Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang diễn ra sôi động, tạo ra nhiều cơ hội cho sự
phát triển của ngân hàng. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng phải đối mặt với những khó khăn và thách
thức không nhỏ. Để phát triển bền vững ngân hàng thì nhất thiết phải đảm bảo an toàn trong hoạt
động ngân hàng, và hoạt động thanh tra, giám sát vô cùng quan trọng trong việc đảm bảo an toàn
hoạt động của ngâ hàng. Trong phạm vi bài viết, tác giả đã nêu thực trạng về cơ sở pháp lý chi phối
hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng; phân tích một số bất cập và nguyên nhân gây ra những
bất cập trong hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng. Từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn
thiện hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng tại Việt Nam.
8 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 488 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải pháp hoàn thiện hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
14
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG THANH TRA,
GIÁM SÁT NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM
Phan Diên Vỹ*
TÓM TẮT
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang diễn ra sôi động, tạo ra nhiều cơ hội cho sự
phát triển của ngân hàng. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng phải đối mặt với những khó khăn và thách
thức không nhỏ. Để phát triển bền vững ngân hàng thì nhất thiết phải đảm bảo an toàn trong hoạt
động ngân hàng, và hoạt động thanh tra, giám sát vô cùng quan trọng trong việc đảm bảo an toàn
hoạt động của ngâ hàng. Trong phạm vi bài viết, tác giả đã nêu thực trạng về cơ sở pháp lý chi phối
hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng; phân tích một số bất cập và nguyên nhân gây ra những
bất cập trong hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng. Từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn
thiện hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng tại Việt Nam.
Từ khóa: Thanh tra, giám sát
SOLUTIONS TO IMPROVE THE BANKING INSPECTION AND
SUPERVISION IN VIETNAM
ABSTRACT
The process of economic and international integration which is eventful makes opportunities
for the development of banks. Besides, banks are facing big difficulties and challenges. To guarantee
the safeness in operation of banks is to help the banking solid development and the inspection and
supervision is to help the safeness in operation of banks. In the scope of this article, the author
mentions the reality on legal basis to govern the banking inspection and supervision, analysis on the
insufficiencies and reasons to insufficiencies in the banking inspection and supervision. Form that,
the author suggests the solutions to improve the banking inspection and supervision in Vietnam.
Key words: Inspector; supervisor
* TS. Trường Đại học Ngân hàng Tp.HCM. Email:phandienvy@gmail.com
15
Giải pháp hoàn thiện . . .
1. Thực trạng về cơ sở pháp lý chi phối
hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng
tại Việt Nam
Công tác giám sát ngân hàng được thực
hiện từ những năm 1990 do Vụ Thanh tra,
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiến hành, với
nhiệm vụ chính là gián tiếp kiểm tra thông
qua tổng hợp, phân tích, đánh giá các báo cáo
tình hình hoạt động theo định kỳ của TCTD,
chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại
Việt Nam, tiến hành giám sát thường xuyên
phát hiện kịp thời các vi phạm, thông báo yêu
cầu các TCTD khắc phục ngay và có biện
pháp xử lý kịp thời nghiêm túc các vi phạm
theo qui định của pháp luật. Cơ sở của việc
thực hiện các hoạt động giám sát của NHNN
đối với các ngân hàng thương mại (NHTM) là
Luật NHNN năm 1997, Khoản 2 Điều 1 Luật
NHNN năm 1997 khẳng định: “NHNN thực
hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và
hoạt động ngân hàng; là ngân hàng phát hành
tiền, ngân hàng của các TCTD và ngân hàng
làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ”.
Luật NHNN năm 1997 khẳng định vị thế
của Thanh tra ngân hàng là tổ chức thanh tra
chuyên ngành về ngân hàng vừa làm chức
năng thanh tra của Bộ (giải quyết khiếu nại,
tố cáo) vừa làm chức năng thanh tra, giám sát
hoạt động đối với các TCTD và hoạt động
ngân hàng của các tổ chức khác với mục
đích là đảm bảo an toàn hệ thống các TCTD,
bảo vệ quyền lợi người gửi tiền và phục vụ
chính sách tiền tệ quốc gia. Qui chế giám sát
ngân hàng đối với các TCTD cũng được hình
thành thông qua Quyết định số 398/1999/QĐ-
NHNN ngày 9/11/1999 của NHNN về việc
ban hành Quy chế giám sát từ xa đối với các
TCTD hoạt động tại Việt Nam ra đời, trong
đó nêu rõ: “Hoạt động giám sát từ xa là hoạt
động mà bộ phận giám sát của Thanh tra ngân
hàng căn cứ vào các báo cáo cân đối tài khoản
kế toán, các chỉ tiêu báo cáo thống kê ngoài
cân đối và các loại báo cáo khác do NHTM
gửi theo chế độ báo cáo thống kê đối với các
TCTD và tiến hành xử lý số liệu, tổng hợp
và phân tích tình hình hoạt động đối với từng
NHTM và toàn bộ hệ thống ngân hàngKết
quả giám sát từ xa là một trong những căn cứ
để xếp loại các NHTM”. Theo đó, nội dung
giám sát từ xa đối với các TCTD hoạt động tại
Việt Nam tập trung vào đánh giá các tiêu chí:
diễn biến về cơ cấu nguồn vốn; tài sản chất
lượng tài sản; tình hình thu nhập; chi phí và
kết quả kinh doanh; vốn tự có; việc đảm bảo
khả năng chi trả; phân tích một số chỉ số tài
chính chủ yếu của TCTD.
Quyết định số 06/2008/QĐ-NHNN
ngày 12/3/2008 của NHNN về việc xếp loại
NHTM cổ phần, theo đó: các NHTM được
yêu cầu tự đánh giá xếp loại dựa trên số liệu
kế toán chính thức năm đã được kiểm toán
bởi tổ chức kiểm toán độc lập, đối với các chỉ
tiêu an toàn hoạt động ngân hàng, số liệu đánh
giá, xếp loại được căn cứ vào số liệu báo cáo
năm theo đúng tiến độ thông tin báo cáo hiện
hành. Nội dung đánh giá xếp loại được thực
hiện trên các chỉ tiêu: vốn tự có; chất lượng tài
sản; năng lực quản trị; kết quả hoạt động kinh
doanh; khả năng thanh toán.
Ngày 27/05/2009 Thủ tướng đã ban hành
Quyết định số 83/2009/QĐ/TTg về việc qui
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của Cơ quan Thanh tra, giám sát
ngân hàng. Theo qui định này, thông qua hoạt
động giám sát ngân hàng, trong trường hợp
phát hiện các vi phạm qui định an toàn hoạt
động ngân hàng và qui định của pháp luật
có dấu hiệu mất an toàn hoạt động, Cơ quan
Thanh tra, giám sát ngân hàng áp dụng ngay
các biện pháp ngăn chặn và xử lý theo thẩm
16
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
quyền hoặc kiến nghị cơ quan Nhà Nước có
thẩm quyền xử lý theo qui định của pháp luật.
Luật NHNN năm 2010 được sửa đổi và
ban hành tiếp tục khẳng định: “Hoạt động
giám sát ngân hàng là một khâu rất quan
trọng trong hoạt động của Thanh tra, giám sát
ngân hàng trên cơ sở thực hiện theo nguyên
tắc thanh tra, giám sát toàn bộ hoạt động của
một TCTD và phải đảm bảo kết hợp thanh tra,
giám sát việc chấp hành chính sách, pháp luật
về tiền tệ và ngân hàng với thanh tra, giám
sát rủi ro trong hoạt động của đối tượng thanh
tra, giám sát ngân hàng”. Đây là một bước
tiến lớn đối với các hoạt động của NHNN nói
chung mà còn của Thanh tra, giám sát của
NHNN nói riêng, đây được xem là tiền đề và
định hướng cho hoạt động thanh tra, giám sát
ngân hàng.
Tuy nhiên cơ sở pháp lý cho hoạt động
giám sát ngân hàng chưa thực sự hoàn thiện.
Theo thuật ngữ giám sát ngân hàng được nêu
trong trang Web:www.bis.org/bcbs/ Ủy ban
Basel là một hoạt động bao quát toàn bộ ngân
hàng như: cấp phép, giám sát từ xa, thanh tra
tạo chỗ, thu thập thông tin, đánh giá xếp hạng
tín dụng, bảo hiểm tiền gửi, bảo vệ khách
hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng, chống rửa
tiền, chống tài trợ khủng bốnhằm bảo đảm
sự hoạt động an toàn và lành mạnh của hệ
thống các định chế tài chính.
Trong khi đó, theo Luật Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam được ban hành từ 1997 và sau
đó thực hiện vài lần sửa đổi bổ sung nhưng
nội dung Thanh tra ngân hàng được nêu tại
Chương 5 lại là một khái niệm hẹp:
- Thanh tra việc chấp hành pháp luật về
tiền tệ và hoạt động ngân hàng việc thực hiện
các quy định trong giấy phép ngân hàng
- Phát hiện, ngăn chặn và xử lý theo thẩm
quyền
- Kiến nghị các biện pháp bảo đảm thi
hành pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân
hàng ( Điều 52- Luật NHNN).
Qua đó cho thấy giám sát ngân hàng có
nghĩa rộng hơn thanh tra ngân hàng và điều
đáng nói là từ năm 1999 NHNN đã sử dụng
thuật ngữ giám sát ngân hàng khi ban hành QĐ
398/1999/QĐ-NHNN3 về hoạt động giám sát
ngân hàng, nhưng khi chỉnh lý Luật NHNN
năm 2003 vấn đề giám sát ngân hàng, nhưng
khi chỉnh lý Luật NHNN năm 2003 vấn đề
giám sát ngân hàng vẫn chưa được chính thức
đưa vào Luật. Từ sự phân định giữa thanh
tra và giám sát chưa rõ ràng, dẫn đến trong
thực tế hoạt động giám sát ngân hàng chưa
phát huy trọn vẹn những nguyên tắc của giám
sát tài chính để đạt được hiệu quả cao như:
thường xuyên- liên tục, toàn diện và linh hoạt,
hệ thống giám sát hợp lý- hiệu quả, kết hợp
logic giữa tính đặc thù của quốc gia và những
chuẩn mực quốc tế
Hiện nay cơ sở pháp lý cho hoạt động
giám sát ngân hàng đang chịu tác động của
sự khập khiểng về môi trường pháp lý nên hệ
thống giám sát ngân hàng còn nhiều bất cập
như:
- Mặc dù nội dung, phương pháp thanh tra
có thay đổi song vẫn chưa đáp ứng kịp yêu
cầu quản lý. Vấn đề cốt lõi yêu cầu giám sát
ngân hàng hiện nay không những nhận dạng
được rủi ro của ngân hàng mà còn đánh giá cả
khả năng quản trị rủi ro và chiến lược phòng
ngừa rủi ro của ngân hàng. Điều này nội dung
giám sát của thanh tra NHNN chưa đầy đủ
cũng như trình độ đội ngũ chuyên gia ngân
hàng còn hạn chế.
- Quy trình giám sát từ trung ương đến các
chi nhánh chưa có sự kết hợp đồng bộ giữa
phương pháp thanh tra từ xa và thanh tra tại
chỗ mà NHNN đang cố đạt được
17
Giải pháp hoàn thiện . . .
- Một số chuẩn mực quốc tế về giám sát
ngân hàng đã được vận dụng song các bộ chỉ
tiêu giám sát còn chưa đồng bộ hoặc chưa
phù hợp với tình hình Việt Nam nên cũng
gây hạn chế khi đánh giá và phân tích. Điều
đáng quan tâm là trong 25 nguyên tắc giám sát
theo chuẩn Basel I thì hoạt động giám sát của
NHNN đáp ứng chưa đến 30%.
Bảng 1: Đối chiếu việc thực hiện các nguyên tắc giám sát của Basel I
trong hoạt động giám sát của NHNN
Nguyên
tắc số
Các nguyên tắc
Đã đáp
ứng
(6)
Đang xúc
tiến
(13)
Chưa đáp
ứng (6)
1 Chức năng-nhiệm vụ-sự độc lập-sự minh bạch và
hợp tác
x
2 Phạm vi hoạt động ngân hàng x
3 Các tiêu chí cấp phép x
4 Chuyển đổi quyền sở hữu x
5 Các sáp nhập cơ bản x
6 An toàn vốn x
7 Quy trình quản trị rủi ro x
8 Rủi ro tín dụng x
9 Các tài sản có vấn đề, dự trữ và dự phòng x
10 Giới hạn tín dụng với khách hàng lớn x
11 Nguy cơ rủi ro với các bên liên quan x
12 Rủi ro chuyển đổi và rủi ro chính trị x
13 Rủi ro thị trường x
14 Rủi ro thanh khoản x
15 Rủi ro hoạt động x
16 Rủi ro lãi suất ghi sổ của ngân hàng x
17 Kiểm toán và kiểm toán nội bộ x
18 Phòng tránh rủi ro trong dịch vụ tài chính x
19 Phương pháp giám sát x
20 Kỹ thuật giám sát x
21 Thông tin báo cáo giám sát x
22 Chế độ kế toán và công bố thông tin x
23 Thực hiện yêu cầu và kết luận thanh tra x
24 Giám sát tổng thể x
25 Phối hợp giám sát trong và ngoài nước x
Tổng 6 13 6
Nguồn: Dự án cải cách ngân hàng- NHNN
18
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
2. Một số bất cập trong hoạt động thanh
tra, giám sát ngân hàng tại Việt Nam
Thứ nhất, hoạt động thanh tra, giám sát
vẫn còn đặt nặng vào thanh tra tính tuân thủ,
thanh tra vụ việc, xem xét khiếu nại, tố cáo,
tham nhũng, ... mà chưa tập trung vào thanh
tra hướng đến mục tiêu đảm bảo an toàn hoạt
động ngân hàng và hệ thống tổ chức tín dụng
như thanh tra đánh giá rủi ro thị trường, cảnh
báo sớm các rủi ro có thể xảy ra do cơ chế
điều hành có vấn đề hay do đầu tư cho vay
vào ngành, lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro.
Thứ hai, phương thức tiến hành hoạt động
thanh tra, giám sát cần có sự thay đổi theo quy
trình đi từ Hội sở chính, đến các chi nhánh,
phòng giao dịch cùng với việc xem xét đánh
giá chiến lược hoạt động, chính sách kinh
doanh, năng lực quản trị, điều hành, mức độ
rủi ro, ... rồi mới đến xem xét theo từng vấn đề
cụ thể, từng mảng hoạt động nghiệp vụ hoặc
chi nhánh có liên quan để xác định vấn đề tồn
tại, yêu cầu hiệu chỉnh để nâng cao mức độ
an toàn cho đơn vị bị giám sát, góp phần bảo
đảm an toàn và ổn định hệ thống ngân hàng.
Thứ ba, hoạt động thanh tra, giám sát còn
đơn độc trong giám sát hiệu quả hoạt động của
tổ chức tín dụng, chưa xem xét và nâng cao vai
trò giám sát tại chỗ của kiểm toán, kiểm soát
nội bộ trong từng tổ chức tín dụng, cũng như
phối hợp với các tổ chức khác như Bảo hiểm
tiền gửi, các công ty kiểm toán độc lập,... để
tăng cường hiệu quả hoạt động giám sát theo
hướng đánh giá và phòng ngừa rủi ro.
Thứ tư, các cơ quan giám sát, cụ thể là Ngân
hàng Nhà nước, vừa thực hiện chức năng cấp
phép, vừa ban hành cơ chế - chính sách, vừa
thực hiện chức năng hướng dẫn, triển khai
thực hiện cơ chế chính sách và kiêm luôn vai
trò kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động.
Điều này dễ dẫn đến xung đột lợi ích, hiệu
quả và hiệu lực giám sát không cao.
Thứ năm, các công cụ phục vụ cho giám
sát dựa trên rủi ro còn thiếu và chưa được
vận dụng nhiều vào trong thực tiễn. Các mô
hình phân tích định lượng, dự báo và kiểm
định đánh giá rủi ro hay cảnh báo sớm đối
với từng ngân hàng hay toàn hệ thống ngân
hàng chưa được phát triển và làm giảm đi
tính chuyên nghiệp và hiệu quả hoạt động
thanh tra, giám sát.
Thứ sáu, bản thân cơ quan thanh tra, giám
sát còn hạn chế ở một số phương diện kỹ thuật
lẫn nguồn nhân lực, trong đó đối với phương
diện kỹ thuật là việc ứng dụng công nghệ thu
thập và xử lý thông tin còn lạc hậu, mức độ
chính xác và tính cập nhật dữ liệu vẫn đang
là vấn đề cần phải khắc phục; đối với nguồn
nhân lực thì vừa thiếu về số lượng lại yếu về
trình độ nghiệp vụ thanh tra, giám sát dựa trên
việc áp dụng mô hình kiểm định và kiểm tra
tính hiệu quả của mô hình quản trị rủi ro của
các tổ chức tín dụng vào trong thực tiễn thanh
tra, giám sát các tổ chức tín dụng.
Những bất cập trong hoạt động thanh tra,
giám sát ngân hàng ở Việt Nam tồn tại do các
nguyên nhân như:
Một là, nguồn nhân lực, con người là yếu
tố quan trọng quyết định chất lượng công tác
thanh tra, giám sát. Nhưng chưa có nhiều cán
bộ thực tế đã trải qua kinh doanh để có kinh
nghiệm hiểu rõ bản chất kinh doanh của các
ngân hàng thương mại; hạn chế do thiếu kinh
nghiệm thực tế, máy móc thiết bị công nghệ
dùng cho nghiệp vụ thanh tra, giám sát còn
lạc hậu, yếu chưa thích nghi với công nghệ
mới trong hoạt động kinh doanh ngân hàng
ngày nay; Chính sách lương, thưởng chưa
đảm bảo làm cho cán bộ thanh tra có toàn tâm
toàn ý thực hiện công việc thanh tra, giám sát
ngân hàng.
19
Giải pháp hoàn thiện . . .
Hai là, số liệu thanh tra, giám sát từ xa
chưa phản ánh đúng thực trạng hoạt động
kinh doanh của các ngân hàng thương mại,
khác với số liệu thanh tra tại chỗ.
Ba là, các tiêu chí, chỉ tiêu đánh giá không
đồng nhất trong báo cáo nên khó tổng hợp,
phân tích để phản ánh chính xác tình hình
hoạt động kinh doanh của những ngân hàng
bị thanh tra, giám sát.
Bốn là, sự bất cập giữa thanh tra, giám sát
và thực tế phát sinh kinh doanh của ngân hàng
thương mại trong việc tuân thủ quy định của
Ngân hàng Nhà nước như lãi suất huy động,
trạng thái kinh doanh vàng, ngoại tệ, hệ số an
toàn vốn và khả năng thanh khoản...
Năm là, cơ chế còn có “khoảng trống”
có thể vận dụng và thanh tra, giám sát ngân
hàng của Ngân hàng Nhà nước còn “nhẹ tay
- thường giơ cao đánh kẽ”, cả nể, ít nhiều bị
chi phối bởi nhiều mối quan hệ đan xen lẫn
nhau giữa quản lý và kinh doanh.
Xuất phát từ thực trạng nêu trên, tác giả
nêu một số giải pháp hoàn thiện hoạt động
thanh tra, giám sát ngân hàng trong giai đoạn
hiện nay:
3. Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động
thanh tra, giám sát ngân hàng tại Việt Nam
Thứ nhất: Hoàn thiện khung pháp lý tạo
điều kiện nền tảng để xây dựng mô hình giám
sát tài chính nói chung và giám sát ngân hàng
nói riêng
Hiện nay chúng ta đã cơ bản có được các
bộ luật cho các ngành ngân hàng, bảo hiểm,
chứng khoán và hoạt động thanh tra, giám
sát cũng được đề cập đến trong các bộ luật
trên. Song nhìn chung vẫn chưa cụ thể và rõ
ràng. Do đó, cần hướng đến xây dựng cũng
như hoàn thiện các dự luật, các quy chế về
giám sát ngân hàng, giám sát hoạt động bảo
hiểm, giám sát hoạt động chứng khoán nhằm
tăng cường tính pháp lý cho hệ thống giám sát
tài chính. Đặc biệt môi trường pháp lý phải
góp phần tăng cường ý thức trách nhiệm công
khai thông tin cũng như là thước đo uy tín của
các đối tượng giám sát.
Thứ hai; Xây dựng cơ chế giám sát phù
hợp và hiệu quả
Để đảm bảo mục tiêu ổn định tài chính
của chính sách an toàn vĩ mô trước những
bất ổn vĩ mô đòi hỏi Việt Nam phải xây dựng
được một cơ chế giám sát tài chính phù hợp.
Cơ chế giám sát tài chính phù hợp trước hết
phải được xây dựng trên mô hình giám sát tài
chính hiệu quả. Qua thực tiễn nghiên cứu và
kinh nghiệm quốc tế cho thấy có một số cơ sở
cho rằng mô hình giám sát tài chính hợp nhất
là phù hợp với việc giám sát các rủi ro của hệ
thống tài chính Việt Nam hiện nay.
Về cơ sở lý thuyết: Mặc dù có những bất
lợi và khó khăn có thể gặp phải khi chuyển
sang mô hình giám sát hợp nhất, mô hình này
có nhiều ưu thế, đó là: Mô hình giám sát hợp
nhất giúp ngăn ngừa những mâu thuẫn và
khoảng cách trong các ngành thuộc lĩnh vực
tài chính; Tạo ra sự nhất quán trong các qui
định và trong giám sát; Thêm nữa, hệ thống
này nâng cao hiệu quả của hoạt động giám sát
và tuân thủ các qui định, chính sách.
- Xu hướng và kinh nghiệm quốc tế: Số
lượng các nước áp dụng mô hình giám sát tài
chính hợp nhất ngày càng tăng qua các năm.
Nhật Bản và Hàn Quốc đã rất thành công khi
áp dụng HTGSTC hợp nhất từ năm 1997,
1998. Sau khủng hoảng tài chính toàn cầu
2007-2009, một số quốc gia đặt lại vấn đề về
hiệu lực và sự phù hợp của hệ thống giám sát
này. Có 2 quan điểm khi xem xét lại xu hướng
củng cố hệ thống giám sát tài chính hợp nhất
sau khủng hoảng đó là: i/ khẳng định sự phù
hợp và tiếp tục theo đuổi và hoàn thiện mô
20
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
hình giám sát tài chính hợp nhất. Điển hình là
các quốc gia châu Á: Singapore, Hàn Quốc,
Nhật Bản; ii/ Chuẩn bị điều kiện để cải cách
hệ thống giám sát tài chính theo hướng hợp
nhất hơn. Theo quan điểm này, mỗi quốc gia
có sự lựa chọn riêng nhưng nhìn chung đều
nhìn nhận một mô hình hợp nhất sẽ giúp để
có cái nhìn tổng quan cả hệ thống. Theo xu
hướng này phải kể đến hệ thống giám sát của
Mỹ, Đức.
- Xuất phát từ thực trạng hệ thống tài chính
Việt Nam và những bất cập của HTGSTC
hiện tại cũng như các yếu tố khác đòi hỏi Việt
Nam phải chuyển sang HTGSTC hợp nhất:
Sự phát triển nhanh chóng của hệ thống
tài chính cả về qui mô, sự đa dạng về dịch vụ
và việc đan xen các sản phẩm tài chính mới...
trong thời gian qua và xu hướng phát triển
hệ thống tài chính trong 10 năm tới cần thiết
phải xây dựng HTGSTC hợp nhất để giám
sát an toàn vĩ mô và cho tất cả các lĩnh vực
tài chính trong điều kiện ranh giới giữa các
định chế tài chính và các dịch vụ tài chính
ngày càng mờ nhạt.
Quá trình tự do hoá tài chính bên cạnh
những tác động tích cực cũng làm tăng nguy
cơ bất ổn cho môi trường kinh tế vĩ mô và
trong từng lĩnh vực tài chính, từng định chế
tài chính của Việt Nam. Để đối phó với những
rủi ro có thể xảy ra trong xu hướng tự do hoá
tài chính ngày càng rộng và sâu, việc lựa chọn
mô hình giám sát tài chính hợp nhất cho Việt
Nam trong tương lai là phù hợp.
Từ các lý do trên, việc lựa chọn mô hình
giám sát tài chính hợp nhất trên nền tảng
HTGSTC hiện tại của Việt Nam là hoàn toàn
thích hợp và khả thi. Đương nhiên việc hoàn
thiện chức năng và cơ chế vận hành hệ thống
giám sát hợp nhất đòi hỏi sự quyết tâm, lộ
trình thích hợp và hệ thống giải pháp đồng bộ.
Thứ ba: Thực hiện các biện pháp nhằm
tăng cường minh bạch tài chính, nâng cao độ
tin cậy của hệ thống thông tin tài chính
Đây là hệ thống các giải pháp kết hợp cả
về kinh tế - chính trị và xã hội bao gồm:
Ban hành những quy định cụ thể về chế độ
công khai tài chính, trong đó cần xác định cụ
thể mức độ công khai của các loại thông tin
tài chính, loại nào phải minh bạch, loại nào
được cấp phép bảo mật;
Tăng cường pháp chế tài chính với các
hình thức chế tài thích hợp khi vi phạm chế
độ công khai thông tin của các đối tượng bị
giám sát;
Xây dựng hệ thống thông tin đa chiều từ
các cơ quan quản lý, từ các đối tượng giám sát,
từ khách hàng sử dụng các dịch vụ tài chính.
Đặc biệt cần thành lập các doanh nghiệp đánh
giá, xếp hạng tín nhiệm để làm tăng thêm
nguồn tư liệu từ thông tin tài chính;
Hoàn thiện hệ thống kế toán- kiểm toán
theo chuẩn mực quốc tế. Đặc biệt nhà nước
cần có biện pháp ngăn chặn tình trạng cạnh
tranh không lành mạnh thông qua giảm