Đặt vấn đề: Tê khoang cạnh cột sống đơn độc hoặc kết hợp với mê toàn diện giúp kiểm soát đau tốt trong và
sau mổ với ít tác dụng phụ khi so sánh với các phương thức giảm đau khác trong phẫu thuật ung thư vú.
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả và tính an toàn của tê cạnh cột sống với bupivacaine 0,5% trong phẫu thuật
ung thư vú.
Thiết kế nghiên cứu: Báo cáo trường hợp bệnh.
Phương pháp nghiên cứu: Tiêm thuốc tê vào khoang cạnh cột sống ở ba vị trí T1, T3, T6 với tổng liều
0,
3ml/kg bupivacaine 0,5% trước khi gây mê toàn diện ở 10 bệnh nhân ung thư vú được phẫu thuật đoạn nhũ
nạo hạch.
Kết quả: Trong thời gian ba tháng từ tháng 4 năm 2011 đến tháng 7 năm 2011, tê cạnh cột sống tiêm thuốc
một lần được thực hiện cho 10 bệnh nhân ung thư vú phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch. Điểm đau VAS ở mức thấp
(0,6-1,5) kéo dài 24 giờ sau mổ. Sau mổ, 90% bệnh nhân không cần thuốc giảm đau nào thêm, chỉ 1 bệnh nhân
cần thêm paracetamol để giảm đau sau mổ. Không ghi nhận tai biến và tác dụng phụ nghiêm trọng nào.
Kết luận: Tê cạnh cột sống tiêm thuốc một lần là kỹ thuật đơn giản, an toàn và có hiệu quả giảm đau tốt kéo
dài trên 24 giờ sau phẫu thuật ung thư vú.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 352 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giảm đau bằng tê cạnh cột sống trong phẫu thuật ung thư vú, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 51
GIẢM ĐAU BẰNG TÊ CẠNH CỘT SỐNG
TRONG PHẪU THUẬT UNG THƯ VÚ
Nguyễn Thị Thanh*, Nguyễn Trung Thành**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Tê khoang cạnh cột sống đơn độc hoặc kết hợp với mê toàn diện giúp kiểm soát đau tốt trong và
sau mổ với ít tác dụng phụ khi so sánh với các phương thức giảm đau khác trong phẫu thuật ung thư vú.
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả và tính an toàn của tê cạnh cột sống với bupivacaine 0,5% trong phẫu thuật
ung thư vú.
Thiết kế nghiên cứu: Báo cáo trường hợp bệnh.
Phương pháp nghiên cứu: Tiêm thuốc tê vào khoang cạnh cột sống ở ba vị trí T1, T3, T6 với tổng liều
0,3ml/kg bupivacaine 0,5% trước khi gây mê toàn diện ở 10 bệnh nhân ung thư vú được phẫu thuật đoạn nhũ
nạo hạch.
Kết quả: Trong thời gian ba tháng từ tháng 4 năm 2011 đến tháng 7 năm 2011, tê cạnh cột sống tiêm thuốc
một lần được thực hiện cho 10 bệnh nhân ung thư vú phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch. Điểm đau VAS ở mức thấp
(0,6-1,5) kéo dài 24 giờ sau mổ. Sau mổ, 90% bệnh nhân không cần thuốc giảm đau nào thêm, chỉ 1 bệnh nhân
cần thêm paracetamol để giảm đau sau mổ. Không ghi nhận tai biến và tác dụng phụ nghiêm trọng nào.
Kết luận: Tê cạnh cột sống tiêm thuốc một lần là kỹ thuật đơn giản, an toàn và có hiệu quả giảm đau tốt kéo
dài trên 24 giờ sau phẫu thuật ung thư vú.
Từ khóa: Tê cạnh cột sống, tê vùng, đoạn nhũ, phẫu thuật ung thư vú, giảm đau, bupivacaine.
ABSTRACT
PARAVERTEBRAL BLOCK ANALGESIA FOR BREAST CANCER SURGERY.
Nguyen Thi Thanh, Nguyen Trung Thanh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 3 - 2011: 51 - 56
Background: Paravertebral block (PVB) alone or in addition to general anaethesia provide a better
postoperative pain control with little adverse effects compared with other analgesic treatment strategies for breast
cancer surgery.
Objectives: To evaluate the effectiveness and the safeness of paravertebral block with bupivacaine 0.5% for
breast cancer surgery.
Study design: case series.
Methods: Single Injection paravertebral block was given at the level of T1 T3 T6 with total dose 0.3ml/kg
bupivacaine 0.5% before general anaethesia was inducted in 10 women undergoing mastectomy and axillary
dissection surgery.
Results: From April 2011 to July 20011, 10 patients undergoing mastectomy with axillary dissection
surgery have received paravertebral block before general anesthesia. The verbal analogue pain scores were low
during 24 hours after surgery with VAS 0.6- 1.5. Ninety percent patients did not need any analgesic and only 1
* Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch ** Bệnh viện Nhân Dân Gia Định
Tác giả liên lạc: TS Nguyễn Thị Thanh, ĐT: 0918578857 Email: nguyenthithanh@pnt.edu.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 52
patient (10%) required paracetamol for pain relief. No serious complication and side-effect of block was seen.
Conclusions: Single injection paravertebral block is a simple, safe and effective technique in providing and
prolonging postoperative analgesia for breast cancer surgery.
Key words: Paravertebral block, regional anaesthesia, mastectomy, breast cancer surgery, analgesia,
bupivacaine.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phẫu thuật đoạn nhũ kết hợp nạo hạch nách
trong phẫu thuật ung thư vú là một phẫu thuật
lớn, đau nhiều sau mổ và có nguy cơ cao bị đau
mãn tính sau mổ. Giảm đau hiệu quả trong và
sau mổ giúp bệnh nhân hồi phục nhanh chóng,
đồng thời có thể phòng ngừa đau mãn tính.
Hiện nay phương pháp vô cảm thường dùng
trong phẫu thuật đoạn nhũ là gây mê toàn diện
và giảm đau sau mổ là sử dụng kết hợp các
thuốc giảm đau toàn thân.
Tê khoang cạnh cột sống đoạn ngực là kỹ
thuật tiêm thuốc tê vào khoang cạnh cột sống ở
đoạn ngực, nơi có chứa các rễ thần kinh xuất
phát từ tủy sống. Tê khoang cạnh cột sống đoạn
ngực là phương pháp đơn giản, hiệu quả, và an
toàn để giảm đau trong phẫu thuật một bên
vùng ngực, thậm chí có thể thay thế gây mê toàn
diện trong phẫu thuật ung thư vú(4,5,6). Tê cạnh
cột sống thực hiện lần đầu năm 1905 bởi Hugo
Sellheim. Nghiên cứu đầu tiên về tê khoang
cạnh cột sống đoạn ngực trong phẫu thuật ung
thư vú là năm 1994, đến nay đã có rất nhiều
nghiên cứu về kỹ thuật này đã chứng tỏ hiệu
quả giảm đau kéo dài sau phẫu thuật đoạn nhũ
với tỉ lệ biến chứng và nôn ói sau mổ thấp(5,6,7,8).
Một phân tích gộp từ 15 thử nghiệm lâm sàng
trên 877 bệnh nhân phẫu thuật ung thư vú đã
kết luận tê cạnh cột sống đơn độc hoặc phối hợp
mê toàn diện kiểm soát đau sau mổ tốt hơn với
ít tác dụng phụ khi so sánh với các phương thức
giảm đau khác(12). Tại bệnh viện Nhân dân Gia
Định, tê khoang cạnh cột sống được thực hiện
lần đầu vào năm 2007 và đã chứng minh là an
toàn và giảm đau hiệu quả trong phẫu thuật mở
ngực và ở bệnh nhân gãy nhiều xương sườn(9),
tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào thực hiện ở
bệnh nhân phẫu thuật ung thư vú.
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm
đánh giá hiệu quả và tính an toàn của tê cạnh
cột sống trong phẫu thuật ung thư vú với các
mục tiêu sau:
Xác định điểm đau trung bình VAS vào các
thời điểm sau mổ.
Xác định tỉ lệ sử dụng thêm thuốc giảm đau
trong và sau mổ.
Xác định sự thay đổi của mạch, huyết áp,
SpO2 trong và sau mổ.
Xác định tỷ lệ tai biến, tác dụng phụ.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả trường hợp bệnh.
Phương pháp nghiên cứu
Chọn mẫu
Tiêu chuẩn chọn mẫu: Bệnh nhân nữ ung
thư vú được phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch.
Tiêu chuẩn loại trừ: Trường hợp không thực
hiện theo đúng quy trình theo dõi và chăm sóc.
Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Từ tháng 4/2011 đến tháng 7 /2011 tại khoa
Gây Mê Hồi Sức bệnh viện Nhân Dân Gia Định
Quy trình nghiên cứu
Bệnh nhân được khám tiền mê ngày trước
mổ, được giải thích rõ về kỹ thuật cũng như các
tai biến, biến chứng và tác dụng phụ có thể xảy
ra trong và sau mổ của phương pháp tê cạnh cột
sống (TCCS) và ký cam kết đồng ý thực hiện.
Bệnh nhân được thực hiện TCCS ngay trước
khi khởi mê ở tư thế ngồi, xác định mốc tê cách
mỏm gai T1, T3, T6 2,5 cm về phía phẫu thuật.
Tê tại chổ với Lidocain 2% sau khi sát trùng da
với dung dịch Povidin. Thực hiện TCCS bằng
kim Tuohy 22G, đâm kim thẳng góc với mọi mặt
phẳng da để xác định độ sâu từ da đến mỏm
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 53
ngang. Sau đó, lùi kim ra và đổi hướng kim
xuống dưới trượt ra khỏi mỏm ngang vào sâu
thêm 1 cm so với khoảng cách da – mỏm ngang.
Thử cảm giác không có sức cản khi bơm thuốc.
Tiêm thuốc tê bupivacain 0,5% với liều 0,1ml/kg
ở mỗi vị trí.
Sau khi gây tê, bệnh nhân được gây mê và
đặt nội khí quản với midazolam 0,05 mg/kg,
sufentanil 0,2 µg/kg, propofol 2 mg/kg,
rocuronium 0,6 mg/kg. Duy trì mê với
isoflurane. Trong quá trình mổ, bệnh nhân được
cho thêm sufentanil 0,2µg/kg để giảm đau khi
M, HA tăng ≥ 30% so với số căn bản. Sau mổ
bệnh nhân được chuyển đến phòng Hồi tỉnh
theo dõi, rút nội khí quản khi tỉnh mê hoàn toàn.
Đánh giá điểm đau bằng thước chia độ đau
VAS vào các thời điểm: tỉnh mê, 1, 2, 4, 8, 12, 24
giờ sau mổ. Nếu VAS trên 3 điểm, bệnh nhân
được cho thêm giảm đau 1g Perfalgan
(paracetamol) truyền tĩnh mạch. > Nếu vẫn còn
đau sẽ lần lượt cho thêm Ketorolac 30mg TM,
Morphin 2-3mg TM.
Các số liệu cần thu thập
- Đặc điểm về dịch tễ học: tuổi, cân nặng,
chiều cao.
- Thời thực hiện thủ thuật (từ lúc sát
trùng da đến lúc kết thúc tiêm thuốc tê), thời
gian từ lúc kết thúc gây tê đến khi rạch da, thời
gian phẫu thuật.
- Khoảng cách da-mỏm ngang,
- Mạch, HA, SpO2 trước dẫn mê, trước và
ngay sau rạch da, cuối cuộc mổ. M, HA, nhịp
thở, SpO2, điểm đau VAS khi tỉnh mê ở các thời
điểm 1, 2, 4, 8, 12, 24 giờ sau mổ.
- Tổng liều Sufentanil trong mổ. Các
thuốc giảm đau sử dụng thêm sau mổ ngày thứ
1 và thứ 2.
- Các tai biến (chạm mạch, thủng màng
phổi, ngộ độc hay dị ứng thuốc tê). Các tác
dụng phụ: nôn ói, bí tiểu sau mổ.
Các số liệu được thu thập vào phiếu thu
thập số liệu cho từng trường hợp. Phân tích
số liệu bằng phần mềm thống kê SPSS 15.0.
Các biến số liên tục có phân phối chuẩn được
tình bày bằng số trung bình độ lệch chuẩn.
Các biến số định tính được trình bày bằng tần
suất và tỉ lệ phần trăm (%).
KẾT QUẢ
Đặc điểm dịch tễ
Trong thời gian 3 tháng từ tháng 4/2011 dến
tháng 7/2011, có 10 bệnh nhân nữ bị ung thư vú
được làm tê canh cột sống tiêm thuốc một lần để
phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch.
Tuổi trung bình là 55,0 ± 7,6 tuổi (tối thiểu 37
tuổi, tối đa 64 tuổi).
Cân nặng trung bình là 55,1 ± 8,9 kg (tối
thiểu 40 kg, tối đa 65 kg)
Chiều cao trung bình là 153,7 ± 4,4 cm (tối
thiểu 150 cm, tối đa 164 cm)
Khoảng cách da-mỏm ngang
Khoảng cách da-mỏm ngang trung bình ở
mức T1 là 3,9 ± 1,1 cm; ở mức T3 là 3,5 ± 0,8 cm
và ở mức T6 là 3,1 ± 0,9 cm.
Kỹ thuật
Thời gian thực hiện kỹ thuật trung bình là
13,0 ± 5,4 phút (tối thiểu 5 phút, tối đa 20 phút).
Thời gian từ tê - rạch da trung bình là 20,5 ±
6,8 phút (tối thiểu 10 phút, tối đa 30 phút).
Thời gian phẫu thuật trung bình là 142,5 ±
36,8 phút (tối thiểu 95 phút, tối đa 200 phút).
Hiệu quả giảm đau
Liều Sufentanil trung bình trong mổ là
14,5 ± 4,4 µg (tối thiểu 10 µg, tối đa 25 µg).
Không có bệnh nhân nào phải dùng thêm
sufentanil trong mổ.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 54
VAS sau mổ
Biểu đồ 1: VAS trung bình sau mổ
Mức độ đau:
Biểu đồ 2: Mức độ đau theo thời gian
Thuốc giảm đau dùng thêm sau mổ
Biểu đồ 3: Thuốc giảm đau dùng thêm sau mổ
Thay đổi sinh hiệu
Biểu đồ 4: Thay đổi mạch, huyết áp trung bình,
SpO2 trong và sau mổ
Tai biến-Tác dụng phụ
Ghi nhận 1 trường hợp chạm mạch khi
đâm kim ở T6, sau đó thực hiện lại và hiệu
quả giảm đau tốt, không ghi nhận tai biến hay
tác dụng phụ.
Các trường hợp khác, không ghi nhận tai
biến, tác dụng phụ nào khác liên quan kỹ thuật
tê và tai biến ngộ độc thuốc tê, không nôn ói hay
bí tiểu sau mổ.
BÀN LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy phương pháp
tê cạnh cột sống tiêm thuốc một lần có hiệu quả
giảm đau trong mổ và kéo dài đến 24 giờ sau
mổ phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch do ung thư
vú. Lượng sufentanil sử dụng trong mổ thấp,
trung bình 14,5 µg, chủ yếu được tiêm lúc dẫn
mê nhằm giảm đau do động tác đặt nội khí
quản gây ra. Trong quá trình mổ, bệnh nhân
không cần dùng thêm sufentanil. Sự thay đổi
mạch và huyết áp ở các thời điểm trong mổ
không có ý nghĩa thống kê đặc biệt là giữa thời
điểm trước và sau rạch da. Chín bệnh nhân
(90%) không cần dùng thêm thuốc giảm đau nào
24 giờ đầu sau mổ, một bệnh nhân đòi hỏi thêm
giảm đau (VAS 4) và chỉ cần thêm paracetamol
là đủ hiệu quả giảm đau. VAS trung bình là 0,7;
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 55
0,6; 0,7; 0;9; 1,3; 1,5 tương ứng các thời điểm 1, 2,
4, 8, 12, 24 giờ sau mổ. Kết quả nghiên cứu của
chúng tôi cũng tương tự nghiên cứu của
Terheggen với điểm đau VAS trung bình 1,1(13).
Tuy nhiên, so sánh với nghiên cứu của Kuma và
cộng sự, điểm VAS ở các thời điểm sau mổ
trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn nhiều.
Trong nghiên cứu của Kuma, điểm VAS là 2,5;
2,9; 3; 3,8; 4 tương ứng 1, 3, 6, 12, 24 giờ sau mổ
trong đó 22% bệnh nhân không dùng thêm giảm
đau, 52% bệnh nhân cần thêm diclofenac và 28%
bệnh nhân phải sử dụng thêm morphin để giảm
đau vết mổ trong 24 giờ đầu(6). Điều này có thể
do mẫu nghiên cứu của chúng tôi không đủ lớn
và đây chỉ mới là đánh giá bước đầu.
Về tai biến và biến chứng, nghiên cứu của
chúng tôi không nghi nhận tai biến hay tác
dụng phụ liên quan đến kỹ thuật tê và ngộ độc
thuốc tê. Khi thực hiện thủ thuật, có 1 trường
hợp chạm mạch khi đâm kim. Trường hợp này,
chúng tôi rút kim ra và thực hiện tê lại ngay; sau
đó ghi nhận giảm đau đạt kết quả tốt và không
ghi nhận bất thuờng gì sau đó.
Khác với tê ngoài màng cứng, tê cạnh cột
sống chỉ phong bế giao cảm một bên nên khả
năng gây tụt huyết áp và bí tiểu thấp. Điều này
cũng thể hiện rõ trong kết quả nghiên cứu của
chúng tôi với các chỉ số mạch và huyết áp ổn
định trong và sau mổ, không ghi nhận trường
hợp bí tiểu nào.
Có nhiều cách thực hiện tê cạnh cột sống
trong phẫu thuật đoạn nhũ: tê một điểm T4, tê
nhiều điểm từ T1-T7 hoặc tê cách khoảng T1,
T3, T6 như trong nghiên cứu của chúng tôi,
Các tác giả Châu Mỹ ưa chuộng tê nhiều
điểm, trong khi các tác giả Châu Âu thích tê ở
một điểm hơn. Mặc dù chưa có nghiên cứu
nào so sánh hiệu quả của các cách tiếp cận
trên, nhưng các tác giả đều chứng tỏ được
hiệu quả giảm đau qua các nghiên cứu của
mình(1,2,5,6,8,10,11,13) Chúng tôi cho rằng mỗi cách
tê đều có những mặt thuận lợi và bất lợi riêng.
Nếu tê ở một điểm thuận lợi cho sự thoải mái
của bệnh nhân vì chỉ bị đâm kim một lần
nhưng có bất lợi là sự lan rộng thuốc tê thay
đổi và sự liên tục của khoang cạnh cột sống
có thể bị giới hạn. Tê ở nhiều điểm thuận lợi
là sự lan rộng thuốc tê tốt hơn nhưng nguy cơ
đâm thủng các tổ chức lân cận (màng phổi,
màng cứng, mạch máu) càng tăng theo số
điểm chích tê và bệnh nhân kém thoải mái
hơn do bị đâm kim nhiều lần. Chúng tôi chọn
cách tê 3 điểm để dung hòa các thuận lợi và
bất lợi ở hai cách nêu trên.
Việc kéo dài thời gian giảm đau có thể thực
hiện bằng cách luồn catheter trong lúc TCCS cho
bệnh nhân và duy trì thuốc tê liên tục sau mổ.
Tuy nhiên nghiên cứu gần đây của Buckenmaier
đã không ủng hộ việc đặt catheter vì không có
khác biệt về hiệu quả giữa 2 nhóm TCCS có hay
không có luồn catheter(3). Do đó chúng tôi chọn
cách TCCS chỉ tiêm thuốc một lần vì tính đơn
giản và hiệu quả của nó. Hơn nữa, do khoang
cạnh cột sống chật hẹp nên việc luồn catheter
trong khoang cạnh cột sống khó hơn.
Tuy nhiên, đây là kinh nghiệm của các
trường hợp đầu tiên. Hiện nay, chúng tôi đang
tiến hành nghiên cứu ngẫu nhiên có nhóm
chứng trên cỡ mẫu lớn hơn để tiếp tục đánh giá
hiệu quả của phương pháp tê cạnh cột sống
trong giảm đau cho phẫu thuật ung thư vú.
KẾT LUẬN
Tê cạnh cột sống tiêm thuốc một lần là kỹ
thuật đơn giản, an toàn và có hiệu quả giảm đau
tốt, kéo dài trên 24 giờ sau phẫu thuật đoạn nhũ
nạo hạch.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Boughey JC, Goravanchi F, Parris RN, Kee SS, Frenzel JC, Hunt
KK, Ames FC, Kuerer HM, Lucci A (2009). Improved
postoperative pain control using thoracic paravertebral block for
breast operations. Breast J, 15: 483-8.
2. Boughey JC, Goravanchi F, Parris RN, Kee SS, Kowalski AM,
Frenzel JC, Bedrosian I, Meric-Bernstam F, Hunt KK, Ames FC,
Kuerer HM, Lucci A (2009). Prospective randomized trial of
paravertebral block for patients undergoing breast cancer
surgery. Am J Surg, 198: 720-5.
3. Buckenmaier III CC, Kwon KH, Haward RS, McKnight GM,
Shriver CD, Fritz WT, Garguilo GA, Joltes KH, Stojadinovic
A(2010). Double-blinded, Placebo-controlled, prospective
randomized, trial evaluating the efficacy of paravertebral block
with and without continuous paravertebral analgesia in
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 56
outpatient breast cancer surgery. Pain Medicine, 11: 790-9.
4. Crawford-Sykes AM, Chin DE, Hambleton IR (2004).
Paravertebral anaesthesia for breast surgery an initial experience
at the University Hospital of the West Indies. West Indian Med J,
53: 174-7.
5. Kairaluoma PM, Bachmann MS, Korpinen AK, Rosenberg PH,
Pere PJ (2004). Single-injection paravertebral block before
general anesthesia enhances analgesia after breast cancer surgery
with and without associated lymph node biopsy. Anesth Analg,
99(6): 1837-43.
6. Kumar A, Srivastava U, Saxena S, Kannaujia A K, Saraswat N,
Mishra A R, Sharma S (2009). Single Injection Paravertebral
Block for Major Cancer Breast Surgery. J Anaesth Clin
Pharmacol, 25: 281-284.
7. Marret E, Vigneau A, Salengro A, Noirot A, Bonnet F (2006).
Effectiveness of analgesic techniques after breast surgery: a meta-
analysis, Ann Fr Anesth Reanim, 25: 947-54.
8. Najarian MM, Johnson JM, Landercasper J, Havlik P, Lambert
PJ, McCarthy D (2003). Paravertebral block: an alternative to
general anesthesia in breast cancer surgery. Am Surg, 69: 213-8.
9. Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Thị Thanh, Huỳnh Vĩnh Phúc,
Lê Đình Trà Mân (2009). Đánh giá hiệu quả giảm đau của tê
cạnh cột sống trong giảm đau sau mổ lồng ngực và chấn thương
ngực gãy nhiều xương sườn.Y học TPHCM, 13: 236-40.
10. Ono K, Danura T, Koyama Y, Hidaka H (2005). Combined use
of paravertebral block and general anesthesia for breast cancer
surgery. Masui, 54:1273-6.
11. Pusch F, Freitag H, Weinstabl C, Obwegeser R, Huber E,
Wildling E (1999). Single-injection paravertebral block compared
to general anaesthesia in breast surgery. Acta Anaesthesiol
Scand, 43(7):770-4.
12. Schnabel A, Reich S U, Kranke P, Pogatzki E M, Zahn P K
(2010). Efficacy and safety of paravertebral blocks in breast
surgery: a meta-analysis of randomized controlled trials. British
Journal of Anaesthesia, 105: 842–52.
13. Terheggen M, Wille F, Rinkes I H B, Ionescu T U, Knape J T
(2002). Paravertebral Blockade for Minor Breast Surgery.Anesth
Analg, 94: 355–9.