Mở đầu: Do những hạn chế của sinh thiết gan, phương pháp chẩn đoán không xâm lấn, sử dụng các triệu
chứng lâm sàng và cận lâm sàng không xâm lấn, ngày càng được chú ý và phát triển trong chẩn đoán xơ gan.
Axit Hyaluronic (AH), một polysaccharide cao phân tử quan trọng trong cơ chế bệnh sinh xơ gan, cho thấy có
giá trị trong chẩn đoán xơ gan và làm tăng giá trị của một mô hình chẩn đoán không xâm lấn trong chẩn đoán
xơ gan giai đoạn còn bù.
Mục tiêu: Đánh giá giá trị của Axit Hyaluronic, từ đó xây dựng một mô hình chẩn đoán không xâm lấn để
chẩn đoán xơ gan giai đoạn còn bù.
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: 48 bệnh nhân được chẩn đoán bệnh gan mạn tính nhập viện tại
khoa Tiêu hóa – Gan mật, bệnh viện Chợ Rẫy được đưa vào nghiên cứu. Tất cả bệnh nhân được sinh thiết gan,
khảo sát các đặc điểm dịch tễ học, triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng thường làm trong chẩn đoán xơ gan và
định lượng Axit Hyaluronic trong máu.
Kết quả: Các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng có ý nghĩa trong chẩn đoán xơ gan còn bù là: sao mạch,
lòng bàn tay son, thời gian Prothrombin kéo dài, bờ gan không đều và lách to trên siêu âm. Nồng độ Axit
Hyaluronic (AH) trong máu khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm xơ gan và không xơ gan (349,93±447,47
ng/ml so với 73,37±76,85 ng/ml, p=0,00). Tại giá trị cắt 60 ng/ml, AH có độ nhạy 89,7%, độ đặc hiệu là 63,2%,
giá trị tiên đoán dương 78,8%, giá trị tiên đoán âm 80%. AH có mối tương quan thuận mức độ mạnh với mức
độ xơ hóa gan. Khi kết hợp AH và các triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng có ý nghĩa trong chẩn đoán xơ gan
tìm được trong nghiên cứu thì mô hình chẩn đoán xơ gan không xâm lấn này có độ nhạy là 89,7%, độ đặc hiệu
84,2%, giá trị tiên đoán dương 89,7%, giá trị tiên đoán âm 84,2%.
Kết luận: Axit Hyaluronic là dấu ấn sinh hóa có độ nhạy và độ đặc hiệu cao trong chẩn đoán xơ gan. Mô
hình không xâm lấn có sử dụng Axit Hyaluronic cho thấy có giá trị trong chẩn đoán xơ gan giai đoạn còn bù.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 206 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giá trị của axít Hyaluronic trong chẩn đoán không xâm lấn xơ gan còn bù, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Nội Khoa 296
GIÁ TRỊ CỦA AXÍT HYALURONIC
TRONG CHẨN ĐOÁN KHÔNG XÂM LẤN XƠ GAN CÒN BÙ
Lâm Hoàng Cát Tiên*, Bùi Hữu Hoàng*, Phan Thị Danh**, Đặng Vạn Phước*
TÓM TẮT
Mở đầu: Do những hạn chế của sinh thiết gan, phương pháp chẩn đoán không xâm lấn, sử dụng các triệu
chứng lâm sàng và cận lâm sàng không xâm lấn, ngày càng được chú ý và phát triển trong chẩn đoán xơ gan.
Axit Hyaluronic (AH), một polysaccharide cao phân tử quan trọng trong cơ chế bệnh sinh xơ gan, cho thấy có
giá trị trong chẩn đoán xơ gan và làm tăng giá trị của một mô hình chẩn đoán không xâm lấn trong chẩn đoán
xơ gan giai đoạn còn bù.
Mục tiêu: Đánh giá giá trị của Axit Hyaluronic, từ đó xây dựng một mô hình chẩn đoán không xâm lấn để
chẩn đoán xơ gan giai đoạn còn bù.
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: 48 bệnh nhân được chẩn đoán bệnh gan mạn tính nhập viện tại
khoa Tiêu hóa – Gan mật, bệnh viện Chợ Rẫy được đưa vào nghiên cứu. Tất cả bệnh nhân được sinh thiết gan,
khảo sát các đặc điểm dịch tễ học, triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng thường làm trong chẩn đoán xơ gan và
định lượng Axit Hyaluronic trong máu.
Kết quả: Các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng có ý nghĩa trong chẩn đoán xơ gan còn bù là: sao mạch,
lòng bàn tay son, thời gian Prothrombin kéo dài, bờ gan không đều và lách to trên siêu âm. Nồng độ Axit
Hyaluronic (AH) trong máu khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm xơ gan và không xơ gan (349,93±447,47
ng/ml so với 73,37±76,85 ng/ml, p=0,00). Tại giá trị cắt 60 ng/ml, AH có độ nhạy 89,7%, độ đặc hiệu là 63,2%,
giá trị tiên đoán dương 78,8%, giá trị tiên đoán âm 80%. AH có mối tương quan thuận mức độ mạnh với mức
độ xơ hóa gan. Khi kết hợp AH và các triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng có ý nghĩa trong chẩn đoán xơ gan
tìm được trong nghiên cứu thì mô hình chẩn đoán xơ gan không xâm lấn này có độ nhạy là 89,7%, độ đặc hiệu
84,2%, giá trị tiên đoán dương 89,7%, giá trị tiên đoán âm 84,2%.
Kết luận: Axit Hyaluronic là dấu ấn sinh hóa có độ nhạy và độ đặc hiệu cao trong chẩn đoán xơ gan. Mô
hình không xâm lấn có sử dụng Axit Hyaluronic cho thấy có giá trị trong chẩn đoán xơ gan giai đoạn còn bù.
Từ khóa: axit hyaluronic, chẩn đoán không xâm lấn, xơ gan
ABSTRACT
VALUE OF HYALURONIC ACID IN NON-INVASIVE DIAGNOSIS OF COMPENSATED CIRRHOSIS
Lam Hoang Cat Tien, Bui Huu Hoang, Phan Thi Danh, Dang Van Phuoc
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 296 - 302
Background: Because of limitations in biopsy procedure, non-invasive method had been developed to
diagnose cirrhosis. Hyaluronic Acid, an important polysaccharide in the pathophysiology of the cirrhotic liver,
had been evaluated as a valuable biomarker and could elevate the diagnostic value of a non-invasive assessment
model in diagnosis of compensated cirrhosis.
Objectives: We evaluated the diagnostic value of serum Hyaluronic acid itself and then constructed a non-
invasive assessment model to diagnose compensated cirrhosis.
Method: A total of 48 patients with chronic liver diseases who underwent percutaneous liver biopsy were
*: Bộ môn Nội Tổng Quát – Đại học Y Dược TPHCM **: Khoa Sinh Hóa bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: BS Lâm Hoàng Cát Tiên ĐT: 0937 360 960 Email: tienlamdr@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 297
prospectively analyzed. All the epidemic characteristics, clinical signs and symptoms, laboratory and imaging
findings including serum Hyaluronic Acid were assessed at the time of liver biopsy.
Results: Clinical and laboratory findings which were significantly different in cirrhotic group included:
spider angiomata, palmar erythema, prolonged Prothrombin time, uneven liver border and splenomegaly on
ultrasound and elevated serum hyaluronic acid. Serum Hyaluronic Acid levels were statistically higher in
patients with liver cirrhosis compared to non-cirrhotic group (Mean 349.93±447.47 ng/ml compared to
73.37±76.85 ng/ml, p=0.00). At the cut-off value of 60 ng/ml, Hyaluronic acid had the sensitivity, specificity,
PPV and NPV of 89.7%, 63.2%, 78.8%, and 80% respectively. There was a significant correlation between
Hyaluronic Acid and fibrosis stage (p=0.00). Combining to other clinical and laboratory findings, the non-
invasive diagnostic model had a 84.2% specificity, 89.7% sensitivity, 89.7% PPV and 84.2% NPV.
Conclusion: Hyaluronic acid is a good biomarker to diagnose liver cirrhosis with high sensitivity and
specificity. The non-invasive diagnostic model we found using Hyaluronic acid is valuable in diagnosis
compensated liver cirrhosis.
Keywords: hyaluronic acid, non-invasive diagnosis, cirrhosis
MỞ ĐẦU
Xơ gan thuộc nhóm các nguyên nhân bệnh
lý gây tử vong hàng đầu trên thế giới(17,19). Tại
Việt Nam, xơ gan đang có tỉ lệ mắc bệnh và tỉ lệ
tử vong ngày càng tăng(1,2,18). Đa số bệnh nhân xơ
gan không được phát hiện bệnh đúng lúc. Có
những bệnh nhân khi phát hiện bệnh đã có
những biến chứng nặng nề, thậm chí tử vong
ngay trong lần đầu nhập viện. Việc điều trị xơ
gan đã có biến chứng rất tốn kém và không hiệu
quả. Nếu phát hiện sớm, loại bỏ nguyên nhân,
điều trị tích cực, có thể đưa đến sự hồi phục của
gan(9,15). Điều đó cho thấy vấn đề chẩn đoán sớm
xơ gan là rất quan trọng trong quá trình theo dõi
bệnh nhân bệnh gan mạn tính.
Tiêu chuẩn vàng chẩn đoán xơ gan là mô
học, thông qua sinh thiết gan. Thế nhưng, sinh
thiết gan là một thủ thuật xâm lấn, có nhiều hạn
chế như: cách tính điểm mô học chưa được
thống nhất và áp dụng rộng rãi tại Việt Nam, chi
phí còn cao, bệnh nhân không dễ chấp nhận,
biến chứng có thể từ nhẹ như đau, đến nặng hơn
như nhiễm trùng, máu tụ trong gan, xuất huyết
nội, thậm chí tử vong(1,4).
Chẩn đoán xơ gan không xâm lấn là phương
pháp sử dụng các yếu tố lâm sàng, xét nghiệm
máu, hình ảnh học và đặc biệt là các chất đánh
dấu xơ hóa gan trong máu như PIIINP, α2-
macroglobulin, haptoglobin, γ-globulin,
apolipoprotein A1, TIMP-1, axit
hyaluronicđang là khuynh hướng được chú ý
và nghiên cứu sâu rộng hiện nay(9,11,13,16). Trong
đó, axit hyaluronic được đánh giá là biến số
chính xác nhất cho độ nặng của quá trình xơ hoá
gan vì có liên quan mạnh với giai đoạn mô học
của nhu mô gan(5,10,13,14). Chúng tôi tiến hành
nghiên cứu này nhằm tìm ra các biến số không
xâm lấn có ý nghĩa, đặc biệt, đánh giá giá trị của
axit hyaluronic trong chẩn đoán xơ gan, từ đó
xây dựng một mô hình chẩn đoán không xâm
lấn để chẩn đoán xơ gan giai đoạn còn bù.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Cắt ngang phân tích, tiền cứu
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân nội và ngoại trú của khoa Nội
Tiêu hóa – Gan mật, bệnh viện Chợ Rẫy được
chẩn đoán có bệnh lý chủ mô gan mạn (thể hiện
qua kết quả xét nghiệm men gan tăng hoặc các
dấu ấn nhiễm vi rút viêm gan B, C dương tính
từ 6 tháng trở lên và / hoặc siêu âm bụng 2 chiều
thông thường mới thực hiện kết luận có bệnh lý
chủ mô gan mạn) chưa có báng bụng và các biến
chứng nhiễm trùng dịch báng, hôn mê gan, hội
chứng gan thận, không có tình trạng bệnh lý cấp
tính nặng kèm theo và không có chống chỉ định
sinh thiết gan.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Nội Khoa 298
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân xơ gan mất bù, xơ gan có biến
chứng, đang có tình trạng bệnh cấp tính nặng
kèm theo, không đồng ý sinh thiết gan hay được
sinh thiết gan mà mẫu bệnh phẩm thu được
không đạt yêu cầu.
Bệnh nhân được khảo sát các đặc điểm dịch tễ
học, xét nghiệm huyết học và sinh hóa máu đánh
giá chức năng gan, các dấu ấn virút viêm gan, nội
soi thực quản- dạ dày, siêu âm bụng hai chiều,
định lượng axit hyaluronic trong máu và sinh
thiết gan dưới hướng dẫn siêu âm hai chiều.
Dựa trên kết quả giải phẫu bệnh, bệnh nhân
được phân 2 nhóm: không xơ gan hoặc xơ gan.
Tất cả các đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng đã
thu thập được phân tích, so sánh giữa hai nhóm
bệnh nhân. Các dữ liệu thu được được xử lý
bằng phần mềm thống kê SPSS 11.5 chạy trên hệ
điều hành Windows.
KẾT QUẢ
Trong thời gian từ 20/10/2005 đến 7/6/2006 có
48 bệnh nhân được chọn vào nghiên cứu. Tuổi
trung bình của bệnh nhân là 46 ± 13 tuổi, trong
đó, 34 bệnh nhân nam, 14 bệnh nhân nữ, tỉ lệ
nam:nữ = 2,4: 1. Nguyên nhân xơ gan do rượu
(58,3%), VGVR B (33,3%), VGVR C (8,3%).
Nguyên nhân phối hợp gặp nhiều hơn, trong đó,
rượu và VRVG B có tần số cao nhất (27,1%). Có 9
trường hợp không xác định được nguyên nhân.
Thực hiện sinh thiết gan, số khoảng cửa
của mẫu bệnh phẩm thu được tối thiểu là 3, tối
đa là 11 khoảng cửa. Số khoảng cửa trung bình
là 5,79 ± 2,41.
Với kết quả giải phẫu bệnh có được sau sinh
thiết gan, bệnh nhân trong nghiên cứu được phân
thành hai nhóm:nhóm không xơ gan có điểm
phân giai đoạn xơ hóa từ 0 đến 4 điểm gồm 19
bệnh nhân; nhóm xơ gan có điểm phân giai đoạn
xơ hóa là 5 và 6 điểm gồm 29 bệnh nhân.
Bảng 1. So sánh đặc điểm dịch tễ học
Đặc điểm NC Không xơ gan Xơ gan p
Tuổi 46 43,74 47,28 0,69
Giới 2,4:1 11:8 23:6 0,11
Uống rượu 28 9 19 0,21
VGVR B 23 9 14 0,95
VGVR C 10 2 8 0,15
Bảng 2. So sánh đặc điểm lâm sàng
Dữ kiện Số bệnh
nhân
Không xơ
gan
Xơ
gan
p
Lú lẩn nhẹ, rối loạn
giấc ngủ
2 0 2 0,24
Sạm da 12 6 6 0,39
Vàng kết mạc 12 2 10 0,06
Sao mạch 16 3 13 0,03
Lòng bàn tay son 10 0 10 0,004
Tuần hoàn bàng hệ 2 0 2 0,24
Gan to 1 1 0 0,21
Lách to 1 0 1 0,41
Bảng 3. So sánh đặc điểm cận lâm sàng
Đặc điểm cận lâm sàng Số bệnh nhân Không xơ gan Xơ gan p
Tiểu cầu giảm
Thời gian Prothrombine kéo dài
Tăng Bilirubine
Tăng AST
Tăng ALT
Tỉ lệ AST/ALT > 1
Giảm Albumine máu
Tỉ lệ A/G < 1
Bờ gan không đều
Độ phản âm nhu mô gan thô
Lách to trên siêu âm
Bờ gan không đều và độ phản âm gan thô
Có 3 triệu chứng siêu âm về gan và lách
Dãn tĩnh mạch thực quản
Dãn tĩnh mạch tâm phình vị
Dãn tĩnh mạch thực quản và tâm phình vị
26
17
20
36
18
17
8
13
26
44
10
24
7
27
8
5
8
2
5
11
5
12
2
4
7
17
1
7
1
8
2
2
18
15
15
25
13
5
6
9
19
27
9
17
6
19
6
3
0,17
0,004
0,08
0,2
0,3
0.1
0,36
0,45
0,049
0,66
0,03
0,06
0,14
0,11
0.36
0,98
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 299
Bảng 4. Hệ số tương quan giữa các triệu chứng lâm
sàng và cận lâm sàng với mức độ tổn thương mô học
Triệu chứng Spearman rho p
Sao mạch 0,32 0,025
Lòng bàn tay son 0,47 0,001
Thời gian Prothrombine kéo dài 0,50 0,000
Bờ gan không đều 0,43 0,002
Lách to trên siêu âm 0,22 0,128
Bảng 5. Nồng độ Axit Hyaluronic trung bình
NC Không xơ gan Xơ gan p
240,46±374,47 73,37±76,85 349,93±447,47 0,00
Bảng 6.Điểm cắt Axit Hyaluronic và giá trị chẩn
đoán
Tại điểm cắt Axit Hyaluronic = 60 ng/ml, độ
nhạy 89,7%, độ đặc hiệu 63,2%. Giá trị tiên đoán
dương 78,8%. Giá trị tiên đoán âm 80%, diện tích
dưới đường cong AUROC = 0,819
Với hệ số Spearman rho r = 0,63 Axit
Hyaluronic có tương quan thuận mức độ
mạnh với độ tổn thương mô học của gan (p =
0,00 < 0,01 ).
Sử dụng các yếu tố khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa 2 nhóm xơ gan và không xô gan,
lập thành hai mô hình chẩn đoán có và không có
biến số Axit Hyaluronic:
Bảng 7.Hai mô hình chẩn đoán
Mô hình A Mô hình B
- Sao mạch
- Lòng bàn tay son
- Prothrombine kéo dài
- Bờ gan không đều
- Lách to
- Sao mạch
- Lòng bàn tay son
- Prothrombine kéo dài
- Bờ gan không đều
- Lách to
-Tăng axit hyaluronic trong máu
- Mô hình A: có sự khác nhau giữa hai nhóm
với p = 0,006 < 0,01.
- Mô hình B: có sự khác nhau giữa hai nhóm
với p = 0,001 < 0,01.
Bảng 8. Giá trị chẩn đoán của hai mô hình A và B
Mô
hình
Độ
nhạy
Độ đặc
hiệu
Giá trị tiên
đoán dương
Giá trị tiên đoán
âm
A 75,9 84,2 88 69,6
B 89,7 84,2 89,7 84,2
BÀN LUẬN
Triệu chứng LS, CLS
NC của chúng tôi cho thấy giá trị không
cao của các triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng
thông thường đánh giá chức năng gan khi
dùng đơn độc trong chẩn đoán xơ gan. Các
triệu chứng sao mạch, lòng bàn tay son, thời
gian Prothrombin kéo dài, bờ gan không đều,
lách to trên siêu âm tuy có khác biệt có ý nghĩa
thông kê giữa 2 nhóm nhưng sự tương quan
với mức độ xơ hóa gan chỉ ở mức yếu đến
trung bình. Điều này tương tự kết quả nghiên
cứu của Oberti(13), Gordon(6), Lu(9) và cộng sự
khi họ kết luận rằng không có mô hình tiên
đoán xơ gan nào chỉ sử dụng những triệu
chứng lâm sàng. Các nghiên cứu khác về
phương pháp chẩn đoán xơ gan không xâm
lấn của Nezam(11) và Scott(16) cũng cho rằng
triệu chứng lâm sàng đơn độc không có ý
nghĩa trong chẩn đoán xơ gan.
Axit Hyaluronic
Axit hyaluronic, còn gọi là hyaluronate hay
hyaluronan, là một glycosaminoglycan,
polysaccharide cao phân tử được xếp vào
nhóm chất đánh dấu xơ hóa gan trực tiếp, liên
quan đến cả sự lắng đọng và đào thải chất nền
ngoại bào, hai hiện tượng quan trọng trong
quá trình xơ hóa.
Mc Hutchinson(10) và cộng sự trong nghiên
cứu năm 2000 đã cho rằng axit hyaluronic > 60
ng/ml là yếu tố tiên đoán xơ gan với độ chính
xác trung bình và axit hyaluronic < 60 ng/ml là
yếu tố tiên đoán âm của xơ gan với độ chính xác
cao. Tương tự, Plevris(14) và cộng sự cũng kết
luận nồng độ axit hyaluronic cao hơn có ý nghĩa
trong nhóm bệnh nhân xơ gan, không có sự
khác biệt có ý nghĩa về nồng độ axit hyaluronic
giữa các nhóm nguyên nhân xơ gan với nhau và
nồng độ axit hyaluronic tăng tỉ lệ với độ nặng
Điểm chặn Độ nhạy Độ đặc
hiệu
1- Độ đặc
hiệu
Chỉ số
Youden
55 0,897 0,526 0,474 0,423
60 0,897 0,632 0,368 0,529
75 0,897 0,79 0,21 0,687
80 0,862 0,79 0,21 0,652
90 0,79 0,79 0,21 0,58
100 0,69 0,79 0,21 0,48
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Nội Khoa 300
của xơ gan. Tuy nhiên, Plevris chọn giá trị cắt là
100 ng/ml. Với giá trị này, axit hyaluronic có độ
nhạy 83%, độ đặc hiệu 78%. Khi giá trị cắt là 300
ng/ml, axit hyaluronic đạt độ đặc hiệu khá cao,
đến 96%(14).
Adam Gordon(6) cũng kết luận nồng độ axit
hyaluronic cao một cách rõ rệt trong nhóm bệnh
nhân xơ gan. Ông cho rằng 60 ng/ml là điểm cắt
tốt nhất với độ nhạy 78%, độ đặc hiệu 86%, giá
tri tiên đoán dương 62%. Và việc kết hợp các dữ
kiện lâm sàng, cận lâm sàng không xâm lấn và
axit hyaluronic làm tăng giá trị tiên đoán dương
lên 75% mà không làm giảm độ nhạy hay độ đặc
hiệu. Lu(9) và cộng sự cũng cho rằng nồng độ axit
hyaluronic có sự khác biệt có ý nghĩa giữa 2
nhóm xơ gan và không xơ gan (p < 0,01) với độ
nhạy 60%, độ đặc hiệu 90%. Nghiên cứu này
nhận định axit hyaluronic là một xét nghiệm
nhạy và chính xác để xác định độ nặng tổn
thương gan cả khi đánh giá sự viêm và xơ hóa.
Khi phối hợp axit hyaluronic và các chất đánh
dấu sự xơ hóa khác như tiền peptide đầu tận N
của tiền collagen type III (PIIINP), chất ức chế
mô của metalloproteinase type 1 (TIMP), PGA
(chỉ số Prothrombine - gamma glutamyl
transferase - apolipoprotein A1), PGAA (chỉ số
PGA và α2- macroglobuline) làm tăng mức độ
chính xác của chẩn đoán. Ngoài ra axit
hyaluronic còn là thông số chính xác để chẩn
đoán xơ gan giai đoạn sớm với độ đặc hiệu và
mức chính xác lần lượt là 90% và 85%(9).
Oberti(13) so sánh PIIINP, axit hyaluronic,
Laminin, và TGF- ở 243 bệnh nhân có bệnh gan
do rượu và do virút. Tác giả kết luận, axit
hyaluronic có độ chẩn đoán chính xác tốt nhất
(86%). Trị số axit hyaluronic < 60 mg/L được
dùng để làm tiêu chuẩn loại trừ những bệnh
nhân xơ gan hoặc xơ hóa gan nặng với giá trị
tiên đoán lần lượt là 99% và 93%. Trị số axit
hyaluronic thấp có vai trò quan trọng trong xác
định những bệnh nhân xơ hóa giai đoạn đầu và
do đó, giảm nhu cầu sinh thiết gan ở nhóm bệnh
nhân này. Tác giả cho rằng axit hyaluronic là
biến số nhạy nhất trong tầm soát xơ gan(13).
Kaneda(7) và cộng sự nghiên cứu trên những
bệnh nhân gan thoái hóa mỡ nhẹ cho đến xơ
gan, cho thấy, tại giá trị cắt 42 ng/ml, axit
hyaluronic có giá trị chẩn đoán bệnh nhân
không có xơ hoá gan nặng với độ nhạy 100%, độ
đặc hiệu 89%, giá trị tiên đoán âm tính xơ gan là
100%. So với Oberti(13) với giá trị cắt thấp hơn,
Kaneda đạt độ nhạy và độ đặc hiệu tốt hơn
trong chẩn đoán loại trừ xơ hóa gan nặng, đó là
điều có thể giải thích được.
Yilmaz(20) và cộng sự thực hiện nghiên cứu
trên những bệnh nhân viêm gan virút mạn tính,
với giá trị cắt mới là 154 ng/ml, axit hyaluronic
đạt độ đặc hiệu 100%, giá trị tiên đoán dương
100%, giá trị tiên đoán âm 90% cho chẩn đoán xơ
gan. Đó thực sự là những đặc điểm lý tưởng, có
thể nói gần như tuyệt đối, cho một xét nghiệm
chẩn đoán xác định. Như vậy, thiết lập 2 giá trị
cắt, axit hyaluronic cho thấy vai trò đáng chú ý
trong cả tầm soát và chẩn đoán xác định xơ gan.
Khan JA và cộng sự cũng thực hiện một
nghiên cứu trên 100 bệnh nhân viêm gan mạn
năm 2007(8) cùng thời gian với nghiên cứu của
Yilmaz. Tương tự nghiên cứu của chúng tôi,
nghiên cứu của Khan vẫn chọn giá trị cắt của
axit hyaluronic là 60 ng/ml và đối tượng nghiên
cứu là bệnh gan mạn tính, bao gồm nhiều
nguyên nhân. Điểm mạnh trong nghiên cứu của
Khan là có nhóm 50 đối tượng nghiên cứu khoẻ
mạnh, bình thường làm nhóm chứng. Kết quả,
axit hyaluronic khác biệt có ý nghĩa giữa 2 nhóm
bệnh nhân, độ nhạy và độ đặc hiệu của xét
nghiệm này lần lượt là 78,4% và 80,9% và có sự
tương quan thuận mức độ mạnh giữa nồng độ
axit hyaluronic trong máu và mức độ xơ hóa gan
theo mô học(8).
Nghiên cứu của Zhang(21) và cộng sự năm
2008 đánh giá vai trò của axit hyaluronic trên
nhóm bệnh nhân viêm gan virút B mạn tính và
kết luận axit hyaluronic, cùng với chỉ số APRI,
có thể chẩn đoán xơ hóa mức độ trung bình
đến nặng, tương ứng điểm giai đoạn xơ hóa từ
2 đến 4.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 301
Trong nghiên cứu của chúng tôi, khi trị số
axit hyaluronic chọn làm điểm cắt tăng dần về
phía trị số 75 thì độ nhạy không đổi, độ đặc hiệu
tăng dần. Khi tăng hơn giá trị 75, độ đặc hiệu
không tăng thêm mà độ nhạy giảm rõ. Chỉ số
Youden cao nhất tại giá trị axit hyaluronic = 75
ng/ml, với độ nhạy 89,7%, độ đặc hiệu 79%. Để
chứng minh ưu điểm của giá trị cắt này, chúng
tôi nghĩ cần nghiên cứu rộng và sâu hơn.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, với hệ số
tương quan r = 0,63, axit hyaluronic có tương
quan thuận mức độ mạnh với độ tổn thương mô
học của gan (p = 0,000 < 0,01).
Trong cả nghiên cứu của Plevris(14), Felix(5)
và cộng sự và của chúng tôi, axit hyaluronic
đều cho thấy sự tương quan mạnh với giai
đoạn xơ hoá
Mức tương quan thuận mức độ mạnh giữa
axit hyaluronic và điểm phân bậc xơ hoá gan có
thể xem là ưu điểm nổi bật để xét nghiệm này
được xét đến khi theo dõi các bệnh nhân bệnh
gan mạn. Nhất là khi các nghiên cứu về các
thuốc chống xơ hóa bắt đầu được phát triển, axit
hyaluronic sẽ là phương tiện đắc lực để theo dõi
đáp ứng điều trị và nghiên cứu tìm liều điều trị
lý tưởng.
Trong những năm gần đây, axit hyaluronic
được nghiên cứu chuyên biệt hơn, trên từng
nhóm bệnh nhân, và mở rộng hơn, đánh giá các
giá trị khác của axit hyaluronic như giá trị tiên
lượng bệnh, giá trị chẩn đoán khi phối hợp với
các dấu hiệu, triệu chứng khác.
Nghiên cứu của Crawford và cộng sự(3) tại
Úc năm 2009 thực hiện trên bệnh nhân bệnh gan
mạn do ứ sắt di truyền. Trên những bệnh nhân
có nồng độ ferritin > 1 000 microgram/L, axit
hyaluronic > 46,5 ng/ml có độ nhạy và độ đặc
hiệu tuyệt đối 100% khi chẩn đoán xơ gan(3).
Nghiên cứu mới nhất về axit hyaluronic
được công bố tháng 06 năm 2010 của Nunes và
cộ