Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 97
GIÁM SÁT CHẤT LƯỢNG THUỐC CHỐNG LÂY NHIỄM 
TẠI MỘT SỐ TỈNH Ở VIỆT NAM NĂM 2011 
Nguyễn Thị Minh Thu*, Tạ Thị Tĩnh*, Nguyễn Mạnh Hùng* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá chất lượng của các thuốc chống lây nhiễm tại một số tỉnh ở Việt Nam năm 2011 nhằm 
góp phần ngăn chặn hiện tượng thuốc giả và thuốc kém chất lượng đang lưu hành trên thị trường. 
Đối tượng, phương pháp: Tại 5 tỉnh Hà Giang, Điện Biên, Thanh Hóa, Quảng Trị và Bình Định, các chế 
phẩm của thuốc sốt rét, kháng sinh, chống lao và kháng virus được thu thập tại các cơ sở Nhà nước (lấy mẫu 
ngẫu nhiên) và tư nhân (phương pháp mù đơn). Với 6 tỉnh còn lại (Cao Bằng, Bắc Kạn, Nghệ An, Hà Tĩnh, 
Quảng Bình và Bình Phước), chỉ thu thập mẫu thuốc sốt rét. Các mẫu này đã được kiểm tra, đánh giá sàng lọc 
chất lượng (về cảm quan, độ tan rã và sắc ký lớp mỏng) tại các điểm sentinel và tại Viện Sốt rét - KST - CT TƯ 
bằng bộ kít GPHF-minilab. Tất cả các mẫu thuốc bị nghi ngờ về chất lượng và 5% số mẫu ngẫu nhiên được 
phân tích khẳng định chất lượng tại Viện Kiểm nghiệm thuốc Trung ương. 
Kết quả: Tổng số 589 mẫu thuốc chống lây nhiễm đã được thu thập tại các cơ sở y tế Nhà nước và tư nhân, 
trong đó có 307 mẫu thuốc sốt rét, 210 mẫu kháng sinh, 59 mẫu thuốc chống lao và 13 mẫu thuốc kháng virus. 
Bằng bộ kít Minilab GPHF, phát hiện mẫu CV artecan 96R1.10 không đạt chỉ tiêu về cảm quan và độ tan rã. 
Kiểm tra lại về chất lượng tại Viện Kiểm nghiệm thuốc Trung ương, phát hiện thêm mẫu Mekofan 380R1.10 
(sulfadoxin + pyrimethamin) không đạt chỉ tiêu về độ hòa tan của pyrimethamin. 
Kết luận: Có 2 mẫu thuốc sốt rét (CV artecan và Mekofan) là thuốc kém chất lượng, chiếm 0,34% (2/589) 
tổng số mẫu và 0,65% (2/307) số mẫu thuốc sốt rét thu được. Trong đó, CV artecan 96R1.10 kém chất lượng do 
được bảo quản chưa tốt. 
Từ khóa: thuốc chống lây nhiễm, giám sát chất lượng thuốc, phân tích sàng lọc, phân tích khẳng định chất 
lượng, thuốc giả, thuốc kém chất lượng, CV artecan, Mekofan. 
ABSTRACT 
MONITORING ANTI-INFECTIVE MEDICINES QUALITY IN SOME SENTINEL SITES OF VIETNAM 
IN 2011 
Nguyen Thi Minh Thu, Ta Thi Tinh, Nguyen Manh Hung 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 97 - 102 
Objectives: monitoring anti-infective drugs quality in 11 sentinel sites of Vietnam in 2011 to contribute to 
reducing substadard and counterfeit drugs in the field. 
Materials and methods: All available antimalarial, antitubercular, anti retroviral drugs and selected 
antibiotics were collected randomly from public health facilities and one-blindly collected from private sectors in 
five provinces including Ha Giang, Dien Bien, Thanh Hoa, Quang tri and Binh Dinh. In the other sentinel sites 
(Cao Bang, Bac Kan, Nghe An, Ha Tinh, Quang Binh and Binh Phuoc), only available antimalarials were 
chosen. All of collected samples were screen analized by GPHF-minilab kits at sentinel sites and NIMPE 
according to GPHF monographs for specifications of visual and phisical inspections, disintergration tests and thin 
  Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương 
Tác giả liên lạc: TS. Nguyễn Thị Minh Thu ĐT: (04) 3553 7958 E-mail: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 98
layer chromatography assays. All suspected quality samples by GPHF minilabs and 5% randomly of collected 
samples were sent to National Institute of Drug Quality Control (NIDQC) for confirmatory tests. 
Results: Total of 589 anti-infective medicine samples (of which with 307 available antimalarials, 59 
antituberculosis, 13 antiretroviral drugs and 210 selected antibiotics) were collected from public and private 
health facilities in 11 sentinel sites. With GPHF-minilab kits, CV artecan film coated tablets (code 96R1.10, OPC 
pharmaceutical JSC., lot 00108, expiry date in December 2011, collected from a public medical station in Quang 
Tri province) had both failed visual inspection and disintegration tests with yellow coated film differentiating from 
their green coated film as in its internal criterion and no disintegration (only bloating). Except CV artecan 
96R1.10 sample, Mekofan tablets (code 380R1.10, Mekophar pharmaceutical JSC., lot 08001AN, expiry date in 
December 2012, colleceted form a private pharmacy in Dien Bien province) was found as a substandard drug by 
confirmatory test but Minilab test. Mekofan did not pass dissolution test with failed pyrimethamine dissolution. 
Conclusions: Two antimalarial drugs (CV artecan and Mekofan) were found as substandard drugs, rated 
0.34% (2/589) of total samples and 0.65% (2/307) of altimalarials, in which CV artecan 96R1.10 substandard 
sample might be due to being stored in not good conditions. 
Keywords: anti-infective medicines, drug monitoring, screen analizing, confirmatory tests, substandard and 
counterfeit drugs, CV artecan, Mekofan. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Những năm qua, nạn buôn bán thuốc giả đã 
thu lợi nhuận đến hàng tỷ USD. Theo Tổ chức Y 
tế thế giới (WHO), tốc độ tăng trưởng của 
“ngành công nghiệp tội lỗi” này lên tới 100% từ 
năm này sang năm khác. Thuốc giả chiếm tới 30-
50% lượng dược phẩm lưu hành trên thị trường 
ở một số nước đang phát triển. Chỉ trong 2 
tháng cuối năm 2008, lực lượng hải quan đã thu 
giữ 34 triệu đơn vị dược phẩm giả trên các biên 
giới của liên minh châu Âu và chỉ trong 2 năm, 
lượng thuốc giả nhập vào châu Âu đã tăng gấp 
6 lần (Sức khỏe và đời sống, số 64, ngày 22/4/2010). 
Ở khu vực Đông Nam Á / Tây Thái Bình 
Dương, ước tính có khoảng 10-35% các thuốc 
được sản xuất không đúng phương pháp hay 
được sản xuất và bán không hợp pháp. Theo 
PQM (Dự án tăng cường chất lượng thuốc, Hội 
đồng Dược điển Mỹ, USP), năm 2004, ở một số 
nước khu vực sông Mekong và vùng lân cận, tỷ 
lệ artesunat không chứa hoạt chất (artesunat giả) 
chiếm tới 44%. Đến năm 2008, tỷ lệ này giảm 
xuống < 20%(6). 
Các thuốc giả và thuốc kém chất lượng góp 
phần gây thất bại điều trị, kéo dài thời gian nằm 
viện - điều trị bệnh và trong một số trường hợp 
có thể dẫn đến phát triển hiện tượng kháng 
thuốc. Thuốc giả và thuốc kém chất lượng có thể 
gây những tác hại nghiêm trọng với sức khỏe 
người bệnh, thậm chí gây tử vong. Vì vậy, việc 
phát hiện và ngăn chặn thuốc giả và thuốc kém 
chất lượng lưu hành trên thị trường là vô cùng 
cần thiết và cấp bách. 
Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm đánh giá 
chất lượng các chống lao, kháng virus, thuốc sốt 
rét và một số kháng sinh thông dụng tại một số 
tỉnh của Viêt Nam năm 2011 để có thể tham 
mưu giúp các cơ quan chức năng ngăn chặn 
hiện tượng thuốc giả và kém chất lượng đang 
lưu hành trên thị trường. 
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP 
Thời gian và địa điểm nghiên cứu 
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 3-
10/2011 tại 5 tỉnh sentinel của Dự án Hợp tác với 
Hội đồng Dược điển Mỹ (gồm Hà Giang, Điện 
Biên, Thanh Hóa, Quảng Trị và Bình Định), 5 
tỉnh sentinel của dự án Quỹ toàn cầu phòng 
chống sốt rét Việt Nam (Cao Bằng, Bắc Kạn, 
Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình) và 01 tỉnh 
thuộc chương trình ngăn chặn ký sinh trùng sốt 
rét kháng thuốc (tại Bình Phước). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 99
Hình 1: Thuốc phát hiện được tại một cơ sở sản xuất 
thuốc không hợp pháp 
Đối tượng nghiên cứu 
Các chế phẩm của các thuốc sốt rét, kháng 
sinh, chống lao và kháng virus được thu thập tại 
các cơ sở Nhà nước và tư nhân (gồm: trung tâm 
y tế huyện, tỉnh, bệnh viện, các trạm y tế xã, các 
hiệu thuốc và quầy thuốc tư nhân) trên địa bàn 5 
tỉnh Hà Giang, Điện Biên, Thanh Hóa, Quảng 
Trị và Bình Định. Tại mỗi tỉnh, chọn 3 huyện 
điển hình, mỗi huyện chọn từ 2-3 xã để thu mẫu 
ngẫu nhiên. 
Đối với 6 tỉnh còn lại (Cao Bằng, Bắc Kạn, 
Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và Bình Phước), 
chỉ thu thập mẫu thuốc sốt rét và kiểm tra đánh 
giá chất lượng. Mỗi tỉnh chọn 2 huyện, trong đó 
mỗi huyện chọn từ 2-4 xã để thu thập mẫu. 
Mỗi mẫu thuốc là một dạng chế phẩm được 
thu thập với số lượng đủ để phân tích kiểm 
nghiệm chất lượng (kiểm tra sàng lọc tại các 
điểm sentinel và Viện Sốt rét - KST - CT TƯ; 
kiểm nghiệm các mẫu thuốc bị nghi ngờ về chất 
lượng và 5% mẫu ngẫu nhiên tại Viện Kiểm 
nghiệm thuốc Trung ương). 
Chất chuẩn do GPHF (German Pharma 
Health Fund) cung cấp. 
Phương tiện dùng trong nghiên cứu 
- Bộ kít để kiểm tra độ hòa tan và chạy sắc 
ký lớp mỏng (phân tích sàng lọc) do GPHF cung 
cấp, gồm các dụng cụ như: bản mỏng silicagel (5 
x 10 cm), mao quản 2 L, các pipet chia vạch, 
ống đong, lọ thủy tinh có dung tích khác nhau, 
bình triển khai sắc ký, các đĩa petri, chày, đèn tử 
ngoại UV 254 và 365 nm, giấy lọc,... 
- Hóa chất dùng trong phân tích mẫu thuốc 
bằng sắc ký lớp mỏng: acetone, acetonitril, ethyl 
acetate, methanol, ethanol, toluene, ammoniac, 
acid chlohydric, acid acetic, acid sulfuric, iod, 
do GPHF cung cấp. 
- Túi vuốt mép để bảo quản mẫu thu thập 
được, kính lúp. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thu thập mẫu thuốc 
Tại mỗi cơ sở nhà nước, các mẫu thuốc được 
thu thập ngẫu nhiên và được đánh số thứ tự. 
Với các chế phẩm là viên nén hoặc viên nang, 
mỗi mẫu thuốc được thu thập gồm ít nhất 50 
viên; với chế phẩm thuốc tiêm, mỗi mẫu được 
lấy ít nhất 10 đơn vị (ống, lọ); với các chế phẩm 
là thuốc nước (nhỏ mắt, nhỏ tai,...) hay dạng 
thuốc bột đóng gói, mỗi mẫu thuốc được lấy ít 
nhất 30 đơn vị. Tại các cơ sở y tế tư nhân, mẫu 
thuốc được thu thập theo phương pháp mù 
đơn, với số lượng mẫu như trên. 
Các mẫu thuốc thu thập được bảo quản 
trong các túi ni lông vuốt mép, đánh mã số và 
được ghi nhãn với đầy đủ các thông tin gồm: 
mã số, tên thuốc, hàm lượng, số lô, ngày sản 
xuất, hạn dùng, số đăng ký (nếu có), nơi sản 
xuất, nơi thu mẫu và thời gian thu mẫu. 
Mỗi mẫu thuốc sẽ có một biểu mẫu tương 
ứng ghi đầy đủ các thông tin liên quan đến 
thuốc đó kèm theo một báo cáo kết quả phân 
tích mẫu (mẫu này được điền đầy đủ sau khi 
hoàn tất các phép phân tích đánh giá chất lượng 
thuốc). 
Phân tích sàng lọc mẫu 
Khoảng 1/5-1/4 số mẫu thuốc thu thập tại 
thực địa sẽ được phân tích sàng lọc ngay tại các 
Trung tâm Kiểm nghiệm thuốc, dược phẩm hay 
Trung tâm Phòng chống sốt rét của tỉnh, nơi đặt 
các bộ kít Minilab GPHF của dự án. Toàn bộ số 
thuốc còn lại được phân tích sàng lọc tại Khoa 
Nghiên cứu điều trị sốt rét, Viện Sốt rét - KST - 
CT Trung ương. Các tiêu chí đánh giá gồm: 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 100
- Cảm quan: màu sắc, hình dạng, kích 
thước,....; kiểm tra xem thuốc có bị vẩn đục, 
nhiễm nấm mốc, biến màu hay không (với thuốc 
là chất lỏng); kiểm tra xem viên thuốc có bị chảy 
nước, mất góc cạnh, biến màu, long bột thuốc,... 
hay không (với thuốc viên nén, viên nang, hay 
thuốc bột). 
- Độ rã: không quá 30 phút với các thuốc 
thông thường. 
- Sắc ký lớp mỏng (Thin layer chromatography 
TLC): Phương pháp kiểm tra và phân tích từng 
loại thuốc được tiến hành theo “Sổ tay hướng 
dẫn kiểm tra chất lượng các thuốc thiết yếu” của 
German Pharma Health Fund (GPHF)(1, 2, 3, 4, 5). 
Phân tích dữ liệu, báo cáo và phản hồi 
Các thuốc được đánh giá là “đạt” hay 
“không đạt” và được xếp loại “thuốc kém chất 
lượng”, “thuốc giả”, “thuốc đạt chỉ tiêu chất 
lượng” dựa trên các tiêu chí của nhà sản xuất 
(Tiêu chuẩn cơ sở) hoặc theo Dược điển Việt Nam 
IV. 
Kết quả về chất lượng các thuốc thu thập 
được phản hồi lại cho các đơn vị có liên quan tại 
các điểm nghiên cứu (11 tỉnh đã được thu mẫu). 
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 
Tổng số có 589 mẫu thuốc sốt rét, chống lao, 
thuốc kháng virus và kháng sinh đã được thu 
thập tại 11 tỉnh của Việt Nam (Hà Giang, Điện 
Biên, Thanh Hóa, Quảng Trị, Bình Định, Cao 
Bằng, Bắc Kạn, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình 
và Bình Phước) từ tháng 3-10/2011 (xem bảng 1). 
* Một mẫu artesunat 50 mg thu được tại một 
hiệu thuốc tư nhân thuộc xã Đăk Ngo, huyện 
Tuy Phước, tỉnh Đăk Nông cũng được phân tích 
trong số này. 
Bảng 1. Các thuốc chống lây nhiễm thu được từ 11 tỉnh của Việt Nam năm 2011 
STT Địa điểm thu mẫu Số lượng mẫu thu thập được (n) Cộng 
Thuốc sốt rét Thuốc chống lao Thuốc kháng virus Kháng sinh 
1 Hà Giang 16 07 05 52 80 
2 Quảng Trị 22 11 0 27 60 
3 Bình Định 32 24 08 46 110 
4 Thanh Hóa 36 05 0 48 89 
5 Điện Biên 20 12 0 37 69 
 Cộng 5 tỉnh 126 59 13 210 408 
6 Cao Bằng 27 - - - 27 
7 Bắc Kạn 25 - - - 25 
8 Nghệ An 22 - - - 22 
9 Hà Tĩnh 28 - - - 28 
10 Quảng Bình 30 - - - 30 
11 Bình Phước 49* - - - 49 
 Cộng 6 tỉnh 181 - - - 181 
 Cộng 11 tỉnh 307 589 
Trong số 5 tỉnh thuộc dự án hợp tác với Hội 
đồng Dược điển Mỹ (USP) với mục tiêu giám 
sát chất lượng của 4 nhóm thuốc chống lây 
nhiễm, số lượng các mẫu thuốc kháng sinh thu 
thập được tại các cơ sở y tế nhà nước và tư nhân 
đạt cao nhất (210/408 mẫu, 51,47%). Trong khi 
đó, số lượng các mẫu thuốc kháng virus (13/408 
mẫu, 3,19%) và thuốc chống lao (59/408 mẫu, 
14,46%) thu được ít hơn có ý nghĩa thống kê so 
với các thuốc còn lại (P < 0,05). Điều này cũng 
dễ hiểu vì số lượng và các dạng chế phẩm của 
kháng sinh trên thị trường rất đa dạng, phong 
phú và dễ thu mua ở bất cứ cơ sở y tế nào (cả 
nhà nước và tư nhân), trong khi đó các thuốc sốt 
rét (126/408 mẫu, 30,88%) chỉ có thể thu thập 
được ở các cơ sở y tế thuộc vùng sốt rét lưu 
hành, vùng sâu vùng xa; đặc biệt là thuốc kháng 
virus và chống lao thì thường do y tế tuyến 
huyện quản lý, rất hiếm khi chuyển đến tuyến 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 101
xã và hầu như không thể tự mua thuốc kháng 
virus và thuốc chống lao tại các hiệu thuốc tư 
nhân (ngoại trừ rifampicin, kháng sinh có tác 
dụng điều trị lao). 
Với 6 tỉnh còn lại (chỉ thu thập mẫu thuốc 
sốt rét), số lượng thuốc sốt rét thu được tại Bình 
Phước đạt cao nhất (49/181 mẫu, 27,07%) và 
cũng dễ dàng mua được thuốc sốt rét tại các 
hiệu thuốc tư (ở vùng trọng điểm) trên địa bàn 
của tỉnh này. Các thuốc sốt rét thu thập được, 
gồm: Artesunat 60 mg (lọ bột pha tiêm), 
Artesunat 50 mg (viên nén), Primaquin 
phosphat 13,2 mg (viên nén), Arterakine (viên 
nén 40 mg dihydroartemisinin và 320 mg 
piperaquin phosphat), CV artecan (viên nén bao 
phim chứa 40 mg dihydroartemisinin và 320 mg 
piperaquin phosphat), Chloroquin phosphat 250 
mg (viên nén), Quinin sulfat 250 mg (viên nén) 
và Mekofan (viên nén chứa 500 mg sulfadoxin 
và 25 mg pyrimethamin). Trong số đó, 
Artesunat 50 mg và Mekofan chỉ có thể thu mua 
được từ các quầy thuốc, hiệu thuốc tư nhân, 
không thể tìm thấy tại các cơ sở y tế nhà nước; 
bởi vì cả hai thuốc này đều không nằm trong 
chiến lược sử dụng thuốc sốt rét của Việt Nam 
(Mekofan bị loại bỏ do bị ký sinh trùng kháng 
cao, Artesunat 50 mg không còn được dùng đơn 
thuần để điều trị sốt rét ở Việt Nam từ cuối năm 
2009). 
Các thuốc chống lao gồm: Isoniazid 300 mg 
(viên nén bao phim), Ethambutol 400 mg (viên 
nén), Turbezid (viên nén bao phim chứa 150 mg 
Rifampicin + 75 mg isoniazid + 400 mg 
Pyrazinamid), Turbe (viên nén bao phim chứa 
150 mg Rifampicin và 100 mg of isoniazid), 
Cycloserin 250 mg (hiếm, chỉ có 01 mẫu) và 
Peteha (Prothinamide 250 mg) được thu thập tại 
các cơ sở y tế nhà nước từ tuyến huyện trở lên. 
Trong số các thuốc chống lao thu được, chiếm 
đại đa số là isoniazid, ethambutol và Tuberzid, 
các thuốc khác chiếm tỷ lệ thấp hơn có ý nghĩa 
thống kê (P < 0,05). 
Các thuốc kháng virus được kiểm soát chặt 
chẽ hơn và hầu hết đều được thu thập tại các cơ 
sở y tế trực thuộc tỉnh, ngoại trừ 01 mẫu Tamiflu 
75 mg thu được ở 01 Trung tâm Y tế huyện, 
không thu mua được ở các cơ sở y tế tư nhân. 
Các kháng sinh thông dụng thu được gồm 
các kháng sinh đơn thuần và phối hợp thuộc các 
họ và nhóm: beta-lactamin, aminosid, phenicol, 
macrolid, tetracyclin, quinolon và sulfamid, kể 
cả Rifampicin và Levofloxacin được dùng để 
điều trị lao. Levofloxacin rất hiếm do giá thành 
cao và chỉ thu được 01 mẫu tại Bệnh viện Lao và 
bệnh phổi tỉnh Bình Định. 
Tất cả các mẫu thuốc thu được đều được 
kiểm tra đánh giá chất lượng (phân tích sàng lọc 
về cảm quan, độ rã và sắc ký lớp mỏng) tại các 
điểm sentinel và tại Viện Sốt rét - KST - CT TƯ 
bằng bộ kít GPHF minilab. Trong số đó có 01 
mẫu thuốc sốt rét là CV artecan (viên nén bao 
phim, mã số 96R1.10, Công ty cổ phần Dược 
phẩm OPC sản xuất, lô 00108, hạn dùng tháng 
12/2011, thu được tại một trạm y tế xã thuộc tỉnh 
Quảng Trị) bị nghi ngờ về chất lượng do không 
đạt cả hai chỉ tiêu về cảm quan và độ tan rã. 
Mẫu CV artecan này có màu vàng (khác với 
màu xanh lá trong tiêu chuẩn cơ sở) và không 
tan rã, chỉ trương nở. 
Mẫu 96R1.10 và 5% ngẫu nhiên số mẫu thu 
thập được đã được chuyển sang Viện Kiểm 
nghiệm thuốc Trung ương để kiểm tra lại chất 
lượng theo các tiêu chuẩn cơ sở. Kết quả cho 
thấy: có hai mẫu là thuốc kém chất lượng gồm 
CV artecan 96R1.10 và Mekofan 380R1.10. Giống 
như kết quả kiểm tra sàng lọc bằng bộ kít GPHF-
minilab, CV artecan 96R1.10 không đạt hai chỉ 
tiêu về cảm quan và độ hòa tan. Mẫu Mekofan 
380R1.10 (viên nén, Công ty cổ phần Dược 
phẩm Mekophar sản xuất, lô 08001AN, hạn 
dùng tháng 12/2012, thu được tại một hiệu thuốc 
tư nhân trên địa bàn tỉnh Điện Biên) không đạt 
chỉ tiêu về độ hòa tan của Pyrimethamin. Ngược 
lại với mẫu 96R1.10, một số mẫu CV artecan 
tương tự (cũng do OPC sản xuât, có cùng số lô 
và hạn dùng, như hai mẫu 144R1.10 và 
165R1.10) thu thập được tại một trung tâm y tế 
huyện và trạm y tế xã của tỉnh Bình Định lại cho 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 102
kết quả tốt khi kiểm tra sàng lọc bằng bộ kít. 
Điều này cho thấy, 96R1.10 có thể đã được bảo 
quản không tốt do đó làm ảnh hưởng đến chất 
lượng thuốc. Kết quả này một lần nữa chứng tỏ 
rằng, bảo quản thuốc tốt cũng là một khâu quan 
trọng trong hệ thống đảm bảo chất lượng thuốc. 
Cả hai thuốc kém chất lượng đều là các 
thuốc sốt rét, chiếm 0,34% (2/589) tổng số mẫu 
và 0,65% (2/307) số mẫu thuốc sốt rét thu được. 
Tỷ lệ này cao hơn so với tỷ lệ thuốc sốt rét giả và 
kém chất lượng được phát hiện tại 9 tỉnh của 
Việt Nam từ năm 2003-2009 (2/804, 0,25%) (theo 
“Dự án tăng cường chất lượng thuốc”(6)). 
KẾT LUẬN 
Đã thu thập được 589 mẫu thuốc chống lây 
nhiễm tại các cơ sở y tế nhà nước và tư nhân 
thuộc 11 tỉnh của Việt Nam từ tháng 3-10/2011, 
gồm 307 mẫu thuốc sốt rét, 210 mẫu kháng sinh, 
59 mẫu thuốc chống lao và 13 mẫu thuốc kháng 
virus. 
Kết quả kiểm tra đánh giá sàng lọc chất 
lượng thuốc tại các điểm sentinel và tại Viện Sốt 
rét - KST - CT TƯ bằng bộ kít GPHF Minilab cho 
thấy mẫu CV artecan 96R1.10 là thuốc kém chất 
lượng. 
Đã kiểm tra chất lượng của 96R1.10 và 5% số 
mẫu thu được tại Viện Kiểm nghiệm thuốc 
Trung ương, phát hiện hai mẫu thuốc là CV 
artecan (96R1.10, công ty Cổ phần Dược phẩm 
OPC) và Mekofan (380R1.10, công ty CPDP 
Mekophar) là thuốc kém chất lượng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. German Pharma health fund (GPHF) and Medical mission 
institute (1998). A concise quality control guide on essential drugs, 
Vol.2, Thin layer chromatography 
2. German Pharma health fund (GPHF) and Medical mission 
institute (1999). A concise quality control guide on essential drugs, 
Supplement to Vol.2, Thin layer chromatography 
3. Jahnke RWO, Kallmayer HJ, Breyer C and Green MD (2002). 
A concise quality control guide on essential drugs and other 
medicines, Second supplement to volume I on colour reactions, 
extension 2002, ten new drugs plus chloroquine 
4. Jahnke RWO, Schuster A (2002). A concise quality control guide 
on essential drugs and other medicines, Second supplement to 
volume II on thin layer chromatography, extension 2002, ten 
new drugs 
5. Ja