Công ty Quản lý Tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) được thành
lập vào ngày 27/3/2013 theo Quyết định 1459/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) và chính thức triển khai mua nợ từ tháng
10/2013. Sau hơn 3 năm đi vào hoạt động, VAMC đã hoàn thành nhiệm vụ được
giao, giúp cải thiện bức tranh nợ xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD) Việt
Nam, đưa tỷ lệ nợ xấu toàn ngành Ngân hàng về dưới 3%, góp phần lành mạnh
hóa tình hình tài chính của các ngân hàng, tháo gỡ khó khăn cho các doanh
nghiệp, thúc đẩy phát triển kinh tế. Tuy nhiên, thời gian vừa qua VAMC mới chỉ
triển khai mua bán nợ bằng trái phiếu đặc biệt, về mua bán nợ theo giá trị thị
trường đã được triển khai nhưng chưa có kết quả do còn nhiều khó khăn, vướng
mắc trong cơ chế cần tháo gỡ.
Bài viết tập trung phân tích những khó khăn và vướng mắc trong cơ chế mua
bán nợ xấu theo giá trị thị trường, từ đó đề xuất giải pháp để thúc đẩy công tác
mua bán nợ xấu theo giá trị thị trường của VAMC.
5 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 497 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải pháp thực hiện mua bán nợ xấu theo giá trị thị trường của VAMC, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1THAÙNG 9.2016 - SOÁ 172
Giải pháp thực hiện mua bán nợ xấu theo
giá trị thị trường của VAMC
Vấn đề - Sự kiện
ThS. NGUYỄN THỊ KIM QUỲNH
Công ty Quản lý Tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) được thành
lập vào ngày 27/3/2013 theo Quyết định 1459/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) và chính thức triển khai mua nợ từ tháng
10/2013. Sau hơn 3 năm đi vào hoạt động, VAMC đã hoàn thành nhiệm vụ được
giao, giúp cải thiện bức tranh nợ xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD) Việt
Nam, đưa tỷ lệ nợ xấu toàn ngành Ngân hàng về dưới 3%, góp phần lành mạnh
hóa tình hình tài chính của các ngân hàng, tháo gỡ khó khăn cho các doanh
nghiệp, thúc đẩy phát triển kinh tế. Tuy nhiên, thời gian vừa qua VAMC mới chỉ
triển khai mua bán nợ bằng trái phiếu đặc biệt, về mua bán nợ theo giá trị thị
trường đã được triển khai nhưng chưa có kết quả do còn nhiều khó khăn, vướng
mắc trong cơ chế cần tháo gỡ.
Bài viết tập trung phân tích những khó khăn và vướng mắc trong cơ chế mua
bán nợ xấu theo giá trị thị trường, từ đó đề xuất giải pháp để thúc đẩy công tác
mua bán nợ xấu theo giá trị thị trường của VAMC.
2 SOÁ 172 - THAÙNG 9.2016
Từ khóa: mua bán nợ xấu theo
giá trị thị trường, VAMC
1. Khó khăn và vướng mắc
trong cơ chế mua bán nợ xấu
theo giá trị thị trường của
VAMC
Ngày 12/4/2016, Thống đốc
NHNN đã ban hành Quyết định
618/QĐ-NHNN, về việc “Xây
dựng và triển khai Phương án
mua nợ xấu theo giá trị thị trường
của Công ty Quản lý tài sản của
các tổ chức tín dụng Việt Nam”.
Ngoài các nội dung được quy
định tại Nghị định 53/2013/
NĐ-CP, Thông tư 19/2013/
TT-NHNN và các văn bản quy
phạm pháp luật sửa đổi bổ sung
của Nghị định 53/2013/NĐ-CP,
Thông tư 19/2013/TT-NHNN,
Quyết định 618/QĐ-NHNN quy
định các nội dung cụ thể hơn về
đối tượng, điều kiện, nguyên tắc
mua nợ, nguyên tắc xác định giá
mua nợ, trình tự mua nợ theo giá
trị trị trường.
Tuy nhiên, trên thực tế khi triển
khai mua bán nợ theo giá trị thị
trường, VAMC còn gặp nhiều
khó khăn, vướng mắc, cụ thể:
1.1. Các TCTD mong muốn bán
nợ xấu theo giá trị thị trường
cho VAMC bằng tiền mặt, trong
khi nguồn vốn mua nợ theo giá
trị thị trường của VAMC sẽ chủ
yếu từ việc phát hành trái phiếu
Quyết định số 618/QĐ-NHNN
có quy định, nguồn vốn sử dụng
để mua nợ theo giá trị thị trường
của VAMC thì ngoài vốn điều
lệ và nguồn vốn phát hành trái
phiếu của VAMC, VAMC được
sử dụng các nguồn vốn khác
như: Nguồn vốn hợp tác với các
tổ chức tài chính quốc tế theo
nguyên tắc chia sẻ lợi ích và rủi
ro; nguồn vốn ủy thác của các
nhà đầu tư để mua nợ theo giá thị
trường và nguồn vốn từ các quỹ.
Tuy nhiên, trong các nguồn vốn
để mua nợ theo giá trị thị trường
thì nguồn vốn từ việc VAMC
phát hành trái phiếu sẽ là nguồn
vốn chủ yếu với lý do:
Một là, hiện vốn điều lệ của
VAMC chỉ có 2.000 tỷ đồng,
ngoài mua nợ theo giá trị thị
trường thì VAMC còn các hoạt
động nghiệp vụ khác cũng cần
đến nguồn vốn để triển khai hoạt
động như: Đầu tư, sửa chữa, nâng
cấp, khai thác, sử dụng, cho thuê
tài sản bảo đảm đã được VAMC
thu nợ; đầu tư tài chính, góp vốn,
mua cổ phần... Các nghiệp vụ này
đã được quy định tại Nghị định
53/2013/NĐ-CP, tuy nhiên đến
thời điểm hiện tại VAMC vẫn
chưa triển khai, trong trường hợp
nếu VAMC dùng hết 2.000 tỷ
đồng vào mua nợ xấu theo giá trị
thị trường thì sẽ không còn nguồn
vốn để triển khai các nghiệp vụ
như trên.
Hai là, nguồn vốn VAMC nhận
ủy thác từ các nhà đầu tư để mua
nợ xấu theo giá trị thị trường, vậy
các nhà đầu tư mà VAMC nhận
ủy thác có cần phải có chức năng
mua bán nợ không? Điều này
cũng chưa được quy định cụ thể,
sẽ khó cho VAMC và các nhà
đầu tư trong quá trình thực hiện.
Ba là, VAMC được sử dụng các
quỹ được trích lập theo quy định
của pháp luật, tuy nhiên nguyên
tắc hoạt động của VAMC là “lấy
thu bù chi, không vì mục tiêu lợi
nhuận”, do vậy nguồn vốn từ các
quỹ của VAMC không nhiều, đây
sẽ không thể là nguồn vốn lớn
trong hoạt động mua nợ theo giá
trị thị trường của VAMC.
Bốn là, VAMC có thể thu hút
nguồn vốn từ các tổ chức tài
chính quốc tế theo nguyên tắc
chia sẻ lợi ích và rủi ro. Tuy
nhiên, trên thực tế sẽ rất khó có
thể triển khai thu hút nguồn vốn
này, do các tổ chức tài chính sẽ
không mặn mà trong việc hợp tác
với VAMC vì thị trường mua bán
nợ xấu của Việt Nam chưa phát
triển, sẽ rất khó trong quá trình
xử lý được khoản nợ xấu. Hơn
nữa, chủ thể tham gia thị trường
mua bán nợ xấu của Việt Nam
đang bị hạn chế bởi Luật Đầu tư
số 67/2014/QH13. Cụ thể, Điều
7 Luật Đầu tư quy định về “Kinh
doanh dịch vụ mua bán nợ” thuộc
danh mục ngành nghề đầu tư kinh
doanh có điều kiện và Chính phủ
quy định chi tiết việc công bố và
kiểm soát điều kiện đầu tư kinh
doanh. Tuy nhiên đến thời điểm
hiện tại, Chính phủ chưa có bất
kỳ văn bản nào quy định về điều
kiện kinh doanh ngành nghề mua
bán nợ, do vậy các chủ thể muốn
tham gia thị trường mua bán nợ
sẽ gặp lúng túng vì chưa có hành
lang pháp lý rõ ràng.
Ngoài ra, VAMC là Công ty
TNHH Một thành viên do Nhà
nước nắm giữ 100% vốn điều lệ
nên hoạt động chịu sự quản lý
của Luật Quản lý, sử dụng vốn
nhà nước đầu tư vào sản xuất,
kinh doanh tại doanh nghiệp số
69/2014/QH13 ngày 30/12/2014.
Tại Khoản 2, Điều 26, Luật
số 69/2014/QH13 có quy định
“Doanh nghiệp được quyền bán
nợ phải thu quá hạn, nợ phải thu
khó đòi, nợ phải thu không có
3THAÙNG 9.2016 - SOÁ 172
khả năng thu hồi. Doanh nghiệp
chỉ được bán nợ cho tổ chức kinh
tế có chức năng kinh doanh mua
bán nợ, không được bán trực
tiếp cho đối tượng nợ. Giá bán
do các bên thỏa thuận và chịu
trách nhiệm về quyết định của
mình”. Nếu theo quy định này thì
VAMC không thể bán cho bên
thứ 3 nếu không có chức năng
mua bán nợ ngoài Công ty mua
bán nợ Việt Nam DATC và gần
20 AMC trên thị trường. Trong
khi đó, các AMC của TCTD
thành lập với mục đích xử lý nợ
nội bộ cho chính các ngân hàng
mẹ, như vậy VAMC càng khó
khăn hơn trong việc bán nợ ra thị
trường.
Trong khi đó, các TCTD lại
mong muốn bán các khoản nợ
xấu bằng tiền mặt, việc mua nợ
xấu theo giá trị thị trường của
VAMC bằng trái phiếu sẽ không
khuyến khích được các TCTD
bán nợ xấu cho VAMC.
1.2. Chưa có cơ chế khuyến
khích hoặc buộc các TCTD bán
nợ xấu theo giá trị thị trường
cho VAMC
Việc mua nợ xấu theo giá trị thị
trường của VAMC trên cơ sở
thỏa thuận với TCTD, không có
bất cứ quy định nào buộc các
TCTD phải bán nợ xấu theo giá
trị trường cho VAMC. Do đó, các
TCTD sẽ không mặn mà trong
việc bán nợ xấu cho VAMC,
VAMC và TCTD sẽ khó tìm
được tiếng nói chung khi xác
định giá trị khoản nợ, do:
Một là, theo Khoản 4, Điều 1,
Quyết định 618/QĐ-NHNN ngày
12/4/2016 về việc xây dựng và
triển khai phương án mua nợ xấu
theo giá trị thị trường của VAMC
quy định nguyên tắc xác định giá
mua nợ căn cứ kết quả định giá
khoản nợ, tài sản bảo đảm, đánh
giá khả năng phát mại tài sản bảo
đảm hoặc triển vọng phục hồi
khả năng trả nợ của khách hàng
vay hoặc khả năng bán khoản nợ
xấu của VAMC cho nhà đầu tư.
Giá bán này không thể đáp ứng
giá bán mong muốn của TCTD
vì một trong hai nguyên nhân: (i)
TCTD định giá tài sản vượt quá
giá trị thực tế tại thời điểm cấp tín
dụng, giá trị thị trường hiện nay
của tài sản thấp hơn nhiều so với
giá trị định giá này; (ii) TCTD
định giá tài sản sát với giá trị
thực tế tại thời điểm cấp tín dụng,
nhưng giá trị thị trường hiện nay
của tài sản đã suy giảm so với giá
trị định giá trước đây, trong đó
mức giảm là khá đáng kể đối với
tài sản là bất động sản.
Thực trạng này dẫn tới vấn đề
xung đột lợi ích giữa VAMC và
TCTD: VAMC mong muốn bán
nhanh nợ/tài sản để ngăn chặn sự
tổn thất giá trị của khoản nợ theo
thời gian, nhanh chóng đưa khoản
tiền bán nợ/tài sản vào luân
chuyển trong nền kinh tế; TCTD
chỉ muốn bán nợ/tài sản đảm bảo
thu đủ dư nợ gốc (để tránh tình
trạng khoản lỗ trong hoạt động
cấp tín dụng hiện thực hóa, làm
ảnh hưởng đến tình hình tài chính
của TCTD và dẫn đến nguy cơ
bị xem xét trách nhiệm khi cấp
tín dụng) nên phát sinh tâm lý trì
hoãn, “chờ đợi” sự lên giá của tài
sản.
Hai là, thiếu các quy định pháp
lý rõ ràng về việc truy cứu trách
nhiệm cá nhân, TCTD có tâm lý
trì hoãn việc bán nợ xấu theo giá
trị thị trường do lo sợ về vấn đề
trách nhiệm cá nhân, dẫn đến việc
VAMC càng khó hơn trong việc
mua nợ xấu với giá thị trường
thực sự.
Ba là, theo quy định tại Khoản
19, Điều 1, Thông tư 08/2016/
TT-NHNN ngày 16/6/2016 sửa
đổi, bổ sung một số điều của
Thông tư 19/2013/TT-NHNN
ngày 06/9/2013 thì khi TCTD
bán nợ cho VAMC, trường hợp
giá bán nợ thấp hơn giá trị ghi
sổ số dư nợ gốc của khoản nợ thì
phần chênh lệch thấp hơn được
bù đắp từ tiền bồi thường của cá
nhân, tập thể (trong trường hợp
tổn thất đã được xác định do cá
nhân, tập thể gây ra và phải bồi
thường theo quy định), tiền bảo
hiểm của tổ chức bảo hiểm và
quỹ dự phòng rủi ro đã được trích
lập trong chi phí, phần còn thiếu
được hạch toán vào chi phí kinh
doanh trong kỳ của TCTD bán
nợ. TCTD chỉ được phân bổ dần
Hiện chưa có cơ chế khuyến khích hoặc buộc các TCTD bán nợ xấu theo giá trị thị trường cho VAMC, trong khi các TCTD lại mong muốn bán các khoản nợ xấu bằng tiền mặt chứ không phải
bằng trái phiếu. Do vậy, việc VAMC muốn mua nợ xấu bằng trái phiếu theo giá trị thị trường chưa nhận
được sự đồng thuận từ các TCTD.
4 SOÁ 172 - THAÙNG 9.2016
trong 5 năm (từ thời điểm bán nợ)
đối với phần chênh lệch giữa giá
trị ghi sổ trừ đi giá trị mua bán
của khoản nợ được mua theo giá
trị thị trường và giá trị khoản dự
phòng rủi ro đã trích cho khoản
nợ được mua bán, ngoại trừ
trường hợp TCTD phân bổ khoản
chênh lệch đó dẫn đến bị lỗ hoặc
TCTD đang bị lỗ.
Việc quy định như vậy làm cho
các TCTD chưa muốn bán các
khoản nợ xấu mà tiếp tục cố gắng
xử lý với hy vọng rằng thị trường
bất động sản sẽ khởi sắc trở lại và
giá trị các khoản nợ xấu sẽ tăng
lên. Tuy nhiên, các khoản nợ xấu
càng để lâu càng khó xử lý.
1.3. Thiếu các quy định pháp lý
rõ ràng để bảo vệ cán bộ VAMC
khi xử lý nợ xấu
Theo Quyết định số 618/QĐ-
NHNN ngày 12/4/2016 của
NHNN về việc xây dựng và triển
khai phương án mua nợ xấu theo
giá trị thị trường của VAMC
có quy định nguyên tắc mua nợ
xấu theo giá trị thị trường như
sau: “...Công ty Quản lý tài sản
chịu trách nhiệm về các quyết
định mua bán nợ, đảm bảo việc
sử dụng vốn an toàn, hiệu quả
và lợi ích của Nhà nước”. Đồng
thời tại Khoản 2, Điều 13, Nghị
định 53/2013/NĐ-CP có quy định
Công ty Quản lý tài sản có nghĩa
vụ bảo toàn và phát triển vốn
được Nhà nước giao.
Trường hợp VAMC chấp hành
đúng các quy định và nguyên tắc
trong việc mua các khoản nợ xấu
theo giá thị trường, sau khi mua
nợ VAMC thực hiện bán khoản
nợ này, tuy nhiên do các nguyên
nhân khách quan của thị trường
làm cho giá trị khoản nợ sụt giảm
(ví dụ do biến động của giá trị tài
sản bảo đảm là bất động sản...)
khiến cho VAMC không thể bán
khoản nợ này bằng giá trị mua
ban đầu, như vậy trường hợp này
cán bộ VAMC đã vi phạm các
quy định về “bảo toàn và phát
triển vốn được Nhà nước giao”,
khiến cán bộ VAMC ngần ngại
trong việc triển khai mua và bán
nợ xấu theo giá trị thị trường.
2. Giải pháp để thúc đẩy công
tác mua bán nợ xấu theo giá trị
thị trường của VAMC
Để triển khai tốt hoạt động mua
bán nợ theo giá trị thị trường của
VAMC và TCTD, cần phải tháo
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị định số 53/2013/CĐ-CP ngày 18/5/2013 của Chính Phủ về thành lập, tổ chức và hoạt động của Công ty Quản lý tài sản của
các tổ chức tín dụng Việt Nam và các văn bản sửa đổi bổ sung.
2. Thông tư số 19/2013/TT-NHNN ngày 06/9/2013 của NHNN Quy định về việc mua, bán và xử lý nợ xấu của VAMC và các văn bản
sửa đổi bổ sung.
3. Quyết định số 618/QĐ-NHNN ngày 12/4/2016 của NHNN về việc xây dựng và triển khai phương án mua nợ xấu theo giá trị thị
trường của VAMC.
4. Luật số 69/2014/QH13 ngày 30/12/2014 về Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp.
5. Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 ngày 26/11/2014.
SUMMARY
Solutions to promote the activities of buying bad debts based on market value of VAMC
Vietnamese Assets Management Company (VAMC) was established on 27/3/2013 with Decision 1459/QĐ-NHNN by The
State Bank Governor and started buying debt since October 2013. After 3-years-operation, VAMC has accomplished
its mission, improving the whole picture of bad debts among Vietnamese credit institutions, reducing bad debt ratio of
the Banking Sector to lower than 3%, healthier the financial situation of Bank industry, resolving the difficulties for
enterprises and promoting the development of economy. However, VAMC recently deploy to buy debt by using special
bonds. Buying debts based on market value has deployed but do not gain any results due to some difficulties and
problems in the mechanism that need to be removed. This article is focused on analyzing the difficulties and problems
around the mechanism of buying bad debt based on market value, from that giving recommendation and suggesting
solutions to promote the activities of buying bad debts based on market value of VAMC.
Quynh Thi Kim Nguyen, M.Ec.
Working Organization: Vietnamese Assets Management Company.
THÔNG TIN TÁC GIẢ
Nguyễn Thị Kim Quỳnh, Thạc sỹ
Đơn vị công tác: Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC)
Lĩnh vực nghiên cứu chính: Quản trị rủi ro, nợ xấu, tín dụng ngân hàng
Tạp chí tiêu biểu đã có bài viết đăng tải: Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng
Email: quynhntk.vamc@gmail.com
xem tiếp trang 13
13THAÙNG 9.2016 - SOÁ 172
7. Wooldrige, J.M (2002), Econometric analysis of cross section and panel data. The MIT press, Cambrige, Massachusetts, London,
England.
SUMMARY
Assess the impact of these factors on the economic restructuring of Vietnam
Economic structure formation, development and transformation is a process of objective and follow certain rules.
However, the results, the time, and effectiveness of each country’s restructuring different for different results. When
determining the factors affecting the formation, economic structure be understood in view of the structure of output
(GDP), when determine the factors affecting the formation, transfer economic structure. There are many approaches,
classification of factors affecting output structure, however, are largely approach divided into three main groups of
factors: The input supply factors of production, the group’s demand factors of production output and factor groups on
policy mechanisms. Three groups are also factors affecting the three main groups of economic growth, the recognition
of these factors have formed three major theory of economics is the theory of classical economics, Keynesian and theory
of Institutions. This means, the main factor affecting the overall restructuring is the determinants of economic growth.
Key word: economic restructuring.
Huong Thi Thanh Tran, M.Ec.
Working Organization: Accounting and Auditing Faculty, Banking Academy
THÔNG TIN TÁC GIẢ
Trần Thị Thanh Hương, Thạc sĩ
Đơn vị công tác: Khoa Kế toán- Kiểm toán, Học viện Ngân hàng
Lĩnh vực nghiên cứu chính: Kinh tế- xã hội, Thống kê
Tạp chí tiêu biểu đã có bài viết đăng tải: Con số và Sự kiện, Khoa học và Đào tạo Ngân hàng.
Email: huongvtk@gmail.com
gỡ các khó khăn vướng mắc như phân tích ở trên, cụ
thể:
- Giải pháp về nguồn vốn hoạt động cho VAMC:
Như phân tích ở trên, các TCTD mong muốn bán
các khoản nợ xấu cho VAMC bằng tiền mặt, do vậy
cần tăng vốn điều lệ cho VAMC, có thể tăng lên
5.000- 10.000 tỷ đồng để đáp ứng một phần vốn cho
hoạt động mua bán nợ theo giá trị thị trường của
VAMC.
- Cần có quy định cụ thể để bảo vệ cán bộ VAMC
trong việc mua bán nợ xấu theo giá trị thị trường:
Để khuyến khích cán bộ VAMC đẩy nhanh quá
trình mua bán nợ xấu theo giá trị thị trường, trường
hợp việc không thu hồi đầy đủ số tiền mua nợ theo
giá trị thị trường do các nguyên nhân khách quan thì
cần có các quy định cụ thể để bảo vệ cán bộ VAMC
không bị xem xét các trách nhiệm pháp lý trong
trường hợp cán bộ VAMC tuân thủ đúng các quy
định, quy trình khi thực hiện mua bán nợ xấu theo
giá trị thị trường.
- Cần có một cơ chế buộc các TCTD bán nợ xấu
theo giá trị thị trường cho VAMC: Căn cứ xếp loại,
đánh giá về tình hình nợ xấu của các TCTD (qua kết
quả thanh tra, kiểm tra của Cơ quan Thanh tra Giám
sát ngân hàng), Cơ quan Thanh gia Giám sát ngân
tiếp theo trang 4
hàng nghiên cứu đề xuất kiến nghị với Thống đốc
NHNN ban hành qui định cụ thể về nợ xấu cần bán
theo giá trị thị trường cho VAMC của TCTD.
- Cần có cơ chế phân bổ khoản chênh lệch giữa
giá bán và giá trị khoản nợ khi bán theo giá trị thị
trường. Nếu quy định như hiện tại thì các TCTD
đều phải phân bổ ngay phần chênh lệch giữa giá giá
bán và giá trị khoản nợ vào chi phí kinh doanh trong
kỳ của TCTD (ngoại trừ các TCTD đang bị lỗ hoặc
khi phân bổ phần chênh lệch dẫn đến bị lỗ). Thay vì
quy định như vậy, Nghị định 53/2013/NĐ-CP nên
sửa đổi theo hướng nới lỏng việc phân bổ lỗ trong 5
năm để tránh áp lực tài chính cho các TCTD.
- Cần hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật để
khuyến khích thị trường mua bán nợ phát triển. Như
phân tích ở trên, VAMC không thể bán nợ cho bên
thứ 3 nếu không có chức năng mua bán nợ ngoài
DATC và gần 20 AMC trên thị trường. Để khuyến
khích các tổ chức, cá nhân tham gia thị trường mua
bán nợ, đề nghị Quốc hội sửa Khoản 2, Điều 26 Luật
Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất,
kinh doanh tại doanh nghiệp, theo đó VAMC được
phép bán nợ cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu.
Đồng thời, đề nghị Chính phủ cần có quy định cụ
thể về điều kiện ngành nghề mua bán nợ để các chủ
thể tham gia thị trường có căn cứ thực hiện, tránh
lúng túng như hiện nay. ■