trung bình và tiên tiến cùng đan xen tồn tại; công
nghệ tiên tiến, hiện đại chỉ tập trung vào một số
ít DNTN, ở một số lĩnh vực. Chênh lệch về trình
độ công nghệ bộc lộ rõ: Các DNTN thấp hơn khu
vực doanh nghiệp nhà nước và thua xa doanh
nghiệp FDI. Hiện nay đa số doanh nghiệp vừa và
nhỏ Việt Nam chưa tham gia vào chuỗi giá trị sản
xuất toàn cầu, trình độ khoa học, công nghệ và
năng lực đổi mới trong doanh nghiệp còn thấp.
Số lượng các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực khoa học, công nghệ còn rất ít. Số lượng nhà
khoa học, chuyên gia làm việc trong các doanh
nghiệp chỉ chiếm 0,025% trong tổng số lao động
làm việc trong khu vực doanh nghiệp. Khoảng
80 ÷ 90% máy móc và công nghệ sử dụng trong
các doanh nghiệp của Việt Nam là nhập khẩu
và 76% từ thập niên 1980-1990, 75% máy móc,
trang thiết bị đã hết khấu hao. Do trình độ công
nghệ thấp, các DNTN không có khả năng kết nối
cũng như tham gia ngành công nghiệp hỗ trợ cho
các doanh nghiệp lớn, nhất là không thể tận dụng
được hiệu ứng lan tỏa từ các doanh nghiệp FDI
đang tăng trưởng nhanh.
Theo Báo cáo Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp
tỉnh (PCI) 2015 của Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam, các DNTN phần lớn vẫn hoạt
động ở thị trường trong nước, chỉ rất ít DNTN lớn
vươn được ra thị trường nước ngoài ở một mức
độ khiêm tốn. Cụ thể: Chỉ có 3% số doanh nghiệp
siêu nhỏ, 4% số doanh nghiệp nhỏ và gần 9% số
doanh nghiệp quy mô vừa có khách hàng là các
cá nhân, doanh nghiệp từ nước ngoài.
Ngay cả ở thị trường trong nước, dưới sức ép
cạnh tranh gay gắt, các DNTN lớn cũng bắt đầu
có xu hướng rút khỏi các ngành sản xuất công
nghiệp, nhường lại sân chơi cho các doanh nghiệp
nước ngoài. Sự rút lui này cũng diễn ra trong một
số lĩnh vực dịch vụ như phân phối và bán lẻ được
ưu tiên và có nhiều tiềm năng của nền kinh tế.
Số lượng DNTN hoạt động trong lĩnh vực nông
nghiệp còn rất ít. Trong khi đó, nhiều chính sách
“cởi trói” giúp nông nghiệp, nông thôn phát triển
trong thời kỳ sau đổi mới đã tới giới hạn. Mô hình
kinh tế hộ truyền thống tồn tại lâu nay ở nông thôn
không còn phù hợp với điều kiện mới; yêu cầu
tích tụ, tập trung ruộng đất đang được đặt ra cho
việc triển khai những mô hình hiện đại như kinh
tế trang trại quy mô lớn. Việc giải quyết lao động
trong ngành nông nghiệp chưa đạt hiệu quả mong
muốn có nguyên nhân chủ yếu là sự phát triển của
lực lượng doanh nghiệp ở nông thôn không đủ
mạnh nên chưa thúc đẩy chuyển dịch nhanh lao
động nông nghiệp sang lao động phi nông nghiệp.
Bên cạnh đó, sự phát triển kinh tế tư nhân đang
rơi vào tình trạng mất cân đối, chỉ có 1% DNTN
hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, tỷ lệ đầu tư
công nghiệp hóa nông nghiệp còn rất thấp.
Nhìn chung, DNTN có trình độ công nghệ thấp và
chậm đổi mới; quy mô vốn nhỏ, năng lực tài chính
yếu kém; trình độ quản trị, tính liên kết còn yếu;
khả năng tham gia chuỗi giá trị trong nước và quốc
tế còn thấp nên năng lực cạnh tranh thường thấp
hơn các doanh nghiệp nhà nước và các doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Nhiều DNTN còn kinh doanh theo hình thức ngắn
hạn, chưa có tầm nhìn, chiến lược kinh doanh dài
hạn; ý thức tự giác chấp hành pháp luật của Nhà
nước còn hạn chế. Đội ngũ doanh nhân của khu
vực tư nhân chưa thực sự lớn mạnh, còn thiếu
kinh nghiệm trên thương trường quốc tế, chưa
thực sự tìm hiểu các chính sách pháp luật và
thông lệ quốc tế và chưa được đào tạo sâu về
quản lý sản xuất, kinh doanh. Một bộ phận doanh
nhân còn hạn chế về kiến thức, sự am hiểu pháp
luật và năng lực kinh doanh, kinh nghiệm quản lý
và còn thiếu trách nhiệm với xã hội. Bên cạnh đó,
trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động còn
thấp, năng suất lao động thấp, tay nghề và các
kỹ năng mềm khác còn yếu...
4. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP TƯ NHÂN TRƯỚC CUỘC CÁCH
MẠNG 4.0
Theo Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc
gia Việt Nam (2017), Cách mạng công nghiệp
4.0 được đánh giá sẽ vượt ra khỏi quy mô công
xưởng, doanh nghiệp khi vạn vật được kết nối
bởi Internet.
Cụ thể, không những tất cả máy móc, thiết bị
trong công xưởng được kết nối với nhau thông
qua Internet, rất nhiều cảm biến cũng đồng thời
được lắp đặt để thu thập dữ liệu, từ đó giúp máy
NGÀNH KINH TẾ
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(59).2017 79
móc có thể “giao tiếp” với nhau mà không cần
sự có mặt của con người, hay dây chuyền sản
xuất sẽ được vận hành tự động một cách thích
hợp ứng với lượng tồn kho.
Các doanh nghiệp sản xuất chi tiết cũng sẽ được
kết nối với doanh nghiệp lắp ráp, doanh nghiệp
vận chuyển, cửa hàng phân phối và tiêu thụ để
thành một thể thống nhất. Quá trình sản xuất và
thời hạn sản xuất được phối hợp với mục tiêu
tăng hiệu suất và tối ưu hóa thời gian sản xuất,
công suất và chất lượng sản phẩm trong các khâu
phát triển, sản xuất, tiếp thị và thu mua.
Chi phí giao thông vận tải và thông tin liên lạc sẽ
giảm xuống, hậu cần và các chuỗi cung ứng toàn
cầu sẽ trở nên đơn giản, hiệu quả hơn, khiến các
chi phí thương mại sẽ giảm xuống, từ đó thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế toàn cầu.
Cuộc Cách mạng này cũng giúp làm tăng năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua tăng
năng suất, sản lượng, chất lượng và giảm chi phí;
Khuyến khích đầu tư cho khoa học công nghệ và
sản phẩm mới; Thúc đẩy thương mại điện tử và
hình thành các mô hình kinh doanh mới, cải thiện
hiệu quả và tạo ra các loại hình doanh thu mới
Cụ thể, đối với Việt Nam, cuộc Cách mạng công
nghiệp 4.0 đem lại những cơ hội to lớn hơn bao
giờ hết. PGS.TS Bùi Tất Thắng-Viện trưởng Viện
Chiến lược phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
cho rằng: Với một nền kinh tế năng động và dễ
thích ứng như Việt Nam, sáng tạo, công nghệ mới
là cơ hội, hy vọng động lực dẫn dắt tạo nguồn
tăng trưởng tương lai. Trong khi đó, theo TS. Lê
Xuân Bá, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu
Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho rằng:
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tạo ra
cơ hôi cho Việt Nam. Đó là: Các ứng dụng công
nghệ mới, năng lượng mới đã và đang đặt ra cho
Việt Nam cơ hội rút ngắn khoảng cách phát triển,
tận dụng nguồn lực mới cho tăng trưởng, phát
triển. Năng lượng mặt trời có sẵn quanh năm trên
cả nước, đặc biệt ở miền Trung và miền Nam.
Thị trường pin mặt trời rất lớn nhưng khai thác
tiềm năng này còn chậm do đòi hỏi chi phí phát
triển cao [7].
Dịch vụ điện toán đám mây và di động xã hội
(SMAC) mang lại cơ hội có thể bắt kịp với các
quốc gia phát triển trong kỷ nguyên số, với điều
kiện có sự hợp tác chặt chẽ giữa các nhà khoa
học, Chính phủ và doanh nghiệp.
Thương mại điện tử đã và đang xuất hiện khi các
công ty nước ngoài xâm nhập thị trường và các
công ty thương mại điện tử trong nước đang củng
cố, sáp nhập để đứng vững trước sức ép cạnh
tranh. Ước tính năm 2015, doanh số thương mại
điện tử đạt mức 15 tỷ USD do số người sử dụng
Internet tăng nhanh và số người sử dụng điện
thoại thông minh còn tăng nhanh hơn.
Tuy nhiên, những ứng dụng mua bán trực tuyến
chậm tăng trưởng do thanh toán trực tuyến còn
hạn chế, quan ngại về an ninh trong các giao dịch
mua bán trực tuyến và vấn đề về dịch vụ logistics
giao hàng... vẫn là những trở ngại đối với thị
trường thương mại điện tử và cần được quan tâm
giải quyết để tiếp tục phát triển nhanh.
Bên cạnh đó, có thể thấy rõ một số thách thức của
Cuộc Cách mạng nói trên đối với khu vực doanh
nghiệp tư nhân như sau:
- Hầu hết các doanh nghiệp chưa chuẩn bị sẵn
sàng cho Cách mạng công nghiệp 4.0: Hiện tại,
nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn rất bị động với
các xu thế mới, họ không hiểu bản chất của Cách
mạng công nghiệp 4.0, không thấy được liên quan
của các xu thế công nghệ đến ngành, lĩnh vực của
mình, không sẵn sàng năng lực để tiếp cận công
nghệ, hệ thống hạ tầng...
Theo kết quả khảo sát về quan điểm đối với Cách
mạng công nghiệp 4.0 được Hiệp hội Doanh
nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) Hà Nội thực hiện
tháng 4/2017 với 2.000 hội viên chính thức thuộc
Hiệp hội cho thấy, có 55% doanh nghiệp đánh giá
cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ có tác động
rất lớn đến nền kinh tế Việt Nam; 23% đánh giá
tác động bình thường; 11% đánh giá không tác
động lắm và 10% đánh giá không tác động; 6%
không biết [6].
Tuy nhiên, về chiến lược, có đến 79% doanh
nghiệp trong số này trả lời rằng họ chưa làm gì để
đón sóng cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0; 55%
doanh nghiệp cũng cho biết đang tìm hiểu, nghiên
cứu, 19% doanh nghiệp đã xây dựng kế hoạch,
và chỉ có 12% doanh nghiệp đang triển khai. Đối
với các doanh nghiệp không quan tâm đến cuộc
Cách mạng công nghiệp 4.0, 67% doanh nghiệp
không thấy liên quan và ảnh hưởng nhiều đến
doanh nghiệp; 56% cho rằng lĩnh vực hoạt động
của doanh nghiệp không bị tác động nhiều; 76%
doanh nghiệp cho rằng chưa hiểu rõ bản chất
80
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(59).2017
cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, trong khi đó, có
đến 54% chưa có nhu cầu quan tâm.
- Bài toán hiệu quả từ lựa chọn đầu tư công
nghệ: Đầu tư và ứng dụng công nghệ sẽ là yếu
tố tiên quyết quyết định thành công trong cuộc
Cách mạng công nghiệp 4.0. Tuy nhiên, trong
làn sóng robot hóa, ngoài việc cẩn trọng trong
chọn lựa đầu tư, doanh nghiệp còn phải hiểu và
nhận thức thế mạnh riêng để có quyết định đúng
đắn nhất, chứ không phải chạy theo xu hướng.
Các chuyên gia cho rằng, dù robot cần thiết cho
doanh nghiệp sản xuất máy móc tinh vi, hay
những dây chuyền cần tính chính xác, ổn định
tuyệt đối, song cần có thêm thời gian thử nghiệm
để tìm thấy ứng dụng tốt nhất trong toàn bộ dây
chuyền sản xuất.
- Tạo ra những thay đổi lớn về cung - cầu lao động
trên thế giới và nguy cơ thất nghiệp: Nền kinh tế
với trình độ tự động hóa cao và có tính sáng tạo,
đòi hỏi người lao động phải thích ứng nhanh với
sự thay đổi của sản xuất nếu không sẽ bị dư thừa,
bị thất nghiệp. Trong một số lĩnh vực, với sự xuất
hiện của robot, dự báo số lượng nhân viên cần
thiết sẽ chỉ còn 1/10 so với hiện nay.
Như vậy, Cách mạng công nghiệp 4.0 có thể tạo
ra nguy cơ phá vỡ thị trường lao động trong bối
cảnh lực lượng lao động lớn; lợi thế về nhân
công giá rẻ sẽ mất dần; nguy cơ tụt hậu xa hơn.
Đây chính là thách thức lớn nhất đối với các
DNTN nước ta - nơi mà sự tồn tại và phát triển
lâu nay chủ yếu dựa vào lao động thủ công, lao
động giá rẻ.
5. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Đối với Nhà nước:
Thứ nhất, Chính phủ cần phải thay đổi tư duy để
tạo bước ngoặt cho phát triển Cách mạng công
nghiệp 4.0. Theo đó, cuộc Cách mạng này là một
động lực mạnh mẽ để Việt Nam phải đổi mới, tái
cơ cấu lại nền kinh tế. Nếu không, với nền sản
xuất nhỏ, với mô hình tăng trưởng đến giới hạn tự
nhiên như hiện nay, Việt Nam sẽ gặp thách thức
lớn. Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 tạo sức
ép khủng khiếp, nếu không cải cách, chúng ta sẽ
thất bại.
Thứ hai, Chính phủ cần đưa ra một chiến lược cụ
thể với tầm nhìn dài hạn nhằm hỗ trợ các doanh
nghiệp, nhất là DNTN có đủ năng lực để tập trung
đầu tư hạ tầng công nghệ số, nâng cao tỷ lệ ứng
dụng công nghệ thông tin trong quản lý và tổ
chức sản xuất; ưu tiên, khuyến khích, hỗ trợ các
doanh nghiệp trong nước tiếp nhận chuyển giao
các công nghệ mới, công nghệ cơ bản của Cách
mạng công nghiệp 4.0. Trong đó, thay vì chỉ chú
trọng hỗ trợ mua máy móc, trang thiết bị, cũng cần
có nhữ