Mở đầu: Một số cytokine như TNF‐α, IL‐6, IL‐10 là các chất trung gian điều hòa quan trọng trong sinh lý
bệnh của nhiễm khuẩn huyết (NKH). Một số nghiên cứu về cytokine đã được công bố trên thế giới cho thấy giá trị của cytokine trong vai trò tiên lượng đối với những bệnh nhân NKH nặng và sốc nhiễm khuẩn (7). Ở nước ta việc định lượng và nghiên cứu giá trị tiên lượng các cytokine TNF‐α, IL‐6, IL‐10 trên bệnh nhân NKH nặng chưa được nghiên cứu sâu và có hệ thống. Vì thế chúng tôi thực hiện nghiên cứu này.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu: bệnh nhân ≥18 tuổi, được chẩn đoán
NKH nặng dựa theo tiêu chuẩn của Hội nghị thống nhất các Hội hồi sức thế giới năm 2001(11) nhập khoa HSCC‐ BV Chợ Rẫy từ 12/2008 đến 12/ 2010.
Phương pháp nghiên cứu: tiến cứu, cắt ngang, phân tích. Cỡ mẫu nghiên cứu cần tối thiểu 97 bệnh nhân.
Bệnh nhân vào nghiên cứu được thu thập dữ liệu vào mẫu bệnh án nghiên cứu và lấy máu định lượng TNF‐α, IL‐6, IL‐10 ngay khi nhập HSCC, sau 2 giờ, sau 4 giờ và sau 24 giờ. Xử lý số liệu bằng phần mềm Stata 16.0.
Kết quả: Có 123 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu. Điểm APACHE II: 23,3 ± 8,3 và SOFA: 10,6 ± 3,6.
Tại tất cả thời điểm nghiên cứu, ở bệnh nhân NKH nặng, trung vị nồng độ của các cytokin TNF‐α, IL‐6, và IL‐
10 tăng cao hơn giá trị trung bình ở người bình thường. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi so sánh trung vị nồng độ một số cytokin của hai nhóm bệnh nhân NKH nặng sống và tử vong tại các thời điểm: IL‐6 ở thời điểm T24; IL‐10 ở thời điểm T24. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ thay đổi của nồng độ cytokin IL‐6 tại thời điểm T24 so với T0 giữa hai nhóm bệnh nhân NKH nặng sống và tử vong. Ngoài ra, tỷ lệ IL‐10/TNF‐α tại thời điểm T24 cũng có khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm bệnh nhân NKH nặng sống và tử vong. Diện tích dưới đường cong (AUC) của nồng độ IL‐6, IL‐10, tỷ lệ IL‐10/TNF‐α huyết thanh giờ thứ 24 và tỷ lệ sai biệt của nồng độ IL‐6 huyết thanh giờ thứ 24 so với giờ T0 trong tiên lượng tử vong trên bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng đều ở mức > 0,70. Hầu hết chúng đều có độ nhạy cao, trên 80% và độ đặc hiệu khoảng 60%, giá trị tiên đoán dương và tiên đoán âm trong khoảng 70 – 80%.
Kết luận: Nồng độ IL‐6 huyết tương ở thời điểm T24 ≥ 97,6 pg/ml có khả năng tiên lượng tử vong trên
bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng với độ nhạy 82,1% và độ đặc hiệu 68%, diện tích dưới đường cong 0,746.
Tương tự, nồng độ IL‐10 huyết tương ở thời điểm T24 ≥ 7,1 pg/ml có khả năng tiên lượng tử vong trên bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng với độ nhạy 88,1% và độ đặc hiệu 58,6%, diện tích dưới đường cong là 0,723. Tỷ lệ trung vị nồng độ IL‐10/TNF‐α giờ thứ 24 > 2,33 có khả năng tiên lượng tử vong trên bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng với độ nhạy 54,5% và độ đặc hiệu 79,3%, diện tích dưới đường cong 0,710. Nồng độ IL‐6 huyết thanh giờ thứ 24 giảm 0,81 lần so với thời điểm T0 có khả năng tiên lượng tử vong trên bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng với độ nhạy 86,4% và độ đặc hiệu 62,9%, diện tích dưới đường cong 0,775.
8 trang |
Chia sẻ: thuylinhqn23 | Ngày: 09/06/2022 | Lượt xem: 652 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giá trị tiên lượng của các cytokine tnf‐α, IL‐6, IL 10 ở bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 7
GIÁ TRỊ TIÊN LƯỢNG CỦA CÁC CYTOKINE TNF‐α, IL‐6, IL 10
Ở BỆNH NHÂN NHIỄM KHUẨN HUYẾT NẶNG
Phạm Thị Ngọc Thảo*
TÓM TẮT
Mở đầu: Một số cytokine như TNF‐α, IL‐6, IL‐10 là các chất trung gian điều hòa quan trọng trong sinh lý
bệnh của nhiễm khuẩn huyết (NKH). Một số nghiên cứu về cytokine đã được công bố trên thế giới cho thấy giá
trị của cytokine trong vai trò tiên lượng đối với những bệnh nhân NKH nặng và sốc nhiễm khuẩn (7). Ở nước ta
việc định lượng và nghiên cứu giá trị tiên lượng các cytokine TNF‐α, IL‐6, IL‐10 trên bệnh nhân NKH nặng
chưa được nghiên cứu sâu và có hệ thống. Vì thế chúng tôi thực hiện nghiên cứu này.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu: bệnh nhân ≥18 tuổi, được chẩn đoán
NKH nặng dựa theo tiêu chuẩn của Hội nghị thống nhất các Hội hồi sức thế giới năm 2001(11) nhập khoa HSCC‐
BV Chợ Rẫy từ 12/2008 đến 12/ 2010.
Phương pháp nghiên cứu: tiến cứu, cắt ngang, phân tích. Cỡ mẫu nghiên cứu cần tối thiểu 97 bệnh nhân.
Bệnh nhân vào nghiên cứu được thu thập dữ liệu vào mẫu bệnh án nghiên cứu và lấy máu định lượng TNF‐α,
IL‐6, IL‐10 ngay khi nhập HSCC, sau 2 giờ, sau 4 giờ và sau 24 giờ. Xử lý số liệu bằng phần mềm Stata 16.0.
Kết quả: Có 123 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu. Điểm APACHE II: 23,3 ± 8,3 và SOFA: 10,6 ± 3,6.
Tại tất cả thời điểm nghiên cứu, ở bệnh nhân NKH nặng, trung vị nồng độ của các cytokin TNF‐α, IL‐6, và IL‐
10 tăng cao hơn giá trị trung bình ở người bình thường. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi so sánh trung vị
nồng độ một số cytokin của hai nhóm bệnh nhân NKH nặng sống và tử vong tại các thời điểm: IL‐6 ở thời điểm
T24; IL‐10 ở thời điểm T24. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ thay đổi của nồng độ cytokin IL‐6 tại
thời điểm T24 so với T0 giữa hai nhóm bệnh nhân NKH nặng sống và tử vong. Ngoài ra, tỷ lệ IL‐10/TNF‐α tại
thời điểm T24 cũng có khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm bệnh nhân NKH nặng sống và tử vong. Diện
tích dưới đường cong (AUC) của nồng độ IL‐6, IL‐10, tỷ lệ IL‐10/TNF‐α huyết thanh giờ thứ 24 và tỷ lệ sai biệt
của nồng độ IL‐6 huyết thanh giờ thứ 24 so với giờ T0 trong tiên lượng tử vong trên bệnh nhân nhiễm khuẩn
huyết nặng đều ở mức > 0,70. Hầu hết chúng đều có độ nhạy cao, trên 80% và độ đặc hiệu khoảng 60%, giá trị
tiên đoán dương và tiên đoán âm trong khoảng 70 – 80%.
Kết luận: Nồng độ IL‐6 huyết tương ở thời điểm T24 ≥ 97,6 pg/ml có khả năng tiên lượng tử vong trên
bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng với độ nhạy 82,1% và độ đặc hiệu 68%, diện tích dưới đường cong 0,746.
Tương tự, nồng độ IL‐10 huyết tương ở thời điểm T24 ≥ 7,1 pg/ml có khả năng tiên lượng tử vong trên bệnh
nhân nhiễm khuẩn huyết nặng với độ nhạy 88,1% và độ đặc hiệu 58,6%, diện tích dưới đường cong là 0,723. Tỷ
lệ trung vị nồng độ IL‐10/TNF‐α giờ thứ 24 > 2,33 có khả năng tiên lượng tử vong trên bệnh nhân nhiễm khuẩn
huyết nặng với độ nhạy 54,5% và độ đặc hiệu 79,3%, diện tích dưới đường cong 0,710. Nồng độ IL‐6 huyết
thanh giờ thứ 24 giảm 0,81 lần so với thời điểm T0 có khả năng tiên lượng tử vong trên bệnh nhân nhiễm khuẩn
huyết nặng với độ nhạy 86,4% và độ đặc hiệu 62,9%, diện tích dưới đường cong 0,775.
Từ khóa: Nhiễm khuẩn huyết, cytokines
* Bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: TS.BSCKII. Phạm Thị Ngọc Thảo ĐT: 0903628016 Email: thaocrh10@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 8
ABSTRACT
PROGNOSTIC VALUE OF SERUM CONCENTRATIONS OF CYTOKINES TNF‐α, IL‐6, IL‐10 IN
PATIENTS WITH SEVERE SEPSIS
Pham Thi Ngoc Thao* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 2 ‐ 2013: 7 ‐ 14
Introduction: Serum concentration of cytokines and balance of these inflammatory and anti‐inflammatory
cytokines play an important role in pathophysiology of sepsis. This issue has been reported for recent years in
developed countries. However, that yet studied in Vietnam. Therefore, we applied Biochip Array Technology –
EVIDENCE analyzer of Randox Laboratories Ltd, in measuring serum TNF‐α, IL‐6, and IL‐10 concentrations
in patient with severe sepsis and revealed the relationship between those concentrations with clinical
characteristics, severity and outcome of patient with sepsis and septic shock.
Patient and Method: Patient: From December 2008 to December 2010, adult patients with severe sepsis,
admitted to ICU of Cho Ray Hospital, met the diagnosis criteria of ACCP/SCCM 2001 and had microbiological
evidence will be recruited. Method: prospective, cross‐sectional observation study. Serum TNF‐α, IL‐6, and IL‐10
will be quantified within the first 24 hours of admission.
Result: Of 123 patients were diagnosed severe sepsis had been included, mean APACHE II score was: 21,75
± 8,89; and SOFA score:12,67 ± 3,56. Serum concentrations of cytokines elevated in patient with severe sepsis.
There was a significantly differences between serum cytokine concentrations of TNF‐α, IL‐6, IL‐10, and IL‐6/IL‐
10 and IL‐10/TNF‐α ratios in groups: patient with vs without septic shock, with vs without MODS and non‐
survivors vs survivors (p< 0.01; 0.01; 0.01 respectively). The ratio of IL‐10/TNF‐α ≥ 5 was related with mortality
of patient with sepsis, OR = 1.40 (1.01 – 1.53), p= 0.004. Furthermore, the ratio of IL‐6/IL‐10 in non‐survivors
(IL‐6/IL‐10 = 3.26) was 1.31 folds higher than that of survivors (IL‐6/IL‐10 = 2.48).
Conclusion: Serum IL‐6 concentration at 24th hour (T24) ≥ 97.6 pg/ml could predict mortality in patients
with severe sepsis with a sensitivity of 82.1% and specificity 68%, AUC‐ROC was 0.746. Similarly, serum IL‐10
concentration at 24th hour (T24) ≥ 7.1 pg/ml could predict mortality in patients with severe sepsis with a
sensitivity 88.1% and specificity 58.6%, AUC‐ROC 0.723. Median ratio of IL‐10/TNF‐α (T24) > 2.33 abled to
predict mortality in patients with severe sepsis with a sensitivity of 54.5% and a specificity of 79.3%, area under
the curve 0.710. The serum concentration of IL‐6 at T24 decreased as much as 0.81 times compared to that of T0
had the ability to predict mortality in patients with severe sepsis with a sensitivity of 86.4% and a specificity of
62.9%, area under the curve 0.775.
Keywords: Sepsis, cytokines.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm khuẩn huyết (NKH) là nguyên nhân
gây tử vong hàng đầu ở bệnh nhân bệnh nặng
dù được điều trị với các kháng sinh và các liệu
pháp hồi sức hiện đại. Những hiểu biết mới về
sinh học phân tử cytokin làm sáng tỏ hơn cơ chế
bệnh sinh của NKH, trong đó có vai trò của
TNF‐α, IL‐6, IL‐10 là các chất trung gian điều
hòa quan trọng trong sinh lý bệnh của NKH.
Một số nghiên cứu về cytokin đã được công bố
trên thế giới cho thấy giá trị của cytokin trong
vai trò tiên lượng đối với những bệnh nhân
NKH nặng và sốc nhiễm khuẩn (7). Ở nước ta
việc định lượng và nghiên cứu giá trị tiên lượng
các cytokin TNF‐α, IL‐6, IL‐10 trên bệnh nhân
NKH nặng chưa được nghiên cứu sâu và có hệ
thống. Vì thế chúng tôi thực hiện nghiên cứu
này.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân ≥18 tuổi, được chẩn đoán nhiễm
khuẩn huyết nặng dựa theo tiêu chuẩn của Hội
nghị thống nhất các Hội Hồi sức thế giới năm
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 9
2001(11) và có bằng chứng vi sinh, nhập khoa
HSCC‐BVCR từ tháng 12/2008 đến tháng
12/2010.
Tiêu chuẩn loại trừ
Phụ nữ có thai, có ngưng tim trước khi vào
khoa HSCC, ung thư, suy thận mạn giai đoạn
cuối, xơ gan Child C. Bệnh nhân không được
thực hiện xét nghiệm đo (cytokin) máu liên tiếp
trên 2 thời điểm nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Tiến cứu, cắt ngang, phân tích. Cỡ mẫu
nghiên cứu cần tối thiểu 97 bệnh nhân. Bệnh
nhân vào nghiên cứu được thu thập dữ liệu vào
mẫu bệnh án nghiên cứu và lấy máu định lượng
TNF‐α, IL‐6, IL‐10 ngay khi nhập HSCC, sau 2
giờ, sau 4 giờ và sau 24 giờ. Xử lý số liệu bằng
phần mềm Stata 16.0.
Các tiêu chuẩn áp dụng trong lô nghiên
cứu
Tiêu chuẩn chẩn đoán NKH, NKH nặng đã
được Hội Hồi sức và Hội Thầy thuốc Hoa Kỳ
đưa ra từ năm 1992 và được sử dụng trong y
văn cho đến nay (11).
KẾT QUẢ
Đặc điểm chung của bệnh nhân vào
nghiên cứu
Bảng 1.
Số bệnh nhân 123
Tuổi (năm) 58,2 ± 18,8
Nam / nữ 62 / 61
Thời gian nằm viện (ngày) 11 (5 ; 20)
Điểm APACHE II trung bình 23,3 ± 8,3
Điểm SOFA trung bình 10,6 ± 3,6
Tỷ lệ tử vong 75/123 (61%)
Tỉ lệ mắc và tử vong theo ngõ vào nhiễm
khuẩn huyết
Bảng 2.
Đường vào Tỉ lệ mắc Tỉ lệ tử vong
Tiêu hóa 56,1% 66,7%
Hô hấp 21,1% 61,5%
Niệu dục 7,3% 44,4%
Da 6,5% 25,0%
Cơ xương 1,6% 50,0%
Không rõ 7,3% 66,7%
Kết quả cấy máu ở bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết
Biểu đồ 1
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 10
Tỉ lệ RLCN và tỉ lệ tử vong theo từng cơ
quan
Bảng 3
Cơ quan Tỉ lệ RLCN chức năng Tỉ lệ tử vong
Tuần hoàn 88,6% 62,4%
Hô hấp 83,7% 69,9%
Thận 69,9% 65,1%
Tiêu hóa 49,6% 60,7%
Thần kinh 41,5% 78,4%
Huyết học 33,3% 61,0%
Các yếu tố lâm sàng liên quan tử vong
Bảng 4.
Thông số Tử vong Còn sống P
Thời gian nằm viện (ngày) 12,7 ± 15,4 21,5 ± 13,8 0,002
Điểm APACHE II
(trung bình ± SD) 26, 6 ± 7,9 18,0 ± 5,8 <0,001
Điểm SOFA
(trung bình ± SD) 11,6 ± 3,6 9,1 ± 2,9 <0,001
Số cơ quan RLCN 4 ± 1 3 ± 1 <0,001
Các yếu tố cận lâm sàng liên quan đến tử
vong
Bảng 5.
CLS Tử vong Còn sống P
Hb (g/dl) 11,0 ± 2,6 11,3 ± 2,3 0,460
BC (K/mm3) 18,1 ± 13,2 20,6 ± 14,2 0,337
TC (K/mm3) 193 ± 134 164 ± 126 0,249
Đường huyết (mg/dl) 138,6 ± 77,8 129,3 ± 80,8 0,547
BUN (mg/dl) 45,9 ± 25,1 35,7 ± 21,6 0,019
Creatinin (mg/dl) 2,47 ± 1,62 1,97 ± 1,45 0,08
Bilirubin (mg/dl) 3,34 ± 4,62 2,40 ± 2,44 0,168
PT 18,6 ± 10,0 16,9 ± 5,4 0,273
aPTT 42,9 ± 20,8 35,9 ± 9,4 0,018
CLS Tử vong Còn sống P
pH 7,28 ± 0,14 7,33 ± 0,11 0,037
PaCO2 (mmHg) 33,5 ± 9,3 35,6 ± 7,8 0,213
PaO2 (mmHg) 129,9 ± 99,6
120,4 ±
79,3 0,581
HCO3 (mmol/L) 16,4 ± 5,8 19,0 ± 4,4 0,008
CRP (mg/l) 122,4 ± 60,8 123,3 ± 45,7 0,931
Procalcitonin (ng/dl) 54,4 ± 91,4 42,5 ± 109,8 0,159
Lactate máu 47,6 ± 38,7 36,2 ± 23,4 0,594
Giá trị các yếu tố lâm sàng, cận lâm sàng
trong tiên lượng bn NKH nặng
Diện tích dưới đường cong của biến số trong
tiên lượng tử vong bn NKH nặng
Bảng 6.
AUC Điểm
cắt
Độ
nhạy
Độ đặc
hiệu
PPV NPV
APACHE II 0,810 >25 57,3% 97,9% 97,7% 59%
SOFA 0,703 >10 64,9% 68,1% 76,2% 55,2%
Số cơ quan
RLCN
0,668 >3 65,3% 62,5% 73,1% 53,6%
AUC
CRP 0,528
Procalcitonin 0,604
AUC Điểm cắt Độ nhạy Độ đặc hiệu
BUN 0,611 >30 72% 53,2%
Creatinin máu 0,562 >1,8 56% 66%
pH máu động
mạch
0,632 ≤ 7,22 33,8% 90,5%
HCO3 0,670 ≤ 16,8 62% 72,3%
aPTT 0,592 > 36,8 50,7% 66,7%
Giá trị của một số cytokin trợ viêm và kháng viêm (TNF‐α, IL‐6, IL‐10) trong tiên lượng
bệnh nhân NKH nặng
TNF‐α, IL‐6, IL‐10 các thời điểm nc giữa nhóm bn NKH nặng sống và tử vong
Bảng 7
Cytokin Thời điểm
SỐNG TỬ VONG Giá trị p
(Mann-Whitney test) N Trung vị N Trung vị
TNF-α
(bình thường:<11pg/ml )
T0 43 12,035 70 12,600 0,212
T2 39 9,760 68 12,930 0,070
T4 36 7,980 66 13,700 0,054
T24 32 7,575 46 9,595 0,293
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 11
Cytokin Thời điểm
SỐNG TỬ VONG Giá trị p
(Mann-Whitney test) N Trung vị N Trung vị
IL-6
(bìnhthường:<1,23pg/ml)
T0 43 413,290 71 530,000 0,339
T2 39 266,780 68 530,000 0,079
T4 36 244,730 66 530,000 0,056
T24 32 65,395 46 286,860 0,002
IL-10
(bình thường:<1,9pg/ml)
T0 42 40,190 70 50,800 0,556
T2 39 35,080 68 37,690 0,660
T4 36 19,440 66 33,820 0,159
T24 32 5,700 46 18,385 < 0,001
IL-6 T24 so
với T0
27 -5,550 44 -0,220 0,028
IL-10 27 -5,480 44 -0,650 0,101
Tỷ lệ IL-6/IL-10 T24 32 0,740 46 2,665 0,465
Tỷ lệ IL-10/TNF T24 32 16,805 46 9,495 < 0,001
Diện tích dưới đường cong của các nồng
độ cytokin trong tiên lượng tử vong trên
bệnh nhân NKH nặng
Bảng 8.
AUC 95% CI
Điểm
cắt
Độ
nhạy
Độ
đặc
hiệu
PPV NPV
IL-6_T24
0,7
21
0,602 -
0,821
>
97,6
84,8
%
59,4
%
75,0
%
73,1
%
IL-10_T24
0,7
66
0,651 -
0,859 > 7,1
89,1
%
59,4
%
75,9
%
79,2
%
IL-10 /TNF
(T24)
0,7
19
0,606 -
0,815
>
0,73
82,6
% 53%
71,7
%
68,0
%
IL-6 T24 so
với T0
0,7
75
0,661 -
0,866
> -
0,81
86,4
%
62,9
%
79,2
%
73,9
%
BÀN LUẬN
Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của
bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng
Đặc điểm chung
123 bệnh nhân vào nghiên cứu có tuổi trung
bình 58,2 ± 18,8; Tỉ lệ nam/nữ # 1/1. Thời gian
nằm viện là 15,9 ± 15,4 ngày. Bệnh nhân có điểm
APACHE II > 25 có tỷ lệ tử vong rất cao (95,6%)
so với nhóm APACHE II ≤ 25 (p=0,001). Điểm
APACHE II có khả năng phân tách khá tốt trong
tiên đoán tử vong ở bn NKH nặng. Kết quả của
chúng tôi tương tự nghiên cứu của Phạm Lưu
Nhất Hoàng tại khoa HSCC bệnh viện Nhân
Dân Gia Định, tuổi, điểm APACHE II và SOFA
trung bình lần lượt là 69 ± 17 tuổi, 27,2 ± 10,4, 8 ±
1,4 điểm(13). Có sự khác biệt đáng kể về điểm
SOFA giữa nhóm bệnh nhân còn sống và nhóm
tử vong (9,1 so với 11,6 điểm, với p < 0,001).
Điểm SOFA có khả năng tiên đoán tử vong ở
bệnh nhân NKH nặng, với AUC khoảng 0,71.
Về ngõ vào của NKH
Nhiễm khuẩn từ đường tiêu hóa và từ
đường hô hấp dưới thường gặp nhất với tỷ lệ tử
vong lần lượt là 66,7% và 61,5%. Kết quả này
tương tự nghiên cứu của Phạm Lưu Nhất
Hoàng, phổi và dạ dày ruột là hai ngõ vào
thường gặp nhất, phổi chiếm 87,85%, dạ dày–
ruột chiếm 12,15%(13). Theo báo cáo EPIC II (năm
2009), phân tích dữ liệu từ 13.796 bệnh nhân ở
1.265 khoa HSCC của 75 quốc gia (trong đó có
137 khoa HSCC của châu Á), cho thấy tỷ lệ
nhiễm khuẩn ở các khoa HSCC châu Á là 56,6%
và ngõ vào từ đường hô hấp chiếm hàng đầu
(65,6%)(1).
Tình trạng RLCN đa cơ quan ở bệnh nhân
NKH nặng trong nghiên cứu của chúng tôi có
82,1% bệnh nhân có biểu hiện RLCN đa cơ
quan, trung bình số cơ quan RLCN là 3,53 ±
0,12, tương đồng với báo cáo của các tác giả
trong và ngoài nước:
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 12
Bảng 9:
Tỷ lệ tử vong (%) theo hệ cơ quan bị RLCN
Các nghiên cứu cơ quan bị RLCN SOAP (20) CUB-Réa (40 ChengB (3) TN Hải (17) Chúng tôi
Hô hấp 26,3– 34,5 97,0 51,4 67,53 69,9
Tuần hoàn 34,3– 42,3 90,7 76,3 66,67 62,4
Gan 27,5– 45,1 (không đánh giá) 61,0 63,79 60,7
Thần kinh 40,6– 43,9 19,6 63,6 58,93 78,4
Thận 22,5– 41,2 57,6 75,8 58,00 65,1
Huyết học 35,4– 52,9 5,6 58,5 53,49 61,0
Đặc điểm về cận lâm sàng
Về xét nghiệm huyết học
Kết quả nghiên cứu cho thấy ở bệnh nhân
NKH nặng, số lượng bạch cầu máu tăng cao so
với người bình thường, tuy nhiên không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê của số lượng bạch
cầu máu tăng giữa nhóm bn sống và tử vong.
Về xét nghiệm sinh hóa máu (bảng 6)
Nồng độ BUN và creatinin/máu: nồng độ
BUN và creatinin/máu của bệnh nhân vào
nghiên cứu là 41,9 ± 24,2 mg% và 2,28 ± 1,57
mg%, là cao so với giá trị bình thường và cao so
với báo cáo của LTD Tuyết (có nồng độ
creatinin/máu là 1,63 ± 0,9 mg%)(8). Theo nhóm
nghiên cứu BEST Kidney, khảo sát ở 54 khoa
HSCC của 23 quốc gia, tỷ lệ tử vong chung của
suy thận cấp là 60,2% và sốc nhiễm khuẩn là
nguyên nhân gây suy thận cấp thường gặp nhất
(chiếm 48%)(16).
Nồng độ CRP, Procalcitonin trong huyết
tương bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng vào
nghiên cứu tăng cao, với nồng độ CRP trung
bình là 122,7 mg/l và nồng độ procalcitonin
trung bình là 49,8 ng/ml. Không có sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê giữa nhóm bệnh nhân sống
và tử vong với p lần lượt là 0,931 và 0,159. Kết
quả của chúng tôi phù hợp với kết quả nghiên
cứu của Nguyễn Nghiêm Tuấn, Hà Tấn Đức về
giá trị của CRP và Procalcitonin cho thấy có giá
trị chẩn đoán tốt tình trạng nhiễm khuẩn, tuy
nhiên, giá trị tiên đoán tử vong thấp(1,8).
Nồng độ Lactate máu động mạch, Nồng độ
Lactate máu của bệnh nhân NKH nặng vào
nghiên cứu của chúng tôi tăng rất cao 43,6 ± 34,4
mmol/L; đồng thời nồng độ pH máu giảm (7,302
± 0,131) và nồng độ HCO3 máu giảm (17,4 ± 5,4
mmol/L) chứng tỏ tình trạng toan chuyển hóa
đã rất nghiêm trọng. Không có khác biệt có ý
nghĩa thống kê về nồng độ lactate máu giữa
nhóm bn còn sống và tử vong. Theo H.N Bryant,
nếu bệnh lý diễn tiến đã vào giai đoạn muộn thì
tiên lượng tử vong rất cao(10).
Kết quả phân tích khí máu động mạch cho
thấy: các thông số pH máu, PaO2, PaCO2 và
HCO3‐ ở bệnh nhân NKH nặng vào nghiên cứu
thay đổi theo hướng toan chuyển hóa, với pH
trung bình 7,302; HCO3‐ là 17,4 mmol/l, khác biệt
có ý nghĩa thống kê giữa bệnh nhân còn sống và
tử vong với p< 0,05.
Về xét nghiệm vi sinh
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ cấy
máu dương tính là 37/109 trường hợp
(=33,9%), tương tự với một số báo cáo
khác(5,9,14,15,20). Vi khuẩn gram âm chiếm tỷ lệ
nhiều hơn vi khuẩn gram dương, Acinetobacter
chiếm tỷ lệ cao nhất (27,0%).
Giá trị tiên lượng của các cytokin TNF‐α, IL‐6
và IL‐10 ở bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết
nặng
Đặc điểm về nồng độ TNF‐α, IL‐6, IL‐10 ở bn
NKH nặng vào nghiên cứu, Tham khảo y văn và
kết quả các nghiên cứu trong và ngoài nước,
chúng tôi đã chọn các thời điểm: lúc bệnh nhân
NKH nặng đủ tiêu chuẩn được chọn vào nghiên
cứu (T0), tiếp đó 2 giờ sau (T2), 4 giờ sau (T4) và
24 giờ sau (T24) để đo nồng độ và nhận thấy:
Tại tất cả thời điểm nghiên cứu, ở bệnh nhân
NKH nặng, trung vị nồng độ của các cytokin
TNF‐α, IL‐6, và IL‐10 tăng cao hơn giá trị trung
bình ở người bình thường.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 13
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi so
sánh trung vị nồng độ một số cytokin của hai
nhóm bệnh nhân NKH nặng sống và tử vong tại
các thời điểm: IL‐6 ở thời điểm T24; IL‐10 ở thời
điểm T24 (bảng 7).
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ
thay đổi của nồng độ cytokin IL‐6 và IL‐10 tại
thời điểm T24 so với T0 giữa hai nhóm bệnh nhân
NKH nặng sống và tử vong.
Ngoài ra, tỷ lệ IL‐10/TNF‐α tại thời điểm T24
cũng có khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2
nhóm bệnh nhân NKH nặng sống và tử vong.
Liên quan giữa nồng độ các cytokin TNF‐
α, IL‐6 và IL‐10 với tiên lượng trên bệnh
nhân NKH nặng
Nồng độ IL‐6 ở thời điểm T24 > 97,6 pg/ml có
khả năng tiên lượng tử vong trên BN NKH nặng
với độ nhạy 82,1% và độ đặc hiệu 68%, diện tích
dưới đường cong là 0,746.
Mặt khác, nồng độ IL‐6 huyết tương giờ thứ
24 so với thời điểm T0 giảm 4,28 lần có khả năng
tiên lượng tử vong trên bệnh nhân NKH nặng
với độ nhạy 84,2% và độ đặc hiệu 66,7%, diện
tích dưới đường cong 0,782 (Bảng 8)
Diện tích dưới đường cong của IL‐6 giờ
thứ 24 trong tiên lượng tử vong qua các
nghiên cứu
Bảng 10
Các nghiên cứ