Mục tiêu: Mô tả những thay đổi trên lâm sàng của mô nha chu ở phụ nữ mang thai (PNMT) theo từng quí
của thai kỳ và đánh giá mức độ hiểu biết của PNMT về chăm sóc sức khỏe răng miệng.
Phương pháp: Nghiên cứu dọc được tiến hành trên 31 PNMT tại BV An Bình TPHCM. Các sản phụ
được phỏng vấn và điền vào bảng câu hỏi về cách chăm sóc sức khỏe răng miệng trong lần khám đầu tiên ở quí 1.
Tất cả các PNMT được đánh giá tình trạng nha chu 3 lần ở quí 1, quí 2 và quí 3 để ghi nhận chỉ số mảng bám
(PlI), chỉ số nướu (GI), chảy máu nướu khi thăm khám (BOP) và độ sâu túi nha chu qua thăm dò (PPD).
Kết quả: Ghi nhận 100% PNMT bị viêm nướu ở cả 3 quí của thai kỳ. Mặc dù chỉ số PlI hầu như không
thay đổi qua 3 quí của thai kỳ nhưng các chỉ số GI, BOP, PPD đều tăng từ quí 1 đến quí 2, sau đó giảm ở quí 3.
Hiểu biết của PNMT về sức khỏe răng miệng còn kém, đa số không biết về bệnh nha chu (77,4%), tồn tại quan
niệm lạc hậu như kiêng chải răng hoàn toàn sau sanh ít nhất 1 tháng (67,7%), không nên đi khám răng trong
thời gian mang thai (83,9%).
Kết luận: Mô nha chu nhạy cảm hơn đối với tình trạng viêm trong giai đoạn mang thai, đặc biệt thấy rõ
nhất ở quí 2. Kiến thức về răng miệng của PNMT còn kém. Việc xây dựng chương trình giáo dục sức khỏe răng
miệng cho PNMT là cần thiết để cung cấp kiến thức về cách chăm sóc răng miệng trong thời gian mang thai và
sau sanh, từ đó cải thiện sức khỏe răng riệng và sức khỏe chung cho PNMT.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 272 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình trạng nha chu của phụ nữ mang thai theo từng quí của thai kỳ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 102
TÌNH TRẠNG NHA CHU CỦA PHỤ NỮ MANG THAI
THEO TỪNG QUÍ CỦA THAI KỲ
Trần Thị Bích Châu*, Nguyễn Thị Kim Anh*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả những thay đổi trên lâm sàng của mô nha chu ở phụ nữ mang thai (PNMT) theo từng quí
của thai kỳ và đánh giá mức độ hiểu biết của PNMT về chăm sóc sức khỏe răng miệng.
Phương pháp: Nghiên cứu dọc được tiến hành trên 31 PNMT tại BV An Bình TPHCM. Các sản phụ
được phỏng vấn và điền vào bảng câu hỏi về cách chăm sóc sức khỏe răng miệng trong lần khám đầu tiên ở quí 1.
Tất cả các PNMT được đánh giá tình trạng nha chu 3 lần ở quí 1, quí 2 và quí 3 để ghi nhận chỉ số mảng bám
(PlI), chỉ số nướu (GI), chảy máu nướu khi thăm khám (BOP) và độ sâu túi nha chu qua thăm dò (PPD).
Kết quả: Ghi nhận 100% PNMT bị viêm nướu ở cả 3 quí của thai kỳ. Mặc dù chỉ số PlI hầu như không
thay đổi qua 3 quí của thai kỳ nhưng các chỉ số GI, BOP, PPD đều tăng từ quí 1 đến quí 2, sau đó giảm ở quí 3.
Hiểu biết của PNMT về sức khỏe răng miệng còn kém, đa số không biết về bệnh nha chu (77,4%), tồn tại quan
niệm lạc hậu như kiêng chải răng hoàn toàn sau sanh ít nhất 1 tháng (67,7%), không nên đi khám răng trong
thời gian mang thai (83,9%).
Kết luận: Mô nha chu nhạy cảm hơn đối với tình trạng viêm trong giai đoạn mang thai, đặc biệt thấy rõ
nhất ở quí 2. Kiến thức về răng miệng của PNMT còn kém. Việc xây dựng chương trình giáo dục sức khỏe răng
miệng cho PNMT là cần thiết để cung cấp kiến thức về cách chăm sóc răng miệng trong thời gian mang thai và
sau sanh, từ đó cải thiện sức khỏe răng riệng và sức khỏe chung cho PNMT.
Từ khoá: Mô nha chu, thai kỳ, sau khi sanh.
ABSTRACT
PERIODONTAL STATUS IN PREGNANT WOMEN DURING PREGNANCY
Tran Thi Bich Chau, Nguyen Thi kim Anh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 2 - 2012: 102 - 107
Objectives: Describe clinical changes in periodontium of pregnant women during pregnancy and evaluate
their knowledge about oral health care.
Methods: Longitudial study was conducted on 31 pregnant women at An Binh hospital, Ho Chi Minh city.
The pregnant women were interviewed and filled out questionnaires about knowledge oral health care in the first
examination. All of the pregnant women were investigated periodontal status three times during their first,
second, and third trimester in order to reveal plaque index (PlI), gingival index (GI), bleeding on probing (BOP),
probing pocket depth (PPD).
Results: 100% of pregnant women with gingivitis. Although PlI stayed invariable during the follow-up;
however, GI, BOP, PPD increased between the first and second trimester, and thereafter decreased at the third
trimester. 77.4% did not acknowledge the harm of periodontal diseases. 67.7% agreed that tooth brushing should
abstain completely after delivery. 83.9% supposed that it should not take checking tooth in pregnant period.
* Khoa RHM, Đại học Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: ThS Trần Thị Bích Châu ĐT: 0913166411 Email: bchautt@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 103
Conclusion: Periodontal tissue more susceptible to inflammation in the period of pregnancy, especially in
second trimester. Knowledge and awareness for pregnant women about oral health is generally poor. Pregnant
women need to be provided with accurate information in taking care of oral health during pregnancy and after
delivery to improved oral and general health.
Keywords: Periodontium, pregnant period, after delivery.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tình trạng nha chu ở phụ nữ mang thai
(PNMT) là một trong những chủ đề được quan
tâm nhiều trong suốt bốn thập niên qua; tuy
nhiên vẫn còn nhiều vấn đề tranh cãi(5). Tăng
mức hormone trong thai kỳ được cho là có liên
quan đến tăng nhạy cảm đối với sự viêm nướu
mà không liên quan đến số lượng mảng bám
(Silness & Loe 1964, Hugoson 1971)(13,6) nhưng
một nghiên cứu khác lại không thấy có mối liên
quan giữa tăng mức hormone trong thai kỳ và
tăng viêm nướu(5). Có lẽ quan điểm chung nhất
của các nhà lâm sàng là mô nha chu khỏe mạnh
không bị ảnh hưởng bởi thai kỳ, và mang thai tự
nó không gây viêm nướu nhưng mảng bám và
vôi răng là điều kiện cần có để kích thích làm
trầm trọng thêm tình trạng viêm nướu vốn có từ
trước. Có bốn giả thiết giải thích cho tình trạng
này như tăng tính thấm thành mạch, thay đổi
hình dạng nướu, giảm hệ thống miễn dịch và
thay đổi màng phím trên và dưới nướu(4).
Những thay đổi ở mô nha chu trong thời kỳ
mang thai đã được nghiên cứu trên nhiều cộng
đồng dân tộc khác nhau, kết quả về tỷ lệ viêm
nướu ở PNMT thay đổi từ 35% đến 100%(4,10,14).
Tại Việt Nam, tỷ lệ viêm nướu ở PNMT là 70,6%
theo nghiên cứu của Đặng Huệ Hồng và 100%
theo nghiên cứu của Phan Thị Kim Tuyết. Một
số nghiên cứu cho thấy khuynh hướng chảy
máu nướu tăng có ý nghĩa từ quí 1 đến quí 3 của
thai kỳ cùng với tăng mức estrogen và
progesterone(8,6,15), và chỉ số chảy máu nướu cao
nhất được thấy giữa quí 1 và quí 2(1). Ngoài ra,
mức độ viêm nướu được thấy tăng có ý nghĩa
suốt quí 2 và quí 3 của thai kỳ và giảm rõ rệt 3
tháng sau sanh(1,8,15).
Hiện nay, hầu hết các nghiên cứu liên quan
đến viêm nướu trong thai kỳ là những nghiên
cứu cắt ngang nên khó đánh giá được mối liên
quan giữa thai kỳ và sự thay đổi của mô nha
chu. Với mong muốn tìm hiểu tình trạng nha
chu của PNMT thay đổi như thế nào trong thời
gian mang thai, chúng tôi thực hiện đề tài
nghiên cứu này với mục tiêu:
Mô tả tình trạng nha chu trên lâm sàng theo
từng quí của thai kỳ gồm:
- Xác định tình trạng nha chu của PNMT
qua các chỉ số nha chu (gồm: chỉ số mảng bám
PlI, chỉ số nướu GI, phần trăm chảy máu nướu
khi thăm khám BOP, độ sâu túi nha chu qua
thăm dò PPD) theo từng quí của thai kỳ.
- Đánh giá sự thay đổi các chỉ số nha chu
qua 3 quí của thai kỳ.
- Xác định tỷ lệ viêm nha chu, viêm nướu và
u nướu thai nghén theo từng quí của thai kỳ.
Mô tả mức độ hiểu biết, thái độ và thói quen
của PNMT về CSSKRM.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu dọc, mô tả.
Mẫu nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu gồm 31 PNMT từ tuần
thứ 10 đến tuần thứ 13 của thai kỳ (quí 1) đến
khám thai tại Khoa Sản Bệnh Viện An Bình
(BVAB). Mỗi sản phụ sẽ được đánh giá tình
trạng nha chu 3 lần ở cuối mỗi quí: quí 1 (10 –
13 tuần), quí 2 (20 – 25 tuần), quí 3 (32 – 36
tuần). Thời gian nghiên cứu kéo dài từ tháng
2 đến tháng 9 năm 2011.
Kỹ thuật chọn mẫu
Chọn mẫu thuận tiện.
Tiêu chí loại trừ
Đối tượng có tiền sử hay hiện diện các bệnh
toàn thân như tim mạch, tiểu đường, cao huyết
áp,; hút thuốc, uống rượu, nghiện heroin; sử
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 104
dụng kháng sinh, kháng viêm trong vòng 3 tuần
trở lại đây.
Phương tiện nghiên cứu
Cây thăm dò độ sâu túi nha chu William có
chia vạch mm.
Bảng câu hỏi: thu thập thông tin về hiểu
biết, thái độ và thói quen của PNMT về cách
CSSKRM (số lần chải răng, lần khám răng gần
nhất, hiểu biết về bệnh nha chu).
Phiếu khám để ghi nhận tình trạng nha chu:
đối tượng được đánh giá tình trạng nha chu qua
các chỉ số mảng bám (PlI) theo Silness và Loe
1964, chỉ số nướu (GI) theo Loe và Silness 1963,
chảy máu nướu khi thăm dò (BOP), độ sâu túi
nha chu qua thăm dò (PPD).
Các bước tiến hành nghiên cứu
Bác sĩ sản khoa khám và xác định tuổi thai
cho tất cả các sản phụ đến khám thai tại khoa
sản BVAB. Những PNMT ở vào tuần thứ 10 đến
tuần thứ 13 của thai kỳ được bác sĩ RHM giải
thích mục đích nghiên cứu. Những sản phụ
đồng ý việc theo dõi và khám thai theo đúng
lịch hẹn tại BVAB trong suốt quá trình mang
thai mới được chọn vào mẫu nghiên cứu.
Việc phỏng vấn được thực hiện trong lần
khám đầu tiên. Thư kí sẽ phỏng vấn bằng cách
hỏi trực tiếp các câu hỏi theo như bảng câu hỏi
đã soạn sẵn.
Đối tượng được bác sĩ RHM khám đánh giá
tình trạng nha chu trên tất cả các răng hiện diện
trong miệng trừ các răng cối lớn thứ 3.
Hẹn sản phụ tái đánh giá tình trạng nha chu
ở quí 2 và quí 3 kết hợp theo lịch hẹn của bác sĩ
sản khoa.
Xác định viêm nướu dựa theo điểm của GI.
Viêm nướu khi chỉ số GI ≥ 0,1.
Mức độ viêm nướu: dựa trên điểm của GI
chia làm 3 mức độ viêm nướu:
0,1 1: Viêm nướu nhẹ.
1,1 2: Viêm nướu trung bình.
2,1 3: Viêm nướu nặng.
Xác định viêm nha chu khi cá thể có ≥ 4 vị trí
có túi nha chu ≥ 4 mm.
Xử lý và phân tích số liệu
Nhập số liệu bằng phần mềm Excel 2007 và
xử lý số liệu bằng phần mềm Stata 10.
Dùng phép kiểm t-test bắp cặp so sánh 2 số
trung bình của 2 quí.
Kiểm định ANOVA đo lường lặp lại so sánh
3 số trung bình của 3 quí.
Kiểm định chi bình phương McNemar so
sánh tỷ lệ của 2 quí.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Giá trị các chỉ số nha chu và sự thay đổi
của những chỉ số này theo các quí của thai
kỳ
Chỉ số mảng bám (PlI)
PlI nói lên tình trạng vệ sinh răng miệng của
bệnh nhân. Trong nghiên cứu của chúng tôi,
trung bình PlI giảm từ quí 1 đến quí 2 và quí 3.
Tuy nhiên sự giảm này không có ý nghĩa thống
kê (Bảng 1). Kết quả này tương tự như kết quả
nghiên cứu dọc của các tác giả Tilakaratne,
Gursoy và Figuero(4,5,15).
Kết quả nghiên cứu cho thấy có khuynh
hướng giảm mức chỉ số mảng bám trong suốt
thai kỳ. Điều này có thể lý giải do hiệu quả của
việc hướng dẫn vệ sinh răng miệng sau mỗi lần
khám. Nghiên cứu của Gursoy (2008) đã cho
thấy giảm mức PlI ở những PNMT được hướng
dẫn vệ sinh răng miệng trong lần khám đầu.
Ngoài ra, chỉ số mảng bám cao ở quí 1 cũng có
thể do tình trạng nôn ói trong suốt những tuần
đầu của thai kỳ. Hầu hết các PNMT cho rằng
gần như không thể chải răng, đặc biệt ở vùng
răng sau do sự nôn ói liên quan thai nghén.
Chỉ số nướu (GI), chảy máu nướu khi thăm
khám (BOP) và độ sâu túi nha chu qua thăm
dò (PPD)
Kết quả ở Bảng 1 cho thấy trung bình GI,
BOP, PPD thay đổi có ý nghĩa suốt thai kỳ. GI,
BOP, PPD tăng có ý nghĩa từ quí 1 đến quí 2,
sau đó các chỉ số này giảm có ý nghĩa ở quí 3
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 105
của thai kỳ. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi
giống nghiên cứu dọc của Gursoy và
Fernando(3,5). Kết quả của Fernando cho thấy GI,
BOP, PPD tăng từ quí 1 đến quí 3 của thai kỳ
nhưng đạt đỉnh điểm ở tháng thứ 7, sau đó giảm
ở tháng cuối của thai kỳ. Ngoài ra, Wandera
(2009)(16) cũng nhận thấy BOP ở quí 2 cao hơn ở
quí 3 của thai kỳ.
Sự tăng và giảm chỉ số GI, BOP và PPD
trong nghiên cứu của chúng tôi có thể lý giải là
do có mối liên quan đến sự thay đổi mức
hormone trong thời kỳ mang thai. Vì nồng độ
hormone progesterone và estrogen trong máu
bắt đầu tăng từ tháng thứ 2, tăng liên tục đến
tháng thứ 8. Sau tháng thứ 8 có sự giảm đột ngột
bài tiết các hormone này(7,11). Trong khi đó việc
khám đánh giá của chúng tôi thực hiện ở cuối
quí 3 (tức là tháng thứ 9 của thai kỳ), điều này
phần nào lý giải cho sự giảm chỉ số GI, BOP và
PPD ở quí 3 của chúng tôi.
Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của chúng tôi
khác với nghiên cứu dọc của Tilakaratne (2000)
và Figuero (2010). Hai tác giả này nhận thấy chỉ
số GI tăng từ quí 1 đến quí 2 và tiếp tục tăng khi
sang quí 3.
Bảng 1: Trung bình các chỉ số nha chu (PlI, GI, PPD, vị trí BOP) ở 3 quí của thai kỳ.
Thời gian khám Tuần 10 – 13 (Quí 1) Tuần 20 – 25 (Quí 2) Tuần 32 – 36 (Quí 3) p
Trung bình PlI 1,27 ± 0,25 1,25 ± 0,24 1,25 ± 0,25
Giá trị p p1-2= 0,16 p2-3 = 0,83 p1-3 = 0,49 p*=0,53
Trung bình GI 1,21 ± 0,14 1,32 ± 0,15 1,27 ± 0,15
Giá trị p p1-2 < 0,001 p2-3 = 0,02 p1-3 = 0,05 p*<0,001
Trung bình PPD 1,82 ± 0,27 1,99 ± 0,32 1,89 ± 0,35
Giá trị p p1-2 < 0,001 p2-3 = 0,01 p1-3 = 0,08 p*<0,001
Trung bình số vị trí BOP 28,35 ± 13,95 41,74 ± 19,1 35,7± 16,16
Giá trị p p1-2 < 0,001 p2-3 = 0,02 p1-3 = 0,018 p*<0,001
Kiểm định t-test bắt cặp.
Kiểm định ANOVA đo lường lặp lại.
PlI GI
PPD BOP
Biểu đồ 1: Các chỉ số nha chu qua 3 quí của thai kỳ.
Sự thay đổi các chỉ số nha chu qua 3 quí của
thai kỳ được biểu hiện ở Biểu đồ 1. Chúng tôi
nhận thấy: chỉ số PlI gần như không thay đổi
qua 3 quí của thai kỳ nhưng chỉ số GI, BOP, PPD
đều tăng từ quí 1 đến quí 2 và giảm ở quí 3. Mặc
dù PlI không thay đổi nhưng trung bình PlI
tương đối cao. Chính tình trạng vệ sinh răng
miệng không sạch là điều kiện tiên quyết cần có
để cho sự thay đổi của hormone giới tính trong
máu lúc mang thai tác động làm nặng thêm tình
trạng viêm nướu vốn có từ trước. Theo
Hugoson (1971), những thay đổi hormone trong
máu không ảnh hưởng lên mô nướu khỏe mạnh
nếu duy trì được tình trạng không mảng bám.
Tình trạng bệnh nha chu theo các quí của
thai kỳ
Tỷ lệ và mức độ viêm nướu trong thai kỳ
(Bảng 2)
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ viêm
nướu của PNMT ở cả 3 quí của thai kỳ là 100%.
Về mức độ viêm nướu: hầu hết PNMT đều
bị viêm nướu ở mức độ trung bình, chỉ có 1 ca
viêm nướu nhẹ ở quí 1 nhưng cũng đã chuyển
qua viêm nướu mức trung bình ở quí 2 và 3.
Tuy nhiên, không có trường hợp nào là viêm
nướu nặng.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 106
Trong nghiên cứu này, 100% PNMT bị viêm
nướu ở cả 3 quí là quá cao, điều này phản ánh
tình trạng răng miệng của PNMT còn kém. Kết
quả này tương tự với kết quả nghiên cứu cắt
ngang của Phan Thị Kim Tuyết (2006) có tỷ lệ
viêm nướu là 100%, đa số là viêm nướu mức độ
trung bình (97,9%) và tỷ lệ viêm nướu của
Sarlati (2004)(12) là 92,1%. Tuy nhiên, kết quả tỷ lệ
viêm nướu của chúng tôi cao hơn so với nghiên
cứu của Đặng Huệ Hồng (2001) chiếm 70,6%.
Bảng 2. Mức độ viêm nướu dựa theo trung bình GI
qua 3 quí của thai kỳ.
Mức độ viêm nướu
(theo TB GI)
Quí I
n(%)
Quí II
n(%)
Quí III
n(%)
Nhẹ (0,1–1) 1 (3,2) 0 (0,0) 0 (0,0)
Trung bình (1,1–2) 30(96,8) 31 (100) 31 (100)
Nặng (2,1–3) 0 (0,0) 0 (0,0) 0 (0,0)
Tỷ lệ viêm nha chu ở 3 quí của thai kỳ
Tỷ lệ viêm nha chu của PNMT ở quí 1, quí
2 và quí 3 lần lượt là 9,68%, 25,8% và 19,35%.
Tỷ lệ viêm nha chu tăng có ý nghĩa từ quí 1
đến quí 2, sau đó giảm nhẹ ở quí 3 (không có
ý nghĩa thống kê).
Tỷ lệ phần trăm u nướu thai nghén trong thai
kỳ
Có một ca u nướu thai nghén trên PNMT 25
tuổi khi thai kỳ được 22 tuần. U có đường kính
8mm nằm ở giữa răng nanh và răng cối nhỏ
hàm trên bên trái. U vẫn giữ nguyên kích thước
cho tới lần khám sau (quí 3).
Ở quí 1 không thấy sản phụ nào bị u nướu
thai nghén, nhưng qua quí 2 và 3 có một trường
hợp bị u nướu thai nghén với tỷ lệ 3,2%. Theo
nghiên cứu của Salarti (2004), tỷ lệ u nướu thai
nghén là 0,7% và của Phan Thị Kim Tuyết (2006)
là 1,4%. Gần đây nghiên cứu dọc của Gursoy
(2008) trên 30 PNMT cũng tìm thấy một trường
hợp u nướu thai nghén ở vào quí thứ 2 của thai
kỳ chiếm tỷ lệ 3,3%.
Mức độ hiểu biết, thái độ và thói quen
CSRM của PNMT
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy:
Hầu hết các PNMT trong nghiên cứu này
chưa từng nghe biết đến bệnh nha chu (77,4%).
Có đến 83,9% PNMT cho rằng không nên đi
khám răng miệng trong thời gian mang thai.
Hơn một nữa PNMT có thái độ kiêng chải
răng ít nhất 1 tháng sau sanh (67,7%).
Đa số PNMT có thói quen chải răng 2 lần/
ngày (80,6%).
Ít PNMT có thói quen chải răng 3 lần/ ngày
(9,7%).
Hầu hết PNMT không có thói quen khám
răng định kỳ tối thiểu 1 năm/ 1 lần. Có đến
80,6% phụ nữ đã kiểm tra răng lần cuối cách nay
> 2 năm.
Với điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau và
có sự khác biệt về chương trình chăm sóc sức
khỏe răng miệng giữa các quốc gia, chúng tôi
chỉ bàn luận những kết quả trong tình hình thực
tế ở nước ta. Ở Việt Nam, chương trình chăm
sóc sức khỏe sinh sản có được quan tâm nhưng
chương trình chăm sóc sức khỏe răng miệng
hầu như bị bỏ qua. Đây cũng là tình trạng
chung của các nước đang phát triển. Nghiên cứu
của chúng tôi có tới 77,4% PNMT chưa hề nghe
nói đến bệnh nha chu. Kết quả này tương tự
nghiên cứu cắt ngang của Phan Thị Kim Tuyết
(2006) thực hiện trên 146 PNMT tại Tiền Giang
đã ghi nhận có đến 88,4% PNMT biết thuốc lá có
hại đến sức khỏe nhưng chỉ có 21,2% PNMT biết
đến bệnh nha chu. Điều này cho thấy kiến thức
của PNMT về sức khỏe chung là tương đối tốt
nhưng hiểu biết về sức khỏe răng miệng còn quá
kém.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 107
Kết quả của chúng tôi cho thấy có đến 80,6%
PNMT không đi kiểm tra răng miệng trong
vòng 2 năm và không sản phụ nào được chăm
sóc răng miệng trong vòng 1 năm trở lại đây.
Điều này có thể do thiếu hiểu biết hay thông tin
về sức khỏe răng miệng chưa đầy đủ hoặc do
chi phí cho việc điều trị răng miệng khá cao cho
những người có thu nhập thấp cũng thật sự là
rào cản cho họ có được sự chăm sóc răng miệng
đúng đắn. Ngoài ra, có thể do hạn chế về tình
trạng KT- XH thấp cũng ảnh hưởng đến thói
quen chăm sóc răng miệng định kỳ.
Nhiều quan niệm lạc hậu về sức khỏe răng
miệng vẫn còn tồn tại khá rộng rãi trong cộng
đồng PNMT như không khám và điều trị răng
miệng trong lúc mang thai, kiêng chải răng hoàn
toàn ít nhất 1 tháng sau sanh. Cụ thể như trong
nghiên cứu của chúng tôi có đến 67,7% PNMT
kiêng chải răng hoàn toàn sau sanh 1 tháng và
83,9% PNMT cho rằng không nên đi khám răng
miệng trong thời gian mang thai mà thực tế là
100% PNMT trong nghiên cứu này không đi
khám răng miệng trong thời gian mang thai.
Trình độ văn hóa thấp dẫn đến hiểu biết không
đúng, nhiều bà mẹ có quan niệm sai lầm rằng
điều trị nha chu trong thai kỳ sẽ nguy hiểm cho
bào thai. Thật ra, một nghiên cứu cho thấy
PNMT nhận điều trị nha chu giảm nguy cơ sanh
non nhẹ cân đến 85%. Những quan niệm sai lầm
này thường được truyền dạy từ những người
lớn tuổi trong gia đình và đôi khi có ảnh hưởng
còn mạnh hơn cả lời khuyên của các nhà chuyên
môn. Tình trạng này thường gặp ở những đối
tượng có trình độ học vấn thấp và nghề nghiệp
không ổn định, kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào
gia đình.
KẾT LUẬN
Các kết quả về chỉ số nha chu và tình trạng
nha chu qua 3 quí của thai kỳ đã cho thấy mặc
dù chỉ số mảng bám gần như không thay đổi
qua 3 quí của thai kỳ nhưng chỉ số nướu, chảy
máu nướu khi thăm khám, độ sâu túi nha chu
qua thăm dò đều tăng từ quí 1 đến quí 2, sau đó
giảm ở quí 3. Như vậy kết quả này cho thấy có
thể do ảnh hưởng của sự thay đổi nồng độ
hormone trong thời gian mang thai làm mô nha
chu nhạy cảm hơn đối với tình trạng viêm, đặc
biệt tăng cao nhất là ở quí 2.
Kết quả 100% PNMT trong nghiên cứu này
có tình trạng viêm nướu cùng với hiểu biết của
PNMT về chăm sóc răng miệng còn kém
(77,4%). Quan niệm lạc hậu về việc kiêng chải
răng sau sanh (67,7%) và không có thói quen
chăm sóc răng miệng định kỳ hàng năm (100%)
là bằng chứng cho thấy PNMT còn thiếu thông
tin đúng đắn về sức khỏe răng miệng. Do đó cần
xây dựng chương trình chăm sóc sức khỏe bà
mẹ trước sanh phải bao gồm cả chăm sóc sức
khỏe răng miệng. Muốn vậy các cơ quan làm
nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe và truyền thông
phải cung cấp kiến thức về sức khỏe răng miệng
và mối liên quan với sức khỏe tổng quát cho các
phụ nữ độ tuổi sinh sản để tự chăm sóc răng
miệng tốt đặc biệt là trước khi chuẩn bị mang
thai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cohen DW, Friedman L, Shapiro J (1969). A longitudinal
investigation of the periodontal changes during pregnancy. Journal
of Periodontology, 40: 563-570.
2. Đặng Huệ Hồng (2001). La gingivite chez les femmes enceintes à
l’hopital gyneco – obstetrique Hùng Vương. Luận văn tốt nghiệp
bác sĩ răng hàm mặt bằng tiếng Pháp.
3. Fernando B, Jiffry M (1991). Prevalence of gingivitis amongst
pregnant women in an urban population in Sri-Lankan. Sri-Lanka
De