Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Nội Khoa 296 
GIÁ TRỊ CỦA AXÍT HYALURONIC 
TRONG CHẨN ĐOÁN KHÔNG XÂM LẤN XƠ GAN CÒN BÙ 
Lâm Hoàng Cát Tiên*, Bùi Hữu Hoàng*, Phan Thị Danh**, Đặng Vạn Phước* 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Do những hạn chế của sinh thiết gan, phương pháp chẩn đoán không xâm lấn, sử dụng các triệu 
chứng lâm sàng và cận lâm sàng không xâm lấn, ngày càng được chú ý và phát triển trong chẩn đoán xơ gan. 
Axit Hyaluronic (AH), một polysaccharide cao phân tử quan trọng trong cơ chế bệnh sinh xơ gan, cho thấy có 
giá trị trong chẩn đoán xơ gan và làm tăng giá trị của một mô hình chẩn đoán không xâm lấn trong chẩn đoán 
xơ gan giai đoạn còn bù. 
Mục tiêu: Đánh giá giá trị của Axit Hyaluronic, từ đó xây dựng một mô hình chẩn đoán không xâm lấn để 
chẩn đoán xơ gan giai đoạn còn bù. 
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: 48 bệnh nhân được chẩn đoán bệnh gan mạn tính nhập viện tại 
khoa Tiêu hóa – Gan mật, bệnh viện Chợ Rẫy được đưa vào nghiên cứu. Tất cả bệnh nhân được sinh thiết gan, 
khảo sát các đặc điểm dịch tễ học, triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng thường làm trong chẩn đoán xơ gan và 
định lượng Axit Hyaluronic trong máu. 
Kết quả: Các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng có ý nghĩa trong chẩn đoán xơ gan còn bù là: sao mạch, 
lòng bàn tay son, thời gian Prothrombin kéo dài, bờ gan không đều và lách to trên siêu âm. Nồng độ Axit 
Hyaluronic (AH) trong máu khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm xơ gan và không xơ gan (349,93±447,47 
ng/ml so với 73,37±76,85 ng/ml, p=0,00). Tại giá trị cắt 60 ng/ml, AH có độ nhạy 89,7%, độ đặc hiệu là 63,2%, 
giá trị tiên đoán dương 78,8%, giá trị tiên đoán âm 80%. AH có mối tương quan thuận mức độ mạnh với mức 
độ xơ hóa gan. Khi kết hợp AH và các triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng có ý nghĩa trong chẩn đoán xơ gan 
tìm được trong nghiên cứu thì mô hình chẩn đoán xơ gan không xâm lấn này có độ nhạy là 89,7%, độ đặc hiệu 
84,2%, giá trị tiên đoán dương 89,7%, giá trị tiên đoán âm 84,2%. 
Kết luận: Axit Hyaluronic là dấu ấn sinh hóa có độ nhạy và độ đặc hiệu cao trong chẩn đoán xơ gan. Mô 
hình không xâm lấn có sử dụng Axit Hyaluronic cho thấy có giá trị trong chẩn đoán xơ gan giai đoạn còn bù. 
Từ khóa: axit hyaluronic, chẩn đoán không xâm lấn, xơ gan 
ABSTRACT 
VALUE OF HYALURONIC ACID IN NON-INVASIVE DIAGNOSIS OF COMPENSATED CIRRHOSIS 
Lam Hoang Cat Tien, Bui Huu Hoang, Phan Thi Danh, Dang Van Phuoc 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 296 - 302 
Background: Because of limitations in biopsy procedure, non-invasive method had been developed to 
diagnose cirrhosis. Hyaluronic Acid, an important polysaccharide in the pathophysiology of the cirrhotic liver, 
had been evaluated as a valuable biomarker and could elevate the diagnostic value of a non-invasive assessment 
model in diagnosis of compensated cirrhosis. 
Objectives: We evaluated the diagnostic value of serum Hyaluronic acid itself and then constructed a non-
invasive assessment model to diagnose compensated cirrhosis. 
Method: A total of 48 patients with chronic liver diseases who underwent percutaneous liver biopsy were 
*: Bộ môn Nội Tổng Quát – Đại học Y Dược TPHCM **: Khoa Sinh Hóa bệnh viện Chợ Rẫy 
Tác giả liên lạc: BS Lâm Hoàng Cát Tiên ĐT: 0937 360 960 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 297
prospectively analyzed. All the epidemic characteristics, clinical signs and symptoms, laboratory and imaging 
findings including serum Hyaluronic Acid were assessed at the time of liver biopsy. 
Results: Clinical and laboratory findings which were significantly different in cirrhotic group included: 
spider angiomata, palmar erythema, prolonged Prothrombin time, uneven liver border and splenomegaly on 
ultrasound and elevated serum hyaluronic acid. Serum Hyaluronic Acid levels were statistically higher in 
patients with liver cirrhosis compared to non-cirrhotic group (Mean 349.93±447.47 ng/ml compared to 
73.37±76.85 ng/ml, p=0.00). At the cut-off value of 60 ng/ml, Hyaluronic acid had the sensitivity, specificity, 
PPV and NPV of 89.7%, 63.2%, 78.8%, and 80% respectively. There was a significant correlation between 
Hyaluronic Acid and fibrosis stage (p=0.00). Combining to other clinical and laboratory findings, the non-
invasive diagnostic model had a 84.2% specificity, 89.7% sensitivity, 89.7% PPV and 84.2% NPV. 
Conclusion: Hyaluronic acid is a good biomarker to diagnose liver cirrhosis with high sensitivity and 
specificity. The non-invasive diagnostic model we found using Hyaluronic acid is valuable in diagnosis 
compensated liver cirrhosis. 
Keywords: hyaluronic acid, non-invasive diagnosis, cirrhosis 
MỞ ĐẦU 
Xơ gan thuộc nhóm các nguyên nhân bệnh 
lý gây tử vong hàng đầu trên thế giới(17,19). Tại 
Việt Nam, xơ gan đang có tỉ lệ mắc bệnh và tỉ lệ 
tử vong ngày càng tăng(1,2,18). Đa số bệnh nhân xơ 
gan không được phát hiện bệnh đúng lúc. Có 
những bệnh nhân khi phát hiện bệnh đã có 
những biến chứng nặng nề, thậm chí tử vong 
ngay trong lần đầu nhập viện. Việc điều trị xơ 
gan đã có biến chứng rất tốn kém và không hiệu 
quả. Nếu phát hiện sớm, loại bỏ nguyên nhân, 
điều trị tích cực, có thể đưa đến sự hồi phục của 
gan(9,15). Điều đó cho thấy vấn đề chẩn đoán sớm 
xơ gan là rất quan trọng trong quá trình theo dõi 
bệnh nhân bệnh gan mạn tính. 
Tiêu chuẩn vàng chẩn đoán xơ gan là mô 
học, thông qua sinh thiết gan. Thế nhưng, sinh 
thiết gan là một thủ thuật xâm lấn, có nhiều hạn 
chế như: cách tính điểm mô học chưa được 
thống nhất và áp dụng rộng rãi tại Việt Nam, chi 
phí còn cao, bệnh nhân không dễ chấp nhận, 
biến chứng có thể từ nhẹ như đau, đến nặng hơn 
như nhiễm trùng, máu tụ trong gan, xuất huyết 
nội, thậm chí tử vong(1,4). 
Chẩn đoán xơ gan không xâm lấn là phương 
pháp sử dụng các yếu tố lâm sàng, xét nghiệm 
máu, hình ảnh học và đặc biệt là các chất đánh 
dấu xơ hóa gan trong máu như PIIINP, α2-
macroglobulin, haptoglobin, γ-globulin, 
apolipoprotein A1, TIMP-1, axit 
hyaluronicđang là khuynh hướng được chú ý 
và nghiên cứu sâu rộng hiện nay(9,11,13,16). Trong 
đó, axit hyaluronic được đánh giá là biến số 
chính xác nhất cho độ nặng của quá trình xơ hoá 
gan vì có liên quan mạnh với giai đoạn mô học 
của nhu mô gan(5,10,13,14). Chúng tôi tiến hành 
nghiên cứu này nhằm tìm ra các biến số không 
xâm lấn có ý nghĩa, đặc biệt, đánh giá giá trị của 
axit hyaluronic trong chẩn đoán xơ gan, từ đó 
xây dựng một mô hình chẩn đoán không xâm 
lấn để chẩn đoán xơ gan giai đoạn còn bù. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Cắt ngang phân tích, tiền cứu 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Bệnh nhân nội và ngoại trú của khoa Nội 
Tiêu hóa – Gan mật, bệnh viện Chợ Rẫy được 
chẩn đoán có bệnh lý chủ mô gan mạn (thể hiện 
qua kết quả xét nghiệm men gan tăng hoặc các 
dấu ấn nhiễm vi rút viêm gan B, C dương tính 
từ 6 tháng trở lên và / hoặc siêu âm bụng 2 chiều 
thông thường mới thực hiện kết luận có bệnh lý 
chủ mô gan mạn) chưa có báng bụng và các biến 
chứng nhiễm trùng dịch báng, hôn mê gan, hội 
chứng gan thận, không có tình trạng bệnh lý cấp 
tính nặng kèm theo và không có chống chỉ định 
sinh thiết gan. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Nội Khoa 298 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Bệnh nhân xơ gan mất bù, xơ gan có biến 
chứng, đang có tình trạng bệnh cấp tính nặng 
kèm theo, không đồng ý sinh thiết gan hay được 
sinh thiết gan mà mẫu bệnh phẩm thu được 
không đạt yêu cầu. 
Bệnh nhân được khảo sát các đặc điểm dịch tễ 
học, xét nghiệm huyết học và sinh hóa máu đánh 
giá chức năng gan, các dấu ấn virút viêm gan, nội 
soi thực quản- dạ dày, siêu âm bụng hai chiều, 
định lượng axit hyaluronic trong máu và sinh 
thiết gan dưới hướng dẫn siêu âm hai chiều. 
Dựa trên kết quả giải phẫu bệnh, bệnh nhân 
được phân 2 nhóm: không xơ gan hoặc xơ gan. 
Tất cả các đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng đã 
thu thập được phân tích, so sánh giữa hai nhóm 
bệnh nhân. Các dữ liệu thu được được xử lý 
bằng phần mềm thống kê SPSS 11.5 chạy trên hệ 
điều hành Windows. 
KẾT QUẢ 
Trong thời gian từ 20/10/2005 đến 7/6/2006 có 
48 bệnh nhân được chọn vào nghiên cứu. Tuổi 
trung bình của bệnh nhân là 46 ± 13 tuổi, trong 
đó, 34 bệnh nhân nam, 14 bệnh nhân nữ, tỉ lệ 
nam:nữ = 2,4: 1. Nguyên nhân xơ gan do rượu 
(58,3%), VGVR B (33,3%), VGVR C (8,3%). 
Nguyên nhân phối hợp gặp nhiều hơn, trong đó, 
rượu và VRVG B có tần số cao nhất (27,1%). Có 9 
trường hợp không xác định được nguyên nhân. 
Thực hiện sinh thiết gan, số khoảng cửa 
của mẫu bệnh phẩm thu được tối thiểu là 3, tối 
đa là 11 khoảng cửa. Số khoảng cửa trung bình 
là 5,79 ± 2,41. 
Với kết quả giải phẫu bệnh có được sau sinh 
thiết gan, bệnh nhân trong nghiên cứu được phân 
thành hai nhóm:nhóm không xơ gan có điểm 
phân giai đoạn xơ hóa từ 0 đến 4 điểm gồm 19 
bệnh nhân; nhóm xơ gan có điểm phân giai đoạn 
xơ hóa là 5 và 6 điểm gồm 29 bệnh nhân. 
Bảng 1. So sánh đặc điểm dịch tễ học 
Đặc điểm NC Không xơ gan Xơ gan p 
Tuổi 46 43,74 47,28 0,69 
Giới 2,4:1 11:8 23:6 0,11 
Uống rượu 28 9 19 0,21 
VGVR B 23 9 14 0,95 
VGVR C 10 2 8 0,15 
Bảng 2. So sánh đặc điểm lâm sàng 
Dữ kiện Số bệnh 
nhân 
Không xơ 
gan 
Xơ 
gan 
p 
Lú lẩn nhẹ, rối loạn 
giấc ngủ 
2 0 2 0,24 
Sạm da 12 6 6 0,39 
Vàng kết mạc 12 2 10 0,06 
Sao mạch 16 3 13 0,03 
Lòng bàn tay son 10 0 10 0,004
Tuần hoàn bàng hệ 2 0 2 0,24 
Gan to 1 1 0 0,21 
Lách to 1 0 1 0,41 
Bảng 3. So sánh đặc điểm cận lâm sàng 
Đặc điểm cận lâm sàng Số bệnh nhân Không xơ gan Xơ gan p 
Tiểu cầu giảm 
Thời gian Prothrombine kéo dài 
Tăng Bilirubine 
Tăng AST 
Tăng ALT 
Tỉ lệ AST/ALT > 1 
Giảm Albumine máu 
Tỉ lệ A/G < 1 
Bờ gan không đều 
Độ phản âm nhu mô gan thô 
Lách to trên siêu âm 
Bờ gan không đều và độ phản âm gan thô 
Có 3 triệu chứng siêu âm về gan và lách 
Dãn tĩnh mạch thực quản 
Dãn tĩnh mạch tâm phình vị 
Dãn tĩnh mạch thực quản và tâm phình vị 
26 
17 
20 
36 
18 
17 
8 
13 
26 
44 
10 
24 
7 
27 
8 
5 
8 
2 
5 
11 
5 
12 
2 
4 
7 
17 
1 
7 
1 
8 
2 
2 
18 
15 
15 
25 
13 
5 
6 
9 
19 
27 
9 
17 
6 
19 
6 
3 
0,17 
0,004 
0,08 
0,2 
0,3 
0.1 
0,36 
0,45 
0,049 
0,66 
0,03 
0,06 
0,14 
0,11 
0.36 
0,98 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 299
Bảng 4. Hệ số tương quan giữa các triệu chứng lâm 
sàng và cận lâm sàng với mức độ tổn thương mô học 
Triệu chứng Spearman rho p 
Sao mạch 0,32 0,025
Lòng bàn tay son 0,47 0,001
Thời gian Prothrombine kéo dài 0,50 0,000
Bờ gan không đều 0,43 0,002
Lách to trên siêu âm 0,22 0,128
Bảng 5. Nồng độ Axit Hyaluronic trung bình 
NC Không xơ gan Xơ gan p 
240,46±374,47 73,37±76,85 349,93±447,47 0,00 
Bảng 6.Điểm cắt Axit Hyaluronic và giá trị chẩn 
đoán 
Tại điểm cắt Axit Hyaluronic = 60 ng/ml, độ 
nhạy 89,7%, độ đặc hiệu 63,2%. Giá trị tiên đoán 
dương 78,8%. Giá trị tiên đoán âm 80%, diện tích 
dưới đường cong AUROC = 0,819 
Với hệ số Spearman rho r = 0,63 Axit 
Hyaluronic có tương quan thuận mức độ 
mạnh với độ tổn thương mô học của gan (p = 
0,00 < 0,01 ). 
Sử dụng các yếu tố khác biệt có ý nghĩa 
thống kê giữa 2 nhóm xơ gan và không xô gan, 
lập thành hai mô hình chẩn đoán có và không có 
biến số Axit Hyaluronic: 
Bảng 7.Hai mô hình chẩn đoán 
Mô hình A Mô hình B 
- Sao mạch 
- Lòng bàn tay son 
- Prothrombine kéo dài 
- Bờ gan không đều 
- Lách to 
- Sao mạch 
- Lòng bàn tay son 
- Prothrombine kéo dài 
- Bờ gan không đều 
- Lách to 
-Tăng axit hyaluronic trong máu
- Mô hình A: có sự khác nhau giữa hai nhóm 
với p = 0,006 < 0,01. 
- Mô hình B: có sự khác nhau giữa hai nhóm 
với p = 0,001 < 0,01. 
Bảng 8. Giá trị chẩn đoán của hai mô hình A và B 
Mô 
hình 
Độ 
nhạy
Độ đặc 
hiệu 
Giá trị tiên 
đoán dương 
Giá trị tiên đoán 
âm 
A 75,9 84,2 88 69,6 
B 89,7 84,2 89,7 84,2 
BÀN LUẬN 
Triệu chứng LS, CLS 
NC của chúng tôi cho thấy giá trị không 
cao của các triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng 
thông thường đánh giá chức năng gan khi 
dùng đơn độc trong chẩn đoán xơ gan. Các 
triệu chứng sao mạch, lòng bàn tay son, thời 
gian Prothrombin kéo dài, bờ gan không đều, 
lách to trên siêu âm tuy có khác biệt có ý nghĩa 
thông kê giữa 2 nhóm nhưng sự tương quan 
với mức độ xơ hóa gan chỉ ở mức yếu đến 
trung bình. Điều này tương tự kết quả nghiên 
cứu của Oberti(13), Gordon(6), Lu(9) và cộng sự 
khi họ kết luận rằng không có mô hình tiên 
đoán xơ gan nào chỉ sử dụng những triệu 
chứng lâm sàng. Các nghiên cứu khác về 
phương pháp chẩn đoán xơ gan không xâm 
lấn của Nezam(11) và Scott(16) cũng cho rằng 
triệu chứng lâm sàng đơn độc không có ý 
nghĩa trong chẩn đoán xơ gan. 
 Axit Hyaluronic 
Axit hyaluronic, còn gọi là hyaluronate hay 
hyaluronan, là một glycosaminoglycan, 
polysaccharide cao phân tử được xếp vào 
nhóm chất đánh dấu xơ hóa gan trực tiếp, liên 
quan đến cả sự lắng đọng và đào thải chất nền 
ngoại bào, hai hiện tượng quan trọng trong 
quá trình xơ hóa. 
Mc Hutchinson(10) và cộng sự trong nghiên 
cứu năm 2000 đã cho rằng axit hyaluronic > 60 
ng/ml là yếu tố tiên đoán xơ gan với độ chính 
xác trung bình và axit hyaluronic < 60 ng/ml là 
yếu tố tiên đoán âm của xơ gan với độ chính xác 
cao. Tương tự, Plevris(14) và cộng sự cũng kết 
luận nồng độ axit hyaluronic cao hơn có ý nghĩa 
trong nhóm bệnh nhân xơ gan, không có sự 
khác biệt có ý nghĩa về nồng độ axit hyaluronic 
giữa các nhóm nguyên nhân xơ gan với nhau và 
nồng độ axit hyaluronic tăng tỉ lệ với độ nặng 
Điểm chặn Độ nhạy Độ đặc 
hiệu 
1- Độ đặc 
hiệu 
Chỉ số 
Youden 
55 0,897 0,526 0,474 0,423 
60 0,897 0,632 0,368 0,529 
75 0,897 0,79 0,21 0,687 
80 0,862 0,79 0,21 0,652 
90 0,79 0,79 0,21 0,58 
100 0,69 0,79 0,21 0,48 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Nội Khoa 300 
của xơ gan. Tuy nhiên, Plevris chọn giá trị cắt là 
100 ng/ml. Với giá trị này, axit hyaluronic có độ 
nhạy 83%, độ đặc hiệu 78%. Khi giá trị cắt là 300 
ng/ml, axit hyaluronic đạt độ đặc hiệu khá cao, 
đến 96%(14). 
Adam Gordon(6) cũng kết luận nồng độ axit 
hyaluronic cao một cách rõ rệt trong nhóm bệnh 
nhân xơ gan. Ông cho rằng 60 ng/ml là điểm cắt 
tốt nhất với độ nhạy 78%, độ đặc hiệu 86%, giá 
tri tiên đoán dương 62%. Và việc kết hợp các dữ 
kiện lâm sàng, cận lâm sàng không xâm lấn và 
axit hyaluronic làm tăng giá trị tiên đoán dương 
lên 75% mà không làm giảm độ nhạy hay độ đặc 
hiệu. Lu(9) và cộng sự cũng cho rằng nồng độ axit 
hyaluronic có sự khác biệt có ý nghĩa giữa 2 
nhóm xơ gan và không xơ gan (p < 0,01) với độ 
nhạy 60%, độ đặc hiệu 90%. Nghiên cứu này 
nhận định axit hyaluronic là một xét nghiệm 
nhạy và chính xác để xác định độ nặng tổn 
thương gan cả khi đánh giá sự viêm và xơ hóa. 
Khi phối hợp axit hyaluronic và các chất đánh 
dấu sự xơ hóa khác như tiền peptide đầu tận N 
của tiền collagen type III (PIIINP), chất ức chế 
mô của metalloproteinase type 1 (TIMP), PGA 
(chỉ số Prothrombine - gamma glutamyl 
transferase - apolipoprotein A1), PGAA (chỉ số 
PGA và α2- macroglobuline) làm tăng mức độ 
chính xác của chẩn đoán. Ngoài ra axit 
hyaluronic còn là thông số chính xác để chẩn 
đoán xơ gan giai đoạn sớm với độ đặc hiệu và 
mức chính xác lần lượt là 90% và 85%(9). 
Oberti(13) so sánh PIIINP, axit hyaluronic, 
Laminin, và TGF- ở 243 bệnh nhân có bệnh gan 
do rượu và do virút. Tác giả kết luận, axit 
hyaluronic có độ chẩn đoán chính xác tốt nhất 
(86%). Trị số axit hyaluronic < 60 mg/L được 
dùng để làm tiêu chuẩn loại trừ những bệnh 
nhân xơ gan hoặc xơ hóa gan nặng với giá trị 
tiên đoán lần lượt là 99% và 93%. Trị số axit 
hyaluronic thấp có vai trò quan trọng trong xác 
định những bệnh nhân xơ hóa giai đoạn đầu và 
do đó, giảm nhu cầu sinh thiết gan ở nhóm bệnh 
nhân này. Tác giả cho rằng axit hyaluronic là 
biến số nhạy nhất trong tầm soát xơ gan(13). 
Kaneda(7) và cộng sự nghiên cứu trên những 
bệnh nhân gan thoái hóa mỡ nhẹ cho đến xơ 
gan, cho thấy, tại giá trị cắt 42 ng/ml, axit 
hyaluronic có giá trị chẩn đoán bệnh nhân 
không có xơ hoá gan nặng với độ nhạy 100%, độ 
đặc hiệu 89%, giá trị tiên đoán âm tính xơ gan là 
100%. So với Oberti(13) với giá trị cắt thấp hơn, 
Kaneda đạt độ nhạy và độ đặc hiệu tốt hơn 
trong chẩn đoán loại trừ xơ hóa gan nặng, đó là 
điều có thể giải thích được. 
Yilmaz(20) và cộng sự thực hiện nghiên cứu 
trên những bệnh nhân viêm gan virút mạn tính, 
với giá trị cắt mới là 154 ng/ml, axit hyaluronic 
đạt độ đặc hiệu 100%, giá trị tiên đoán dương 
100%, giá trị tiên đoán âm 90% cho chẩn đoán xơ 
gan. Đó thực sự là những đặc điểm lý tưởng, có 
thể nói gần như tuyệt đối, cho một xét nghiệm 
chẩn đoán xác định. Như vậy, thiết lập 2 giá trị 
cắt, axit hyaluronic cho thấy vai trò đáng chú ý 
trong cả tầm soát và chẩn đoán xác định xơ gan. 
Khan JA và cộng sự cũng thực hiện một 
nghiên cứu trên 100 bệnh nhân viêm gan mạn 
năm 2007(8) cùng thời gian với nghiên cứu của 
Yilmaz. Tương tự nghiên cứu của chúng tôi, 
nghiên cứu của Khan vẫn chọn giá trị cắt của 
axit hyaluronic là 60 ng/ml và đối tượng nghiên 
cứu là bệnh gan mạn tính, bao gồm nhiều 
nguyên nhân. Điểm mạnh trong nghiên cứu của 
Khan là có nhóm 50 đối tượng nghiên cứu khoẻ 
mạnh, bình thường làm nhóm chứng. Kết quả, 
axit hyaluronic khác biệt có ý nghĩa giữa 2 nhóm 
bệnh nhân, độ nhạy và độ đặc hiệu của xét 
nghiệm này lần lượt là 78,4% và 80,9% và có sự 
tương quan thuận mức độ mạnh giữa nồng độ 
axit hyaluronic trong máu và mức độ xơ hóa gan 
theo mô học(8). 
Nghiên cứu của Zhang(21) và cộng sự năm 
2008 đánh giá vai trò của axit hyaluronic trên 
nhóm bệnh nhân viêm gan virút B mạn tính và 
kết luận axit hyaluronic, cùng với chỉ số APRI, 
có thể chẩn đoán xơ hóa mức độ trung bình 
đến nặng, tương ứng điểm giai đoạn xơ hóa từ 
2 đến 4. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 301
Trong nghiên cứu của chúng tôi, khi trị số 
axit hyaluronic chọn làm điểm cắt tăng dần về 
phía trị số 75 thì độ nhạy không đổi, độ đặc hiệu 
tăng dần. Khi tăng hơn giá trị 75, độ đặc hiệu 
không tăng thêm mà độ nhạy giảm rõ. Chỉ số 
Youden cao nhất tại giá trị axit hyaluronic = 75 
ng/ml, với độ nhạy 89,7%, độ đặc hiệu 79%. Để 
chứng minh ưu điểm của giá trị cắt này, chúng 
tôi nghĩ cần nghiên cứu rộng và sâu hơn. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy, với hệ số 
tương quan r = 0,63, axit hyaluronic có tương 
quan thuận mức độ mạnh với độ tổn thương mô 
học của gan (p = 0,000 < 0,01). 
Trong cả nghiên cứu của Plevris(14), Felix(5) 
và cộng sự và của chúng tôi, axit hyaluronic 
đều cho thấy sự tương quan mạnh với giai 
đoạn xơ hoá 
Mức tương quan thuận mức độ mạnh giữa 
axit hyaluronic và điểm phân bậc xơ hoá gan có 
thể xem là ưu điểm nổi bật để xét nghiệm này 
được xét đến khi theo dõi các bệnh nhân bệnh 
gan mạn. Nhất là khi các nghiên cứu về các 
thuốc chống xơ hóa bắt đầu được phát triển, axit 
hyaluronic sẽ là phương tiện đắc lực để theo dõi 
đáp ứng điều trị và nghiên cứu tìm liều điều trị 
lý tưởng. 
Trong những năm gần đây, axit hyaluronic 
được nghiên cứu chuyên biệt hơn, trên từng 
nhóm bệnh nhân, và mở rộng hơn, đánh giá các 
giá trị khác của axit hyaluronic như giá trị tiên 
lượng bệnh, giá trị chẩn đoán khi phối hợp với 
các dấu hiệu, triệu chứng khác. 
Nghiên cứu của Crawford và cộng sự(3) tại 
Úc năm 2009 thực hiện trên bệnh nhân bệnh gan 
mạn do ứ sắt di truyền. Trên những bệnh nhân 
có nồng độ ferritin > 1 000 microgram/L, axit 
hyaluronic > 46,5 ng/ml có độ nhạy và độ đặc 
hiệu tuyệt đối 100% khi chẩn đoán xơ gan(3). 
Nghiên cứu mới nhất về axit hyaluronic 
được công bố tháng 06 năm 2010 của Nunes và 
cộ