Đặt vấn đề: Viêm mũi teo là một bệnh tương đối ít gặp trên thế giới nhưng cũng xuất hiện ở Việt Nam. Điều trị nội khoa có kết quả tạm thời, khi ngưng thì bệnh phát lại. qua nhiều năm nghiên cứu đã cho thấy rõ điều trị phẫu thuật góp phần làm giảm triệu chứng bệnh. Phương pháp: 4 bệnh nhân chẩn đoán viêm mũi teo điều trị nội khoa không khỏi bệnh, được nhập viện điều trị phẫu thuật làm hẹp khoang mũi. Dùng San hô ghép vào hốc mũi hai bên của người bệnh dựa theo khí áp mũi. San hô được ghép vào dưới niêm mạc vách ngăn và sàn mũi làm giảm thể tích cửa mũi trước và sau 2 bên mũi. Kết quả: phẫu thuật điều trị 4 bệnh nhân: ba bệnh nhân cải thiện rõ triệu chứng: không hôi, hết vảy, nhức đầu, chảy máu mũi , một bệnh nhân giảm triệu chứng rõ nhưng không hết hẳn. Không có trường hợp nào xảy ra biến chứng: viêm nhiễm, thải ghép hay tái hấp thu của vật liệu. Kết luận: chúng tôi thực hiện ghép san hô dưới niêm mạc vách ngăn và sàn mũi qua nội soi dưới gây mê nội khí quản là phẫu thuật khá đơn giản. Vật liệu San hô có tính tương hơp sinh học cao. Phẫu thuật giúp bệnh nhân cải thiện triệu chứng rõ đồng thời giảm hoặc mất cảm giác trống, rỗng trong hốc mũi.
4 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 260 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ghép san hô trong điều trị viêm mũi teo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 146
GHÉP SAN HÔ TRONG ĐIỀU TRỊ VIÊM MŨI TEO
Nguyễn Thanh Tâm*, Trần Anh Tuấn**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Viêm mũi teo là một bệnh tương đối ít gặp trên thế giới nhưng cũng xuất hiện ở Việt Nam.
Điều trị nội khoa có kết quả tạm thời, khi ngưng thì bệnh phát lại. qua nhiều năm nghiên cứu đã cho thấy rõ điều
trị phẫu thuật góp phần làm giảm triệu chứng bệnh.
Phương pháp: 4 bệnh nhân chẩn đoán viêm mũi teo điều trị nội khoa không khỏi bệnh, được nhập viện điều
trị phẫu thuật làm hẹp khoang mũi. Dùng San hô ghép vào hốc mũi hai bên của người bệnh dựa theo khí áp mũi.
San hô được ghép vào dưới niêm mạc vách ngăn và sàn mũi làm giảm thể tích cửa mũi trước và sau 2 bên mũi.
Kết quả: phẫu thuật điều trị 4 bệnh nhân: ba bệnh nhân cải thiện rõ triệu chứng: không hôi, hết vảy, nhức
đầu, chảy máu mũi, một bệnh nhân giảm triệu chứng rõ nhưng không hết hẳn. Không có trường hợp nào xảy
ra biến chứng: viêm nhiễm, thải ghép hay tái hấp thu của vật liệu.
Kết luận: chúng tôi thực hiện ghép san hô dưới niêm mạc vách ngăn và sàn mũi qua nội soi dưới gây mê
nội khí quản là phẫu thuật khá đơn giản. Vật liệu San hô có tính tương hơp sinh học cao. Phẫu thuật giúp bệnh
nhân cải thiện triệu chứng rõ đồng thời giảm hoặc mất cảm giác trống, rỗng trong hốc mũi.
Từ khoá: viêm mũi teo, trĩ mũi
ABSTRACT
CORAL IMPLANTS IN THE TREATMENT OF ATROPHIC RHINITIS
Nguyen Thanh Tam, Tran Anh Tuan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 4 ‐ 2013: 146 ‐ 149
Background: The Atrophic rhinitis is a relative uncommon disease in the world, but has appeared in
Vietnam. Medical treatment prevents it temporarily, but if the treatment is not continued, the disease recurs.
Over years of research, it is clearly that surgical treatment can help reduce the disease symptoms.
Methods: 4 patients who were diagnosed as the victims of the atrophic rhinitis and not cured by medical
treatments, are hospitalized to operate for narrow noses. Corals are firstly transplanted on both sides of the nasal
cavity of patients based on noses barometric. Next, corals are transplanted into the sub mucosal septum and floor
of noses to reduce the volume of front and 2 sides of noses.
Results: Surgical treatment for 4 patients: three patients whose symptoms are improved significantly: no
smell, no scales, no headaches, no nose bleeds..., and one patient whose symptoms are reduce clearly but not
completely. No cases have occurred complications such as infection, transplant rejection or re‐absorption of the
materials.
Conclusions: we transplant corals into the sub mucosal septum and floor of noses under the endoscopic
anesthesia tracheal is quite simple. The corals have high biological compatibility. Surgery helps patients improve
their symptoms clearly and reduce or prevent the feeling of emptiness at the nasal cavity.
Keywords: Atrophic rhinitis.
* Bệnh viện Đại học Y Dược cơ sở 2, ** Đại học Y Dược Tp Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Thanh Tâm – Điện thoại: 0988 869 275, Email: tamyduoc@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 147
ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm mũi teo là bệnh được biết trước công
nguyên khoảng 4000 năm(7), đến năm 1876
Bernhard Fraenkel mô tả bệnh với tam chứng(9) :
mùi thối, vảy mũi, teo cấu trúc bên trong hốc
mũi. Nguyên nhân của bệnh chưa được biết rõ.
Về vi trùng người nhận thấy có tồn tại thường
xuyên của vi khuẩn Klebsiella ozaene hay độc tố
của Corynebacterum diphtheria hoặc là Perez‐ Hofer
bacillus(1) . Các nghiên cứu khác cho rằng thể do
thiếu vitamin A, thiếu Fe hay mất cân bằng về
nội tiết. Các tác giả khác cho rằng có thể do rối
loạn về miễn dịch hay di truyền.
Về điều trị nội khoa có tính chất tạm thời
gồm: điều trị tại chỗ kết hợp với toàn thân.
Trong thời gian đang điều trị thì bệnh khá ổn
nhưng khi ngưng thì bệnh phát trở lại. Điều trị
phẫu thuật đối với bệnh này, có 2 loại phẫu
thuật đã được xác định làm giảm triệu chứng
của bệnh: phẫu thuật đóng mũi và phẫu thuật
làm hẹp hốc mũi(2). Vấn đề tái phát sau phẫu
thuật ở nhiều nghiên cứu cho thấy do kỹ thuật
ghép chưa phù hợp hoặc vật liệu ghép chưa
tương thích với cơ thể hay do bị hấp thu. Từ
năm 1977, San hô được dùng trong khoa chấn
thương chỉnh hình ở Garches ‐ pháp cho kết quả
tốt(5). Tại Việt Nam, San hô đã được dùng trong
y học ở nhiều chuyên ngành trong nhiều năm
qua(3). Do vậy, chúng tôi quyết định dùng san hô
ghép vào hốc mũi nhằm làm hẹp mũi để giảm
triệu chứng đối với bệnh viêm mũi teo này.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Gồm 4 bệnh nhân đã được chẩn đoán viêm
mũi teo nguyên phát: 3 nữ và 1 nam. Bệnh nhân
đều không có tiền sử phẫu thuật mũi xoang,
được cấy tìm vi khuẩn từ dịch và vảy mũi, thử
giang mai, lao, chụp CT sanner mũi xoang, sinh
thiết niêm mạc mũi và thử estrogen đối với bệnh
nhân nữ. Ghi nhận các triệu chứng cơ năng, thực
thể ở từng người bệnh. Bệnh nhân được điều trị
nội khoa từ 1,5 đến 2 tháng với điều trị tại chỗ
và toàn thân điều trị về: estrogen, sắt, Vitamin
A.
Vật liệu nghiên cứu
San hô sinh học ‐ Bioporites, được sản xuất
tại Phòng Nghiên Cứu vật liệu sinh học, Bộ môn
Mô phôi – Di truyền thuộc Trường Đại học Y
Phạm Ngọc Thạch ‐ dạng miếng, đường kính
500μm đóng gói được bao trong hai túi Nylon.
Phương pháp phẫu thuật
Phẫu thuật được thực hiện dưới gây mê
nội khí quản. Rạch niêm mạc vách ngăn một
bên mũi, bóc tách niêm mạc vách ngăn đến sàn
mũi và gần đến đuôi vách ngăn hai bên tạo
nên đường hầm. Đặt miếng San hô ở hai vị trí
hốc mũi hẹp nhất theo khí áp mũi đã đo trước
khi phẫu thuật.
A B
Hình 1: Phẫu thuật đặt san hô cửa mũi trước (sàn mũi) (A) Trước phẫu thuật (B) Sau phẫu thuật
Miếng san hô chiều rộng 0,5cm dài 2cm,
một được đặt song song theo đường góc
vuông của vách ngăn và sàn mũi. Môt mảnh
đối bên theo đường thẳng góc từ trên vách
ngăn xuống sàn mũi. Cả hai bên được ép lại
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 148
bằng spongostan. Khâu đường rạch niêm mạc
tiền đình mũi chỉ tan. Sau 48 giờ lấy
spongostan hai bên hốc mũi, bệnh nhân được
theo dõi sau mỗi 6 tháng. Vị trí đặt được thực
hiện như hình 1.
A
Hình 2: Phẫu thuật đặt san hô ngang phần đầu cuốn mũi giữa bên vách ngăn phía dưới. (A) Trước phẫu thuật
(B) Sau phẫu thuật
KẾT QUẢ
Bốn bệnh nhân (BN) được phẫu thuật ghép
san hô gồm 3 nữ và 1 nam. Ba bệnh nhân nữ
ghép san hô cả 2 bên hốc mũi và sàn mũi. Một
bệnh nhân nam chỉ ghép 1 bên vách ngăn và sàn
mũi do bên mũi đối diện đã có mào vách ngăn
giúp làm hẹp hốc mũi tự nhiên.
Bảng 1: Đặc điểm bệnh nhân
BN Giới Tuổi Cư ngụ Nghề
1 nữ 47 Tp.HCM Buôn bán
2 nữ 30 Đồng nai Công nhân
3 nữ 60 Gia Lai Nội trợ
4 nam 42 Long An Đi biển
Bảng 2: triệu chứng lâm sàng trước mổ
BN Viêm
mũi
Nghẹt
mũi
Mùi
thối
Vảy Chảy
máu
Mất
mùi
Nhức
đầu
1 2 bên x x x x Giảm x
2 2 bên x x x x Mất x
3 2 bên x x x x Mất x
4 1 bên(t) x x x không Giảm x
Bảng 3: triệu chứng lâm sàng sau mổ
BN Nghẹt
mũi
Mùi
thối
Vảy Chảy
máu
Mất
mùi
Nhức
đầu
1 ± ± ± - + ±
2 ± - - - ± -
3 - - - - mất -
4 - - - - ± -
(± : lúc có lúc không, ‐: không )
BÀN LUẬN
Điều trị phẫu thuật được đặt ra trên bệnh
nhân viêm mũi teo điều trị nội tái diễn kéo dài.
Tuy nguyên nhân bệnh thực sự chưa rõ ràng
nhưng hai phẫu thuật cơ bản để điều trị các triệu
chứng của bệnh được chấp nhận thực hiện từ
trước đến nay là phẫu thuật đóng mũi tạm thời
và phẫu thuật làm hẹp hốc mũi(10). Phẫu thuật
đóng mũi tạm thời nhiều tác giả đã cho thấy
bệnh hầu như khỏi hẳn trong thời gian đóng
mũi nhưng sau đó bệnh phát lại nhanh khi mở
mũi thông thoáng.
Phẫu thuật làm hẹp hốc mũi đã được thực
hiện với nhiều phương pháp kể cả cấy ghép làm
hẹp hốc mũi. Trước đây các tác giả đã dùng vật
liệu tự thân: xương mào chậu. Xương tự thân
không bị thải ghép nhưng bị tái hấp thu. Trong
những năm qua, nhiều vật liệu khác nhau đã
được cấy ghép như acrylic, sụn, Ivalin miếng bọt
biển và Triosite với fibrin glue(1). Hầu hết các vật
liệu ghép đều có kết quả tốt. Tuy nhiên sau một
thời gian ngắn vật liệu bị thải ghép, biểu hiện
viêm mạn tính hay nhiễm trùng cấy ghép. Năm
2000, Goldenberg dùng Plastipore(2) (bọt biển
polyethylene) có tính trơ cao, phản ứng với cơ
thể rất thấp. Plastipore dùng ghép cho 8 bệnh
nhân theo dõi trong 18 tháng chỉ có 1 trường
hợp bị thải ghép. Từ năm 1999 đếm nay San hô
được sử dụng thành công nhiều trong lĩnh vực y
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 149
học ở nhiều chuyên khoa: Chấn thương chỉnh
hình(6), Mắt, Răng hàm mặt(4) , Tai Mũi Họng.
San hô có tính trơ cao, cấu tạo tự nhiên tương
hợp sinh học cao. Đặc biệt, san hô có tính dẫn
tạo xương, khi san hô thoái biến thì có sự hình
thành xương mới thay thế(8) . Chúng tôi nhận
thấy san hô tự nhiên có điểm vượt trội hơn
Plastipore chế tạo. Ở nghiên cứu này, chúng tôi
ghép san hô làm hẹp hốc mũi đối với bệnh viêm
mũi teo nhằm làm giảm hay hết các triệu chứng
của bệnh. Mục tiêu của chúng tôi là giống với
các nghiên cứu trước đây nhưng vật liệu ghép
và kỹ thuật thì khác. Các nghiên cứu trước dùng
vật liệu ghép dọc theo chiều hai bên vách mũi.
Còn ở nghiên cứu chúng tôi chỉ đặt mãnh ghép
rộng 0,5cm ở nơi hẹp nhất của mũi làm cho mũi
hẹp thêm dựa theo khí áp mũi. Kết quả 4 trường
hợp ghép: 3 bệnh nhân biến mất mùi hôi, vảy và
các cảm giác: nhức đầu, trống hay rỗng mũi....
Và 1 bệnh nhân còn ít vảy mũi, nhức đầu. Theo
dõi gần 10 tháng nay kết quả giảm triệu chứng
của bệnh nhân sau mổ trong nghiên cứu của
chúng tôi cũng tương tự như ở nghiên cứu khác
đồng thời chưa nhận thấy dấu hiệu viêm nhiễm
hay thải ghép của vật liệu.
KẾT LUẬN
Chúng tôi dựa theo khí áp mũi, đặt các
mãnh ghép nơi hẹp nhất làm cho mũi trở nên
hẹp hơn khác với nghiên cứu trước đây đặt
mảnh ghép theo cả chiều dài hốc mũi nhưng kết
quả làm giảm triệu chứng của bệnh cũng tương
tự như nhau. Vật liệu sinh học, San hô ghép vào
vách ngăn và sàn mũi có khả năng dung nạp tốt
đối với cơ thể chưa nhận thấy biến chứng viêm
hay thải ghép. Tuy nhiên nghiên cứu của chúng
tôi còn hạn chế về số lượng bệnh nhân và thời
gian theo dõi thêm để khẳng định về giá trị.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. De Souza FM, Goodman WS (1997). Atrophic rhinitis.In:
English GM,editor. Otolaryngology. Philadelphia: Lippincott‐
Raven, p.1‐10.
2. Goldenberg D, Danino J, Netzer A, Joachims HZ (2000).
Plastipore implants in the surgical treatment of atrophic
rhinitis: technique and results. Otolaryngol Head Neck Surg
122:794–797.
3. Lê Hoàng Phong (2011) “ Lấp hố mổ chũm bằng san hô sinh
học Việt Nam” Luận án Chuyên khoa cấp II, Đại học Y Dược
Tp. HCM, tr 5‐45.
4. Lê Thị Xuân Nga (2003) “ Thử nghiệm lâm sàng ghép Porites
vào ổ răng ngay sau mổ. Luận án thạc sĩ y học. Đại học Y
Dược Tp.HCM, tr 10‐30.
5. Malard O, Espitalier F; Bordure P, Daculsi G (2007).
“Biomaterials for tissue reconstruction and bone substitution
of the ear, nose and throat, face and neck”, Expert Review of
Medical Devices, vol. 4, number 5, pp 729 – 739 (11).
6. Phan Quang Sơn (2003) “Nghiên cứu tạo hình bản sống trong
điều trị bệnh tủy do hẹp ống sống cổ. Luận án thạc sĩ y học.
Đại học Y Dược Tp.HCM.
7. Shehata M. (1996) Atrophic rhinitis. Am J Otolaryngol; 17: 81
– 6.
8. Tô Vũ Phương, Trần Bắc Hải, Trần Công Toại, Đoàn Bình
(1995) “Khảo sát đặc tính đặc tính lý hóa của các thoải san ho
vùng biển Việt Nam làm vật liệu sinh học ghép thay xương”
Tài liệu nghiên cứu, Bộ môn Mô phôi – Di truyền học, Đại
học Y Phạm Ngọc Thạch.
9. Weir N (1990). Otology and laryngology departments,
societies and journals. In: Weir N, editor. Otolaryngology—an
illustrated history.Cambridge: Butterworth;p 151.
10. Young A (1971). Closure of nostrils in atrophic rhinitis. J
Laryngol Otol; 85: 715‐8.
Ngày nhận bài 22/08/2013.
Ngày phản biện nhận xét bài báo 03/09/2013.
Ngày bài báo được đăng: 18/10/2013